Xem mẫu

  1. Sự hình thành tư duy và một số đặc trưng của nó Nguyễn Thanh Tân Tạp chí Triết học Tư duy con người luôn là một trong những vấn đề lớn của triết học. Nhưng tư duy là gì thì cho đến nay, vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong bài viết này, trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng tôi muốn góp thêm một ý kiến nhằm làm rõ sự hình thành tư duy và một số đặc trưng của nó. 1. Sự hình thành tư duy. Khi đưa ra nhận xét về vai trò của những hoạt động sống trong đời sống của con người cũng như con vật, C.Mác đã phân biệt rõ: "Con vật đồng nhất trực tiếp với hoạt động sinh sống của nó. Nó không tự phân biệt nó với hoạt động sinh sống của nó. Nó là hoạt động sinh sống ấy. Còn con người thì làm cho bản thân hoạt động sinh sống của mình trở thành đối tượng của ý chí và của ý thức của mình. Hoạt động sinh sống của con người là hoạt động sinh sống có ý thức. Đó không phải là cái tính quy định mà con người trực tiếp hòa làm một với nó. Hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh sống của con vật. Con người phân biệt với con vật bởi hoạt động sinh sống có ý thức của họ. Nhưng ý thức là gì mà với nó, trong hoạt động của mình, con người tự phân biệt với con vật? Trả lời vấn đề này, C.Mác cho rằng, ý thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó", còn V.I.Lênin thì cho rằng, ý thức là phản ánh chủ quan của thế giới khách quan". Vậy, có thể khái quát theo quan điểm duy vật biện chứng rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong bộ não người một cách năng động và sáng tạo. Lao động là phương thức hoạt động sinh sống của con người. Trong lao động diễn ra một quá trình gồm hai chiều liên quan mật thiết với nhau. Chiều thứ nhất, hoạt động được vật hoá vào trong sản phẩm, tác lao động chuyển từ hình thái "động" sang hình thái "tĩnh”. Chiều thứ hai, "di chuyển" các khách thể vào bộ não người, cải biến đi và tạo ra trong đó những hình ảnh chủ quan hay ý thức. Chiều thứ hai chính là hoạt động phản ánh của con người, hoạt động sản sinh ra ý thức. Hoạt động phản ánh của con người là hết sức phức tạp, song về đại thể, có thể đưa một cách tương đối thành hai mặt: xúc cảm và nhận thức. Xúc cảm tạo ra những tình cảm nói lên mục đích và điều khiển hành động của con người với đối tượng bằng cách gán giá trị cho các mục tiêu của chúng. Nhận thức thể hiện sự phản ánh hướng đến nắm bắt khách thể cùng các phương tiện, phương pháp hoạt động và sản sinh ra những tri thức cung cấp “cái kỹ thuật" cho con người trong hành động của họ. Xúc cảm và nhận thức trong hoạt động phản ánh của con người gắn bó mật thiết với nhau, chúng ta thấy ở các hiện tượng ý thức, không có sự hiểu biết nào lại không đi kèm với những tình cảm nhất định và cũng
  2. không có tình cảm nào lại không hàm chứa một sự hiểu biết nhất định. Sự gắn bó hữu cơ giữa xúc cảm và nhận thức cho phép chúng ta có thể coi hoạt động phản ánh của con người như là quá trình nhận thức và do đó không có nhận thức thì nói chung, cũng không có ý thức. Thoạt đầu, ý thức thường chỉ là những hình ảnh của con người về thế giới các sự vật, hiện tượng bên ngoài. Sự phát triển xã hội ngày càng làm cho lao động trở thành phương thức sinh sống duy nhất của tồn tại người và do đó, cũng làm cho ý thức trở thành hình thức phản ánh phổ biến mang đặc trưng người. Khi đó, ý thức được mở rộng ra và bao quát toàn bộ đời sống con người, cả thế giới các sự vật, hiện tượng bên ngoài lẫn hoạt động của con người và do vậy, bản thân hoạt động với đối tượng cũng được con người ý thức, tức là con người ý thức về các hành động của chính mình. Đây chính là điều mà theo C.Mác, nhờ nó, con người biến bản thân hoạt động sinh sống của mình thành đối tượng của ý thức. Và, chỉ khi con người ý thức được hoạt động của mình thì khi đó, mới có sự "di chuyển" (có cải biến) hoạt động vật chất bên ngoài vào trong đầu óc họ và cũng chỉ khi đó, không chỉ đối tượng và kết quả hoạt động, mà cả những hành động và thao tác thực tiễn của con người mới được phản ánh vào trong đầu óc họ. Lúc này, những hành động và thao tác thực tiễn bên ngoài của con người trở nên có ý nghĩa điệu bộ, thông báo và lời nói, chúng được ghi lại, giữ lại và cải biến đi trong bộ não của họ thành những hành động và thao tác trí óc, làm cho "ý thức - hình ảnh” trở thành "ý thức - hoạt động". Nói cách khác, ý thức đã trở thành hoạt động. Và với tư cách là hoạt động, ý thức có tính độc lập tương đối với thế giới đối tượng và ở chừng mực nhất định, đã được giải thoát khỏi sự chi phối trực tiếp của thực tiễn cảm tính của con người. Ý thức - hoạt động, về đại thể, cũng có mặt xúc cảm và mặt nhận thức. Mặt xúc cảm vẫn tạo ra những tình cảm xác định mục đích và gán giá trị cho các mục tiêu hành động của con người. Nhưng lúc này, xúc cảm có trình độ cao hơn, nó trở thành một hoạt động bên trong ý thức và những đánh giá do nó thực hiện được nâng lên dưới sự chỉ dẫn của tri thức, làm cho các tình cảm hàm chứa yếu tố trí tuệ nhiều hơn. Mặt nhận thức vẫn là hoạt động nắm bắt khách thể cùng các phương thức và phương tiện hoạt động, sản sinh ra những tri thức cung cấp kỹ thuật cho các hành động của con người. Song lúc này, nhận thức đã được nâng lên trình độ cao hơn, trở thành một hoạt động trí óc diễn ra ngay bên trong các hiện tượng ý thức. Nhận thức trở thành hoạt động của tri thức sản sinh ra tri thức. Ở bình diện ý thức - hoạt động, nhận thức con người phản ánh được cả bản thân hoạt động của họ. Khi hoạt động được nhận thức thì các tri thức được sản sinh ra trở nên có nội dung hoạt động. Nói cách khác, nhận thức sản sinh ra những tri thức và truyền cho chúng cả nội dung hoạt động. Mỗi tri thức có nội dung hoạt động bao giờ cũng là một "hình ảnh tổng thể" về đối tượng, về phương tiện và phương pháp hoạt động, về những hành động và thao tác thực tiễn của con người với đối tượng và về cả bản thân chủ thể hoạt động: Do vậy, có thể nói, tri thức có nội dung hoạt động thực sự là một hệ thống. Nội dung hoạt động của tri thức chính là hiện thực khách quan, bao gồm các đối tượng vật chất, các phương tiện và phương pháp, các hành động và thao tác vật chất của con người với đối tượng đã dược phản ánh trong nhận thức của họ. Với những tri thức có nội dung hoạt động thì một dạng nhận thức cao hơn của con người xuất hiện, đó là tư duy. Nếu nhận thức nói chung được hiểu là sự phản ánh có cải biến thế
  3. giới khách quan trong đầu óc con người và sản sinh ra ở trong đó những tri thức, thì tư duy là kệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức. Tư duy là mặt nhận thức của. ý thức - hoạt động và do vậy, nếu không có nhận thức, không có ý thức thì con người cũng không có tư duy. Dĩ nhiên, không phải cứ có nhận thức và ý thức là con người đã có tư duy. Con người có tư duy khi nhận thức của họ phản ánh được hoạt động vào trong ý thức. Điều đó cho thấy, tư duy không hoàn toàn đồng nhất với ý thức, nó là mặt nhận thức của ý thức - hoạt động. Tư duy cũng không đồng nhất với nhận thức nói chung, mà là nhận thức ở trình độ cao, trình độ con người phản ánh được hoạt động của họ vào trong ý thức. Sự xuất hiện của tư duy đánh dấu bước phát triển căn bản của nhận thức con người, khi nhận thức đạt tới trình độ có thể nắm bắt được bản chất, quy luật của hiện thực khách quan. Cùng với tư duy của mình, con người chính thức trở thành chủ thể của các quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội của mình. 2. Những đặc trưng của tư duy. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của tư duy. Nhũng đặc trưng đó là: Thứ nhất, tư duy là dạng hoạt động tri thức diễn ra trong ý thức con người,có nguồn gốc thực tiễn. Dạng hoạt động này có cơ cấu gồm các hành động và thao tác của trí óc. Những hành động và thao tác trí óc có nguồn gốc từ những hành động và thao tác thực tiễn trong lao động của con người lao động xét như là phương thức tồn tại phổ biến của cộng đồng người. Chính nhận thức đã phản ánh lao động vào trong bộ não người, cải biến đi ở trong đó các hành động và thao tác trí óc. Sự phát triển của lao động quyết định sự xuất hiện và hoàn thiện các hành động, các thao tác trí óc trong tư duy của con người, ngược lại sự phát triển tư duy con người cũng có tác dụng hoàn thiện các hành động và thao tác thực tiễn trong lao động của họ. Thứ hai, tư duy là một dạng nhận thức nảy sinh khi có những hệ thống tri thức làm tiền đề. Các tri thức tiền đề đều được đem lại bởi nhận thức, nhưng để được đưa vào quá trình tư duy nào đó, chúng phải có nội dung hoạt động và phù hợp với logic hoạt động của lao động, tức là phù hợp với tính quy luật của những hành động và thao tác thực tiễn của lao động. Tư duy sản sinh ra tri thức dựa trên hệ tri thức có trước làm tiền đề và do vậy, nó là dạng nhận thức gián 'tiếp. Không có hệ tri thức làm tiền đề, chỉ có thể có nhận thức mà chưa có tư duy. Tư duy cũng là sự vận động của các hệ thống tri thức. Nếu chỉ dựa trên một số hữu hạn những tri thức làm tiền đề thì quá trình tư duy sẽ có lúc phải dừng lại. Cho nên, để tư duy liên tục diễn ra thì phải thường xuyên bổ sung thêm những tri thức mới, những tài liệu mới được đem lại bởi nhận thức trên cơ sở vận động của hiện thực và sự phát triển của lao động. Thứ ba, với tư cách là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức, tư duy con người đòi hỏi một bộ máy công cụ và phương tiện nhất định. Không có bộ máy này thì hệ tri thức không thể đi vào hoạt động và vì thế, cũng không có tư duy. Các công cụ của tư duy, như khái niệm, phán đoán, suy lý…là những hình thức mà trong đó, tri thức được tập trung, tổ chức lại và đi vào hoạt động. Tư duy con đòi hỏi các phương tiện để cố định lại (nói một cách tương đối), khách quan hoá và truyền bá tri thức. Chính các tín hiệu, dấu hiệu và
  4. ngôn ngữ là những phương tiện của tư duy con người, trong đó ngôn ngữ là phương tiện phổ biến và hữu hiệu nhất. Ngôn ngữ tham gia vào các quá trình tư duy với tư cách là cái chứa đựng các nghĩa biểu đạt cho sự vật mà thoạt đầu, có hình thái vật chất bên ngoài với chức năng phát âm thông báo, về sau chức năng này giảm dần và chuyển thành lời nói bên trong, có chức năng chuyên chở các ý nghĩ. Mặc dù vậy, sự phát triển của tư duy cũng không làm cho hình thức vật chất bên ngoài của ngôn ngữ mất đi mà ngược lại, nó luôn được duy trì và phát triển. Nhờ 'có bộ máy công cụ và phương tiện đó mà các quá trình tư duy không bị hỗn loạn, trở nên xác định. Và được duy trì. Thứ tư, tư duy xuất hiện khi mà trong cuộc sống, con người vấp phải những vấn đề nào đó và do đó, nó luôn có ít tượng nhất định. Tư duy không diễn ra nếu con người không vấp phải những vấn đề trong cuộc sống của họ và với tư cách là hoạt động tri thức, tư duy không thể không có đối tượng. Khi có một vấn đề thực tiễn hay nhận thức mà với những tri thức cũ hay cách làm cũ, con người không giải quyết được hoặc giải quyết không có hiệu quả thì quá trình tư duy diễn ra với tư cách là sự huy động khối tri thức mà họ đã lĩnh hội được để tìm ra các giải pháp mới. Do các giải pháp này là những giải pháp cho hoạt động, nên tư duy chỉ có thể tìm ra chúng trong quá trình nhận thức những đối tượng nhất định. Cùng với việc tìm ra các giải pháp cho hoạt động của con người, tư duy còn tạo ra cho họ những tri thức mới. Thứ năm, tư duy là một chức năng của não người và với tư cách này, nó là một quá trình tự nhiên, song mặt khác, tư duy cũng không tồn tại bên ngoài xã hội, bên ngoài khối kiến thức và các phương thức hoạt động mà loài người đã sáng tạo ra và tích luỹ được. Mỗi con người cụ thể trở thành chủ thể tư duy không chỉ vì họ có bộ não, mà quan trọng hơn là vì, trong quan hệ xã hội - giao tiếp, họ nắm được ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ, họ lĩnh hội được các tri thức, các công cụ, các thao tác logic do loài người sáng tạo ra. Và do vậy, tư duy là một chức năng của bộ não người có tính xã hội - lịch sử, là một sản phẩm của lịch sử xã hội. Những đặc trưng trên đây cho phép chúng ta hình dung mỗi quá trình tư duy với hai chiều. Chiều thứ nhất thể hiện tư duy là quá trình bao gồm các hành động và thao tác trí óc nhằm thâm nhập vào thế giới đối tượng bằng cách sử dụng các công cụ, các phương tiện nhận thức để sản sinh ra những tri thức mới, đáp ứng yêu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn và nhận thức mà con người đang hướng tới. Chiều thứ hai thể hiện tư duy là quá trình mà cũng bằng cách thông qua việc sử dụng các công cụ, các phương tiện nhận thức, nhưng là để củng cố, hệ thống hoá và duy trì khối tri thức mà con người đã có. Đây là hai chiều đồng thời và thống nhất với nhau trong mỗi quá trình tư duy nhất định, nhưng có tác dụng khác nhau: chiều thứ nhất đảm bảo cho tư duy một sự phát triển và biến hoá, chiều thứ hai lại đảm bảo cho các quá trình tư duy có tính xác định, cho phép nó tạm thời chấm dứt để có thể được khách quan hoá và hiện thực hóa. Nguồn: Tạp chí Triết học
nguon tai.lieu . vn