Xem mẫu

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

PHẪU THUẬT CHUYỂN GÂN CHÀY SAU  
TRONG ĐIỀU TRỊ BIẾN DẠNG BÀN CHÂN RỚT 
Phan Vĩnh Sơn*, Trương Trí Hữu* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Biến dạng bàn chân rớt chỉ tình trạng mất khả năng duỗi cổ bàn chân (hay gập lưng ) gây 
khó khăn trong đi lại, nguyên do hay gặp là tổn thương thần kinh mác sâu hay một phần thần kinh tọa. Hiện 
nay với tình hình các phẫu thuật chỉnh hình phát triển mạnh như thay khớp háng, thay khớp gối… thỉnh 
thoảng  có  để  lại  biến  chứng  phẫu  thuật  bàn  chấn  rớt  gây  nỗi  khó  chịu  lớn  cho  người  bệnh.  Phẫu  thuật 
chuyển gân chày sau ra trước giúp phục hồi chức năng duỗi cổ bàn chân khi đi , cải thiện lại dáng đi cho 
người bệnh. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng cổ bàn chân của phương pháp phẫu thuật chuyển gân 
chày sau ra trước trong điều trị biến dạng bàn chân rớt. 
Phương  pháp:  Nghiên  cứu  mô  tả  tiền  cứu  6  bệnh  nhân  được  phẫu  thuật  chuyển  gân  từ  1/2012  ‐ 
11/2013 tại khoa  Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình , thời gian theo dõi trung bình 11 tháng. Gân chày 
sau được tách khỏi nơi bám tận và chuyển ra trước đi qua màng gian cốt cẳng chân sau đó được đính vào 
xương chêm giữa bằng vít sinh học. Đánh giá kết quả theo tiêu chuẩn của Carayon.  
Kết quả: 6 trường hợp sau mổ đạt kết quả tốt. Phục hồi gập lưng bàn chân 
Kết luận: Phẫu thuật chuyển gân chày sau là phương pháp có hiệu quả trong điều trị phục hồi gập lòng 
bàn chân vả cải thiện dáng đi trong biến dạng bàn chân rớt. 
Từ khóa: Bàn chân rớt, Phẫu thuật chuyển gân chày sau ra trước 
ABSTRACT 

TIBIALIS POSTERIOR TENDON TRANSFER FOR THE TREATMENT OF THE DROP FOOT 
Phan Vinh Son, Truong Tri Huu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 460 ‐ 463 
Introduction:  Foot  drop  is  a  gait  abnormality  in  which  the  dropping  of  the  forefoot  happens  due  to 
weakness, damage to the common fibular nerve or  partial injury of  the sciatic nerve to cause the paralysis of 
muscles in the anterior portion of the lower leg. Now , the development the orthopedic surgery such as total hip 
arthroplasty , total knee arthroplasty…rarely had the complication of  peroneal nerve palsy . If it is left untreated, 
the  loss  dorsi‐flexion  of  the  ankle    result  in  severe  functional  disability  in  walking.  The  transfer  of  the  tibialis 
posterior tendon to the paralysed tendons on the anterior aspect of the foot to improve the function of the dorsi‐ 
flexion of the ankle and walking gait for the patient. 
Objectives:  We  evaluate  the  results  in  functional  restore  of  the  dorsi‐  flexion    ankle  of  the  patients  who 
underwent tibialis posterior tendon transfer for the treatment of the drop foot.  
Methods:  Descriptive study  5 cases who underwent tibialis  posterior  tendon  transfer  for  drop  foot  from 
1/2012‐ 11‐2013. the mean follow‐up 11 months in Hospital for Traumatology‐ orthopedic Hochiminh City. The 
tibialis posterior tendon was detached from its insertion , then transferred to the dorsum of the foot. The results 
were evaluated according the criteria of Crayon. 
Results: The mean preoperative drop foot  angle was 35 degrees. The mean posoperative active dorsiflexion 
* Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trương Trí Hữu 
 ĐT 0918591576  

460

Email: truongtrihuu@gmail.com 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

was 10,4 degree, plantar flexion 30,5 degrees. The resuls were good in all 5 feet. 
Conclusion:  Tibialis  posterior  tendon  transfer  for  drop  foot  highly  succesful  results  in  the  restoration  of 
active dorsiflexion and improves the gait walking. 
Key words: Foot drop, tibialis posterior tendon transfer 

ĐẶT VẤN ĐỀ 

Mục tiêu nghiên cứu 

Hiện  nay  các  phẫu  thuật  lớn  về  chấn 
thương  chỉn  hình  phát  triển  mạnh  trong  cả 
nước  như  thay  khớp  háng  hay  thay  khớp  gối 
toàn  phần.  Tuy  nhiên  thỉnh  thoảng  cũng  xuất 
hiện  các  biến  chứng  do  tổn  thương  thần  kinh 
mác  chung  (hông  khoeo  ngoài)  hay  một  phần 
thần kinh tọa để lại di chứng bàn chân rớt, làm 
mất chức năng duỗi cổ chân, gây khó chịu cho 
người  bệnh  khi  đi.  Bàn  chân  rớt  là  tình  trạng 
mất  khả  năng  gập  lưng,  nguyên  nhân  từ  việc 
yếu liệt nhóm cơ cẳng chân trước do thần kinh 
hông  khoeo  ngoài  chi  phối,  do  đó  ngón  chân 
thường  bị  kéo  lê  trên  đường  khi  bước  đi. 
Người bệnh thường phải gấp gối và háng hơn 
bình  thường,  hoặc  phải  sử  dụng  một  số  loại 
nẹp nâng  đỡ  cổ  chân  để  bước  đi.  Lâu  dần,  sự 
mất  cân  bằng  phần  mềm  do  sự  co  rút  của 
nhóm cơ cẳng chân sau sẽ gây ra lỏng lẻo khớp 
cổ chân và biến dạng gập lòng bàn chân(4,9). Tại 
BV  CTCH  đa  phần  biến  chứng  bàn  chân  rớt 
đều không tự hồi phục, bệnh nhân đến muộn 
trên  6  tháng  từ  các  nơi  khác  chuyển  đến  cho 
nên vấn đề điều trị phẫu thuật chuyển gân cần 
được đặt ra để tái lập cân bằng cơ vùng cổ bàn 
chân  khi  đi.  Phẫu  thuật  cũng  đều  nhằm  mục 
tiêu  gập  lưng  bàn  chân  và  có  dáng  đi  bình 
thường.  Trong  đó,  phẫu  thuật  chuyển  gân 
chày sau ra trước vừa phục hồi chức năng gập 
lưng  bàn  chân  vừa  ngăn  ngừa  biến  dạng  gập 
lòng bàn chân(8). 

Đánh  giá  hiệu  quả  phục  hồi  chức  năng  cổ 
bàn chân của phương pháp phẫu thuật chuyển 
gân chày sau ra trước trong điều trị biến dạng 
bàn chân rớt. 

Phẫu  thuật  chuyển  gân  lần  đầu  tiên  được 
Ober mô tả 1933, tác giả chuyển gân chày sau 
vòng  qua  xương  chày  dưới  da  đến  đính  vào 
nền  xương  bàn  3(8).  Năm  1954,  Watkins  mô  tả 
phương  pháp  chuyển  gân  chày  sau  tương  tự 
nhưng  đường  đi  qua  màng  gian  cốt.  Cả  hai 
phương  pháp  đều  cho  kết  quả  tốt  trong  điều 
trị biến dạng bàn chân rớt(3,10). 

Chấn Thương Chỉnh Hình 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Theo  dõi  và  đánh  giá  kết  quả  của  6  bệnh 
nhân  sau  mổ  chuyển  gân  chày  sau  từ  tháng 
1/2012‐ 11/2013. Thời gian theo dõi trung bình 11 
tháng (8 – 19 tháng), trong đó có 4 nam, 2 nữ, cả 
6  trường  hợp  đều  do  nguyên  nhân  tổn  thương 
thần kinh mác chung trong đó 2 trường hợp sau 
mổ kết hợp xương mâm chày, 1 sau mổ đính nơi 
bám  dây  chằng  chéo  sau,  2  sau  mổ  thay  khớp 
háng,  1  do  vết  thương  vùng  cẳng  chân.  Góc  cổ 
chân biến dạng trước mổ là 250.  
Đánh  giá  bệnh  nhân  trước  mổ  về  sức  cơ, 
mức độ co rút gân gót, X‐quang cổ chân. Điều 
kiện  phẫu  thuật  nhóm  cơ  chày  sau,  gấp  ngón 
cái  dài  và  gấp  các  ngón  dài  có  sức  cơ  bình 
thường + 5. 

PHƯƠNG PHÁP PHẪU THUẬT 
Rạch  da  đường  thứ  nhất  3  cm  mặt  trước 
trên  xương  ghe,  tách  gân  chày  sau  khỏi  điểm 
bám vào củ xương ghe có lấy thêm một mảnh 
xương  ghe  3‐  5mm.  Khâu  chỉ  đánh  dấu  đầu 
gân  xương.  Rạch  da  đường  thứ  hai  phía  trên 
mắt cá trong 5cm, xác định gân cơ chày sau và 
kéo gân tách riêng ra khỏi nhóm cơ gấp. Rạch 
da  đường  thứ  ba  sát  bờ  ngoài  mào  chày,  bóc 
tách  màng  gian  cốt  cẳng  chân,  chuyển  gân 
chày  sau  ra  khoang  trước  cẳng  chân  đi  qua 
màng gian cốt. Rạch da phía trước cổ chân nơi 
mâc giữ  gân duỗi luồn gân qua khâu vào chỗ 
tách đôi gân duỗi ngón cái dài và duỗi chung. 
Tiếp  tục  rạch  da  đường  cuối  cùng  ngay  trên 
xương  chêm  giữa,  luồn  đầu  gân  chày  sau  đi 
xuống  dưới  mạc  giữ  gân  duỗi  đến  điểm  bám 

461

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

mới  là  xương  chêm  giữa.  Khoan  đường  hầm, 
cố định gân vào xương bằng một vít sinh học. 

Đóng vết mổ từng lớp, bó bột đùi bàn chân 
gối gập 300, gập lưng bàn chân 200. 

 
 
 
Hình 1: Mô tả phẫu thuật chuyển gân chày sau ra trước qua màng gian cốt 

 

 

Theo dõi hậu phẫu và phục hồi chức năng 

BÀN LUẬN 

Bột  cẳng  bàn  chân  được  giữ  trong  8  tuần, 
sau đó được thay thế bằng giày nẹp cẳng bàn 
chân giữ cổ chân trung tính thêm 12 tuần. 

Biến  dạng  bàn  chân  rớt  do  nhiều  nguyên 
nhân  khác  nhau  gây  ra,  thường  gặp  do  tổn 
thương thần kinh mác chung(1). Vấn đề thương 
tổn  các  trường  hợp  trên  theo  hỏi  bệnh  sử 
người  bệnh  đều  xảy  ra  sau  các  phẫu  thuật 
chỉnh hình, trong đó 2 trường hợp sau mổ kết 
hợp xương mâm chày, 1 sau mổ đính nơi bám 
dây chằng chéo sau, 2 sau mổ thay khớp háng, 
1 do vết thương vùng cẳng chân. Đề tài này là 
một  hồi  chuông  cần  báo  động  cho  các  phẫu 
thuật  viên  chỉnh  hình.  Nguyên  tắc  xử  trí,  cần 
điều trị tổn thương thần kinh trước, nếu không 
hồi  phục  theo  dơi  thần  kinh  trên  6  tháng  sẽ 
tiến  hành  phẫu  thuật  chuyển  gân.  Đối  với 
những  tổn  thương  trong  thời  gian  dài  gây  ra 
biến  dạng  xương  vùng  cổ  bàn  chân  thì  cần 
chỉnh biến dạng xương trước.  

Tập  gập  lưng  bàn  chân  chủ  động  sau  khi 
bỏ  bột,  trong  thời  gian  này  không  khuyến 
khích bệnh nhân gập lòng bàn chân. Đi chống 
nặng  chân  vào  tháng  thứ  3  sau  mổ.  Đánh  giá 
kết  quả  sau  mổ  dựa  vào  bảng  tiêu  chuẩn 
Carayon(3) bằng cách đo tầm vận động khớp cổ 
chân chủ động. 
Bảng 1: Bảng tiêu chuẩn Carayon(3) 
Gập lưng bàn
chân
Gập lòng bàn
chân
Tầm vận động

Rất tốt
>150

Tốt
5-150

>300

15-200

>40C

20-300

Trung bình Xấu
00
Không
sửa
được
100
biến
dạng

KẾT QUẢ 
Trước  mổ  độ  rớt  bàn  chân  (bàn  chân  gấp 
lòng)  trung  bình  350.Dáng  đi  trước  mổ  các 
ngón  chân  quét  mặt  đất,  mất  cảm  giác  lưng 
bàn chân. Đo EMG tổn thương thần kinh mác 
chung thoái hóa sợi trục hoàn toàn không hồi 
phục. 
Sau  mổ  8  tháng:  Gập  lưng  bàn  chân  chủ 
động trung bình 10,40 (5‐120). 
Gập  lòng  bàn  chân  chủ  động  trung  bình 
30,50 (30‐400). 
Theo  tiêu  chuẩn  phục  hồi  của  Carayon  6 
trường hợp đạt kết quả tốt (100%). 
Không phục hồi cảm giác 
Không nhiễm trùng. 

462

Đường đi của gân có thể lựa chọn dưới da 
hoặc  màng  gian  cốt.  Đường  dưới  da  có  thể 
gây  mất  thẩm  mỹ,  thiếu  gân  và  dễ  gây  lật 
ngửa bàn chân. Đường đi qua màng gian cốt 
sinh  lý  hơn  tuy  nhiên  có  thể  gây  dính,  tổn 
thương mạch máu(1,7). Nghiên cứu của Goh và 
cộng sự cho thấy đường đi qua màng gian cốt 
hiệu quả hơn trong gập lưng bàn chân về mặt 
cơ sinh học(5). 
Gân  chày  sau  được  chuyển  ra  trước  cổ 
chân có thể được đính xương ghép vào xương 
chêm,  kèm  khâu  vào  gân  vùng  cổ  chân  trên 
đường  đi  ngang  qua  vùng  mạc  gân  duỗi(9). 
Chúng  tôi  có  áp  dụng  kỹ  thuật  tiến  bộ  chọn 
phương  pháp  cố  định  vào  xương  chêm  giữa 
bằng  vít  sinh  học,  phương  pháp  cố  định  khá 
vững chắc giúp dễ lành. Do có khâu một phần 
vào gân duỗi trên đường đi để giảm bớt  biến 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
dạng  rũ  của  ngón  chân(7).  Tuy  nhiên  khoan 
đường hâm xương chêm giữa ở bàn chân trước 
có  thể  gây  đau  viêm  tại  nơi  khoan  đường 
hầm(6,8). 

4.

5.

KẾT LUẬN 

6.

Biến  chứng  bàn  chân  rớt  sau  phẫu  thuật 
lớn  chỉnh  hình  chi  dưới  như  thay  khớp  cần 
phải  được  quan  tâm  đối  với  các  phẫu  thuật 
viên chỉnh hình. 

7.

Phẫu  thuật  chuyển  gân  chày  sau  đi  qua 
màng gian cốt, cố định vào xương chêm giữa có 
hiệu quả trong điều trị biến dạng bàn chân rớt. 

8.
9.

10.

Nghiên cứu Y học

D’Atous JL, Mac William BA (2005). Superficial versus deep 
transfer of the posterior tibialis tendon. J Pediatr Orthop; 25: 
245‐8. 
Goh JC, Lee PY, Lee EH, Bose K (1995). Biomechanical study 
on tibialis posterior tendon transfers. Clin Orthop  Relat  Res; 
319: 297‐302. 
Harris JR, Brand PW (1966). Patterns of disintegration of the 
tarsus in the anaesthetic foot. J Bone Joint Surg; 48: 4‐16. 
Hove  LM,  Nilsen  PT  (1998).  Posterior  tibial  tendon  transfer 
for  drop  foot.  20  cases  followed  for  1‐5  years.  Acta  Orthop 
Scand; 69: 608‐10. 
Richard  BM  (1989),  Interosseous  transfer  of  tibialis  posterior 
for common peroneal palsy. J Bone Joint Surg; 71: 834‐837. 
Wiesseman  GJ  (1981).  Tendon  transfers  for  peripheral  nerve 
injuries  of  the  lower  extremity.  Orthop  Clin  North  Am;12: 
459‐67. 
Yeap JS, Birsch R, Singh D (2001). Long‐term results of tibialis 
posterior tendon transfer for drop foot. Int Orthop; 25: 114‐8. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.
3.

Andersen  JG  (1963).  Foot  drop  in  leprosy  and  its  surgical 
correction. Acta Orthop Scand; 33: 151‐71. 
Bari  MM,  Islam  AK,  Haque  AK  (1996).  Surgical 
reconstruction of leprotic foot drop. Lepr Rev; 67(3):200‐202 
Carayon  A,  Bourrel  P  (1967).  Dual  transfer  of  the  posterior 
tibial  and  flexor  digitorum  longus  tendons  for  drop  foot. 
Report of thirty cases. J Bone Joint Surg; 49: 144‐8. 
 

Chấn Thương Chỉnh Hình 

Ngày nhận bài báo: 30/10/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 
 

463

nguon tai.lieu . vn