Xem mẫu

  1. Phần 32 - Học giả Nhật Bản? Quan Kiện và Satiko đồng thời ngắt lời Lưu Thạch Tài. Người ấy tên là gì? Thạch Tài lắc đầu: “Tôi nhớ tên ông ta làm gì, hỏi còn không thiết hỏi nữa là!” Quan Kiện và Satiko nhìn nhau, Quan Kiện nói: “Mai, anh sẽ gọi điện hỏi rõ” Thạch Tài nói: “Đừng phí sức nữa, anh có gọi điện cũng vô ích thôi, vì tôi đã… đánh cắp bộ rối bóng đó về rồi! Nhà bảo tàng ấy nhếch nhác, việc canh gác cũng nhếch nhác luôn, tôi chẳng phải tốn sức mà cũng thó được” Nói xong, Thạch Tài nhìn quanh 4 phía, rồi bỗng cởi ngay áo Jacket đang mặc, tháo lần lót ra. Thì ra “lót áo” chính là một cái túi đen bóng. “Trong này là những con rối bằng da bò, do chính ông ngoại tôi thuộc da, trổ cắt và khâu thành. Năm xưa đính hôn ông đã tặng bà ngoại tôi. Hồi nọ thó ra từ nhà bảo tàng, tôi vẫn cất ở đây. Các vị xem này…” Thạch Tài lấy ra hai cái bao da “Túi này đựng vài con rối tôi mang từ nhà đi (kỷ vật mà ông tôi đã tặng bà tôi ngày xưa) còn túi này là các con rối tôi lấy được ở bảo tàng, chúng giống hệt nhau! Vậy đương nhiên chúng vốn là của nhà tôi rồi!”. Thạch Tài moi 2 cái túi lấy ra 2 con rối dẹt, nói tiếp: “Hai con rối này đều là Hoàng Thiên Bá (nhân vật có thật, một trong “tứ bá” chống đối triều đình Mãn Thanh), hai vị xem đi, có phải là giống hệt nhau không?” Quan Kiện và Satiko đón lấy hai con rối trổ cắt bằng da, đối chiếu tỉ mỉ, đúng là y hệt nhau. Thạch Tài lại nói: “Sau khi lấy được bộ con rối ở nhà bảo tàng, tôi lập tức về quê. Bà ngoại tôi đã mất, nhưng các cụ già trong thôn vừa nhìn thấy đã nhận ra ngay, đích xác là con rối bóng của thôn Tiểu Lương! Tại sao? Tại vì, rối bóng bình thường thì dùng 3 cái que để điều khiển, một que nối đầu và thân, hai que nối vào 2 tay con rối, điều khiển rối bóng khó ở chỗ một nghệ nhân phải đồng thời điều khiển vài con rối, mỗi con có ba cái que. Đã đủ phức tạp chưa?Nhưng rối bóng của thôn Tiểu Lương thì mỗi con rối lắp 4 cái que! Ngoài đầu và 2 tay ra còn lắp thêm 1 que ở háng con rối. Nghe nói, nếu biểu diễn đấu võ sẽ càng hay hơn. Cho đến hôm đó tôi mới hiểu ra rằng con rối bóng có 4 que mới là đặc sắc, là đỉnh cao!” - Các vị xem này, cổ, hai tay và khớp xương của Hoàng Thiên Bá đều đục lỗ, là để xâu dây buộc vào que điều khiển, ở háng cũng có lỗ đúng chưa? Còn con rối này cũng thế, có bốn lỗ thủng. Các vị cứ việc đến các bảo tàng mà hỏi, chỉ có con rối bóng của thôn Tiểu Lương mới có 4 que điều khiển, nhưng đã bị thất truyền mất rồi. Cho nên, bộ con rối bóng trong bảo tàng này đích xác là đồ nghề sinh nhai của ông ngoại tôi ngày trước! Tôi lại nghĩ, bộ rối bóng của ông ngoại lưu lạc đến Giang Kinh, chắc hẳn phải có nguồn cơn chi đây. Ngày ấy họ đến Giang Kinh làm gì? Sau khi giặc Nhật bị tống cổ, thì họ đi đâu? Sao không có chút tin tức gì? Và tại sao rối bóng của ông ngoại tôi lại bị trôi giạt, không tiếp tục truyền nghề? Thực là đáng tiếc! Cho nên tôi tiếp tục ở lại Giang Kinh lao động, đồng thời nghe ngóng, nhưng không có kết quả. Tết vừa qua công trường cho nghỉ vài ngày, tôi không
  2. muốn chen tàu hỏa chật chội trong dịp cao điểm vận tải, nên ở lại Giang Kinh ăn Tết. Hôm đó tôi bày các con rối ra ngắm nghía, và bỗng nhận ra rằng có 1 con rối không làm bằng da mà làm bằng bìa… cũng không phải thế, thực ra nó được cắt từ vải. Đây, hai vị xem đi… Thạch Tài đưa ra một con rối mà anh ta gọi là làm từ bìa, hỏi “có thấy là rất giống không?” “Ôi…” cả Quan Kiện và Satiko đều khẽ kêu lên Đúng như Thạch Tài nói, hình thù này được cắt ra từ miếng vải màu xám, trông có cảm giác lập thể rất rõ rệt, đủ thấy người trổ cắt nó rất khéo tay. Phần trên của nó hình bầu dục, trông tựa như hình lập thể của 1 cái bát, có thể thấy rõ cái “bát” lõm xuống, dưới chậu là một cái đế hình trụ, phía đáy thì rộng ra, hơi giống hình tam giác. Nhìn vào, nhận ra ngay nó có hình dáng giống như cái giá sắt kỳ lạ đặt ở gần bức tường xa xa kia. Lưu Thạch Tài nói tiếp: “Tôi không cần dài lời nữa chứ gì? Thoạt đầu tôi rất băn khoăn trong bộ con rối này lại thừa ra một mẩu vải vớ vẩn, không có vẻ gì là 1 đạo cụ, nó là hình thù quái gì vậy? Tôi cầm nó lên ngắm đi ngắm lại mãi, rồi phát hiện ra ở chỗ này này, hai vị nhìn đi, có 1 đường khâu chỉ đen…” Đúng thế, ở chỗ tiếp giáp giữa cái bát và cái trụ đỡ có những mũi khâu đen đen. - Tôi nghĩ mãi, tại sao phải có cái đường khâu chẳng đâu vào đâu thế này? Thế là tôi dùng cái “nhíp” nhể đường chỉ ra. Tôi nhận ra rằng vải có 2 lớp, tôi bèn tách nó ra. Đúng thế thật! Thạch Tài nhẹ nhàng rút sợi chỉ ra. Ở chỗ được khâu, thì bên trong “rỗng” còn các chỗ khác, hai lớp vải được dán dính chặt, tất nhiên vẫn có thể bóc ra, Thạch Tài tách 2 lớp vải ra. Hai vị nhìn đi, thấy cái gì ở lớp vải phía dưới? Hình một cây thập tự màu đỏ sẫm! Nếu soi trước ánh sáng, sẽ thấy nó có ánh đỏ, rất giống như… vẽ bằng máu. Thạch Tài hít vào một hơi thật sâu, rùng mình, cúi đầu. Quan Kiện nói: “Rồi anh đã đi quanh khắp các nhà thờ ở Giang Kinh, cuối cùng tìm đến đây…” Anh bỗng quay người, bước đi thật nhanh. Cả ba người cùng bước đến bên cái giá sắt trồng ở giữa bãi cỏ. Quan Kiện chỉ về phía Tây Bắc: “Sau đó anh nhìn thấy cây thập tự trên nóc nhà thờ Đức Mẹ kia?” - Lúc đó đầu tôi như nổ tung, tôi nghĩ: Ông ngoại tôi đã đến đây, rồi dùng cái mảnh vải này để nhắn với thế hệ sau rằng ông đã từng đến nơi này…
  3. Không hiểu sao, hình như có tiếng nổ bên tai Quan Kiện thật, óc anh nảy ra một câu: “Trung tâm nghiên cứu tổng hợp Y Dược Đông Tây được xếp hạng thứ nhất trong bảng…” Đó là câu nói của Âu Dương San trong bảng “xếp hạng mười nơi có ma ở Giang Kinh” - Cho nên anh đã đốt giấy ở cái đài này? Anh cho rằng ông ngoại anh đã chết ở đây? Thạch Tài gật đầu: “Đúng thế, khi sắp chết người ta nghĩ mọi cách để truyền tin ra ngoài, nếu đúng là ông ngoại tôi đã vẽ cây thập tự này thì tức là muốn nói rằng ông bị khốn đốn ở đây”. - Và, chắc là bị canh giữ rất chặt, nên phải dùng cách rất kín đáo để đưa tin. Quan Kiện nói. Satiko bỗng nói “Đừng nên kết luận quá sớm, vì có quá nhiều yếu tố là suy đoán” Thạch Tài nói, “Thời gian qua tôi vẫn đi lại quanh đây, tôi cũng đã hỏi bà tu sĩ trong nhà thờ, nhưng càng hỏi thì càng không biết. Có lẽ vì tôi có mặt ở đây nhiều quá nên bị cô Hoàng nghi ngờ. Một hôm cô ấy hỏi tôi mấy câu, và nói cũng đã thấy tôi đến nhà thờ, cô ấy rất lấy làm lạ…” Thi Di cũng đã đến nhà thờ! - Tôi bèn kể cho cô ấy cái câu chuyện vừa nói, cô ấy bảo sẽ tra giúp tôi các tư liệu, ví dụ, về lịch sử của thôn Tiểu Lương, của Giang Kinh, của cái Trung tâm này và của nhà thờ trong thời kỳ chiến tranh kháng Nhật. Rồi cô ấy hẹn tôi đến đây gặp, vào khoảng 11 giờ đêm, ngày… ngày hôm nào tôi quên mất rồi. Cô ấy sẽ cho tôi biết kết quả đã tra cứu được. Tôi rất cảm kích, nhưng cũng băn khoăn tại sao cô ấy lại nhiệt tình như thế… Mấy năm ra thành phố làm thuê, tôi đã hiểu dân thành phố các vị… Nhưng thôi, không còn cách nào khác, tôi phải tin cô Hoàng và tôi đã chờ đợi. Nhưng, ngày nào tôi cũng đến đây mà không hề thấy cô ấy đến. Hôm nay mới biết tin… Quan Kiện và Satiko lại cùng nhìn nhau. Quan Kiện nói: “Thế này vậy, chúng tôi sẽ tiếp tục tra cứu các tin tức mà cô Hoàng chưa kịp cho anh biết, rồi sẽ nói với anh. Được không?” Cuộc thí nghiệm vừa kết thúc Quan Kiện và Satiko sánh vai đi về phía cửa của sân sau Trung tâm nghiên cứu. - Không ngờ đây lại là lần thí nghiệm cuối cùng, em có thấy hơi đột ngột không? - Có thấy! và cũng có thể nói là không. Satiko nói, anh thì phần lớn thời gian làm ở bệnh viện, em thì thường xuyên ở bên ông Yamaa Yuuzi, thấy gần đây tâm trạng ông ấy khang khác.
  4. Quan Kiện hiểu rằng, sự “khang khác” của ông ta cũng chỉ ở mức bình thường nói chung khó bề nhận ra. “Có lẽ vì cho đến nay thí nghiệm chưa có kết quả rõ rệt”. Lưu Thạch Tài đã đứng trước cái giá sắt kỳ cục, như đã hẹn. - Hai vị đã điều tra được gì rồi? Quan Kiện liếc nhìn Satiko, rồi nói “Satiko tra cứu là chính, cô ấy sẽ nói” Satiko gật đầu, im lặng một lát, hình như là để nghĩ xem nên nói ra sao. “Tôi đã tra cứu tài liệu về thôn Tiểu Lương của các anh; anh Tài nói đúng, tài liệu của huyện có ghi về sự kiện tráng đinh toàn thôn đồng loạt mất tích năm xưa, chứ không phải là tin đồn. Kịch múa rối bóng cũng đã từng được coi là 1 trong ba nét đặc sắc nhất của vùng Thiểm Nam. Vị học giả đã tặng bộ con rối kia cho nhà bảo tàng, là cha tôi” Trong mấy phút trầm mặc, chỉ nghe thấy tiếng thở dài. - Rõ ràng là bằng cách nào đó, cha tôi đã tìm thấy các vật ấy. Chúng tôi sẽ tiếp tục điều tra về cái Trung tâm nghiên cứu này. Cô hít vào 1 hơi thật sâu, chỉ hơi ân hận, tại sao chúng ta đã không sớm đặt trọng tâm vào khu vực này? Quan Kiện nói: “Đâu phải chúng ta chưa xem xét, tiền thân của nó là phòng quản lý thảo dược của Chính phủ Quốc dân Đảng, trước giải phóng 1949 đã từng có ma, nhưng nơi này lâu nay rất an toàn. Trung tâm nghiên cứu chưa từng xảy ra chuyện gì, suốt ngày đêm luôn có người làm các thí nghiệm. Cho nên chúng ta mới tập trung sự chú ý vào nơi như nhà thờ Đức Mẹ và khu nhà Giải phẫu…” - Chúng ta đã điều tra nhưng chưa đi sâu. Được 1 vài người trợ giúp, chúng ta cũng đã tìm được vài tài liệu quý. Có thể dễ thấy trước hết, trung tâm nghiên cứu này do một kiến trúc sư người Anh xây dựng vào năm 1920, là 1 trong những trung tâm thương mại chủ yếu ở tô giới anh. Bên trong có tổ chức giao dịch, cơ quan tín dụng và ngân hàng. Vị kiến trúc sư ấy cũng thiết kế và xây dựng khu nhà Viện mỹ thuật Giang Kinh ngày nay. Thời trước gọi là “Nhà triển lãm nghệ thuật viễn đông” Cho đến đầu thập kỷ 30, vì xã hội ngày càng có nhiều biến động, nên các tổ chức thương mại tiền tệ Anh quốc đã rút đi, thì nơi này trở thành phòng điều tra về sinh vật tĩnh sinh Giang Kinh, na ná như trung tâm nghiên cứu thực vật. Nhưng anh thấy rất ngạc nhiên ở chi tiết này. Vào những năm trước và sau 1940, khu vực này và khu vực Viện mỹ thuật hiện giờ đã từng hợp nhất thành 1 đơn vị: Ban Kinh doanh dược phẩm tại Đông Á. - Đã bị giặc Nhật chiếm à? Lưu Thạch Tài nghe ù cả tai, nhưng anh ta căn bản vẫn hiểu được - Nói chính xác hơn, là bị các thương nhân Nhật Bản chiếm. Trụ sở chính của ban kinh doanh dược phẩm Đại Đông Á đặt tại Tokyo Nhật Bản, có tên là Công ty TNHH bào chế kinh doanh Dược Kota, công ty tư nhân. Ban Đại Đông Á này chỉ bán hàng ở khu
  5. vực Giang Kinh, nhưng nó lại tham gia khắp các hoạt động xuất nhập khẩu đông dược, thuốc Tây, thuốc Đông y bào chế, hoặc thuốc quân dụng của miền Hoa Trung, Hoa Bắc, Hoa Đông, của cả Trung Quốc lẫn Nhật Bản và 1 số nước Đông Nam Á. Quan Kiện nói “Thoạt nhìn thì chẳng có gì lạ, thời nào chẳng có người làm giàu trong chiến tranh, nhưng nếu tra xét kỹ, nghĩ cho kỹ thì thấy có 2 điều đáng nghi ngờ. Các tài liệu hiện có cho thấy Đại Đông Á này thực chất chỉ là “buôn nước bọt” đôi khi mới mua về 1 ít hàng, một trong 2 khu nhà Viện Mỹ thuật hoặc Trung tâm nghiên cứu thừa sức làm kho chứa, vậy tại sao họ phải hợp nhất địa bàn của cả 2 nơi, lại chỉ để cho các nhân viên sử dụng, tổng số nhân viên của họ lên đến 300 người” Lưu Thạch Tài nói “Thảo nào họ cần khu vực rộng thế này. Ba trăm người ở, thì sập nhà như chơi” - Còn Ban kinh doanh dược phẩm Đại Đông Á ở Quảng Châu cũng làm ăn và có thu nhập tương đương với họ, thì chỉ có 24 nhân viên. Thạch Tài nói “Quả là kỳ quái!” Điều kỳ quái hơn nữa là: Đại Đông Á treo biển vào tháng 4 năm 1939 nhưng đến tháng 11 năm 1940 mới chính thức hoạt động. Theo tài liệu của phòng hồ sơ Giang Kinh, một năm rưỡi ấy của họ dành để “tu sửa” cơ ngơi. - Tu sửa những một năm rưỡi? Thạch Tài đã từng làm nghề xây dựng, hoàn thiện công trình, anh chưa bao giờ nghe nói có thứ hiệu suất kém như thế này. Quan Kiện nói: “Đối với một công ty đang hau háu kiếm tiền trong chiến tranh, thì đúng là quá dài. Tu sửa cái gì mà lâu thế?” Satiko nói: “ Đây cũng là câu hỏi của tôi. Khi phòng hồ sơ sắp đóng cửa, tôi phát hiện ra tấm ảnh này”
nguon tai.lieu . vn