Xem mẫu
- BÁC SĨ HẠI ĐỜI
K hông phải bao giờ người ta cũng gọi ông ấy như vậy, mãi
cho đến khi xảy ra một việc. Nhưng việc ấy lại là việc lạ
lùng đến mức mà báo chí đã viết về nó. Ông ấy có cái tên rất khác
thường, nhưng bây giờ tôi không nhớ ra, chỉ biết họ của ông là
Heribert. Ông Heribert là bác sĩ, nhưng đúng ra thì ông chỉ là
người đã tốt nghiệp trường Y, chứ ông chưa hề chữa bệnh cho ai
và chữa cái gì. Có lẽ chính ông hẳn cũng phải tự thú rằng, kể từ
sau khi là sinh viên phải đi thực tập ở bệnh viện cho đến nay, ông
chưa chạm tay vào một người ốm nào. Chắc hẳn ông sẽ tự thú về
điều đó, giá mà ông đã nói chuyện với ai. Nhưng ông ấy lại là một
người hết sức lạ lùng.
Bác sĩ Heribert là con trai của một thầy thuốc rất được ưa
chuộng ở Malá Strana. Mẹ của bác sĩ Heribert mất sớm; trước
ngày bác sĩ Heribert tốt nghiệp không lâu, cha của ông cũng qua
đời. Cha của bác sĩ Heribert để lại cho ông ngôi nhà hai tầng ở
phố Oujezd, có lẽ cũng để lại cả một số tiền, nhưng không nhiều.
- Bác sĩ Heribert sống ở ngôi nhà ấy. Hai cửa hàng ở tầng một
hướng trông ra đường và căn hộ cho thuê ở tầng hai mang lại
cho bác sĩ một chút tiền nhà. Bản thân ông ở tầng hai phía trông
ra sân. Một cái cầu thang dẫn từ sân lên phòng ông, nhìn nó đặc
biệt vì không được che đậy gì, chỉ có một bức rào mắt cáo bằng gỗ
chắn ở phía dưới. Tôi không biết phòng của ông thế nào, nhưng
tôi biết là ông sống rất đơn giản. Vợ của ông chủ cửa hàng tạp
hóa dưới tầng một là người giúp việc của bác sĩ, và Jozífek, con
trai bà ấy, là bạn của tôi. Nhưng mà đã từ lâu rồi, chúng tôi
không còn là bạn của nhau nữa, bởi vì Jozífek được làm người
đánh xe ngựa cho Tổng giám mục và trở nên rất kiêu ngạo.
Jozífek đã kể cho tôi nghe là bác sĩ Heribert thường tự chuẩn bị
bữa ăn sáng, buổi trưa thì đi ăn một quán ăn rẻ tiền nào đó trong
ành phố Cổ, còn bữa chiều thì ăn uống rất qua loa.
Giá mà muốn thì bác sĩ Herbert đã có thể giành được nhiều
cảm tình của mọi người ở Malá Strana. Sau khi cha ông mất, tất
cả các bệnh nhân của cha đều chuyển sang tin cậy ông, nhưng
ông không nhận chữa cho một ai, bất kể đó là bệnh nhân giàu
hay nghèo, ông cũng chẳng đi khám bệnh ở đâu cả. Dĩ nhiên là
dần dần người ta thôi không tin tưởng gì vào ông nữa, họ bắt đầu
- coi ông như một người mà họ gọi là “sinh viên hư hỏng”, sau đó
họ cười nhạo báng ông: “Ôi chao, bác sĩ gì người ấy... con mèo
nhà tôi mà có ốm thì tôi cũng chẳng để ông ấy chữa đâu!” Tất
nhiên, bác sĩ Heribert không lấy điều đó làm tự ái chút nào. Xem
ra, ông chẳng hề quan tâm đến ai. Ông không chào hỏi ai, cũng
không đáp lại ai khi được người ta chào. Khi đi ngoài đường, ông
tựa như chiếc lá khô bị gió thổi, lăn lóc từ chỗ này sang chỗ kia.
Ông có vóc người bé nhỏ, chỉ khoảng mét rưỡi, bao giờ ông cũng
cố gắng đi cách xa mọi người ít nhất là hai bước. Ấy là nói về cách
đi lại của ông. Còn về hình dạng thì ông có đôi mắt xanh đầy vẻ
nhút nhát sợ hãi, giống như cặp mắt của con chó bị đá. Ông có bộ
râu màu nâu sáng rậm rạp che kín má. eo con mắt nhìn thời
đó thì để râu ria xồm xoàm như vậy là không đứng đắn chút nào.
Vào mùa đông, khi mặc chiếc áo khoác màu xám kiểu áo lao
động của thợ xay bột mì, cái đầu nhỏ đội mũ trùm tai của ông lọt
thỏm xuống vành cổ áo giả lông thú. Vào mùa hè, khi mặc bộ
quần áo màu xám hay áo kẻ ô nhẹ, hay mặc bộ đồ vải lanh mỏng
hơn, cái đầu ông lại lắc lư như được cắm trên cái núm quả mảnh
khảnh. Cũng vào mùa hè, cứ bốn giờ sáng là ông đã cắp sách đi
vào vườn cây ở sau tường thành Marian, đến một cái ghế dài ở
- góc xa nhất để ngồi đọc. Có lần, có một người hàng xóm xởi lởi ở
Malá Strana đến ngồi cạnh ông và bắt chuyện, nhưng bác sĩ
Heribert liền đứng lên, gập sách lại rồi bỏ đi mà không đáp lại
một lời. ế là dần dần người ta bỏ mặc ông. Vâng, cách cư xử
của bác sĩ Heribert đã đi đến mức mà cho dù ông mới chỉ khoảng
bốn mươi, nhưng chẳng một cô gái nào ở Malá Strana còn để ý
đến ông nữa.
ế nhưng có một việc đã xảy ra, như tôi đã nói là thậm chí
sự kiện ấy được đưa lên báo! Tôi muốn kể về chuyện đó.
Hôm đó là một ngày tháng sáu tuyệt đẹp. Đẹp đến mức ta có
cảm giác là nụ cười của sự hài lòng tuyệt đỉnh đang nở rộng ở
trên trời, ở dưới đất và trên môi của tất cả mọi người. Buổi chiều
hôm đó, có một đám tang rất đẹp đi từ phố Oujezd ra tới cổng
thành. Người ta tiễn đưa ông Schepeler, viên chức của sở kế toán
thành phố. Xin trời tha tội, nhưng quả thật tôi có cảm giác là nụ
cười hài lòng kia cũng có mặt cả ở đám tang này. Tất nhiên là
không thể nhìn thấy mặt người quá cố, bởi chúng ta không có
tục như các dân tộc ở phía nam. Ở đó, người ta đưa người quá cố
ra nghĩa trang trong quan tài để ngỏ, có thể là để trước khi vào
mộ, người quá cố còn được sưởi nắng lần cuối cùng. Nhưng nếu
- bỏ qua cái nghi thức tang lễ trang nghiêm cần có, ta không thể
không nhìn thấy vẻ mãn nguyện của những người đưa đám, vẻ
mãn nguyện thể hiện trên từng bộ phận cơ thể họ, trong cái đẹp
tuyệt vời của ngày hôm ấy!
Người hài lòng nhất là các thực tập viên của tòa thị chính,
họ được khênh kiệu mang quan tài ông Schepeler. Họ tranh
nhau để được làm việc đó. Hai ngày trước khi đưa tang, họ bồn
chồn náo nức chạy đi chạy lại ở công sở. Bây giờ thì họ hãnh diện
bước dưới kiệu, ai cũng tin tưởng rằng ánh mắt của cả thế giới
đang tập trung vào mình, và cả thế giới đang tự nhủ: “Đây là
những thực tập viên của tòa thị chính!” Người hài lòng nữa bác
sĩ Link, một người cao lênh khênh. Chỉ sau tám ngày chăm sóc
ông Schepeler ốm, bác sĩ lấy tiền công của bà quả phụ
Schepelerová tới hai mươi zlatý, cả khu Malá Strana đã biết về
điều đó. Bây giờ ông ấy đi đưa tang, đầu hơi cúi xuống như đang
suy nghĩ mông lung. Người hài lòng tiếp theo tên là anh
Ostrohradský, người sản xuất dây thắt lưng, là hàng xóm và
người có họ gần nhất với ông Schepeler. Tuy khi còn sống, ông
chú Schepeler không quan tâm chăm sóc gì đến cháu, nhưng bây
giờ thì anh Ostrohradský đã được biết là trong di chúc của ông
- chú có ghi là anh được kế thừa năm nghìn zlatý. Đã mấy lần anh
quay sang ông thợ nấu bia Kejřík để nói rằng “Ông ấy vậy mà có
lòng tốt.” Anh Ostrohradský đi ngay sau quan tài, bên cạnh ông
Kejřík. Ông Kejřík là một người đàn ông béo tốt, khỏe mạnh,
bạn tốt nhất và thân nhất của người quá cố. Đi liền sau hai người
là các ông Kdojek, Mužík và Homann, tất cả đều là nhân viên sở
kế toán, nhưng có tuổi nghề ít hơn ông Schepeler; rõ ràng là họ
cũng mãn nguyện. ậm chí, chúng ta phải đau xót mà nói rằng,
đến ngay cả bà quả phụ Marie Schepelerová, lúc này đang ngồi
một mình trong chiếc xe ngựa đi đầu đám tang, cũng không
cưỡng lại được sự hài lòng, nhưng mà than ôi, nó không phải là
sự hài lòng do ngày tháng sáu đẹp đẽ trực tiếp mang lại. Con
người tốt bụng ấy chẳng gì cũng là đàn bà, mà đã ba ngày nay bà
ấy được trở thành trung tâm của sự thương cảm nồng nàn của
bằng ấy người, thì hài lòng là phải. Sau nữa, bộ váy áo tang màu
đen trông rất xinh xắn và hợp với dáng người mảnh mai của bà
ấy, khuôn mặt luôn nhợt nhạt của bà nổi bật lên, đẹp một cách
đặc biệt qua mảnh voan che mặt màu đen.
Chỉ có ông Kejřík là người duy nhất thấy đau buồn vì cái chết
của ông Schepeler và không thể nào nguôi được. Ông Kejřík là
- người đàn ông chưa vợ, người mà tôi đã nói rằng là người bạn tốt
nhất và thân nhất của ông Schepeler. Ngày hôm qua, bà quả phụ
trẻ đã tỏ rõ cho ông ấy biết là bà ấy chờ đợi sự đền đáp xứng đáng
của ông ấy, bởi vì bà ấy đã chung thủy đến thế với ông ấy trong
suốt thời gian chồng bà còn sống. Khi người hàng xóm
Ostrohradský nói với ông lần đầu “Ông ấy vậy mà có lòng tốt” thì
ông Kejřík buồn bã trả lời: “Kể cả không có lòng tốt đi, nhưng
vẫn có thể sống lâu hơn.” Từ lúc ấy trở đi, ông không nói gì thêm
với anh Ostrohradský nữa.
Đám tang từ từ ra tới cổng thành. Ngày đó, cổng thành
không mỏng mảnh gió thổi bay như bây giờ mà có tường thành
dày, phía sau có hai đường hầm dài tối tăm dẫn đến nghĩa trang.
Xe tang vượt lên và dừng lại ở cổng thành. Các linh mục
đứng quay mặt lại, những người khênh kiệu từ từ đặt kiệu với
quan tài xuống đất, rồi các cha vẩy nước thánh. Những người
đánh xe ngựa kéo một tấm ván từ xe ra để các thanh niên nâng
quan tài lên đưa vào xe. Đúng vào lúc ấy thì việc đó xảy ra! Có thể
là do một bên nâng mạnh quá, hay là cả hai bên đều không khéo
tay, bởi vì chiếc quan tài đột ngột trượt đánh thình xuống đất và
nắp quan bị bật tung ra. ế là người quá cố tuy còn nằm trong
- quan, nhưng cả người hơi trượt xuống phía chân, cánh tay phải
của ông ấy văng ra ngoài áo quan.
Tất cả mọi người rú lên kinh hoàng. Rồi im lặng. Im đến
mức có thể nghe thấy tiếng tích tắc của đồng hồ trong túi người
đứng bên cạnh. Ánh mắt mọi người chăm chăm hướng vào
khuôn mặt cứng đơ của người quá cố. Lúc đó, bác sĩ Heribert
đứng cạnh quan tài. Ông vừa đi dạo về qua cổng thành. Ông lách
qua đám đông, nhưng phải dừng lại phía sau các linh mục. Bây
giờ thì cái áo khoác màu xám của ông chạm vào bộ quần áo màu
đen của người quá cố.
Việc đó xảy ra trong chớp mắt. Ông Heribert nắm tay người
quá cố đang giơ lên, chắc là để đưa lại vào quan tài. Nhưng
không, ông giữ lại nó trong tay mình, các ngón tay ông cử động
không yên, mắt ông nhìn vào mặt người chết. Rồi ông đưa tay
mở mi mắt bên phải của người ấy.
“Này, làm cái gì thế hả?” Anh Ostrohradský quát lên. “Sao
không ai sửa lại đi? Để chúng tôi đứng ở đây mãi sao?
Mấy thanh niên giơ tay ra.
- “Khoan đã!” Ông Heribert bé nhỏ kêu lên, tiếng ông vang to
đến không ngờ. “Ông ấy chưa chết đâu!”
“Vô lý! Ông điên à?” Bác sĩ Link gầm lên.
“Cảnh sát đâu?” Anh Ostrohradský chêm vào.
Tất cả đều cực kỳ bối rối. Chỉ có ông thợ nấu bia Kejřík đi
nhanh đến ông Heribert, lúc đó đang bình tĩnh.
“ ế là thế nào?” Ông hỏi một cách mong mỏi, hi vọng “Ông
ấy... quả thật ông ấy chưa chết ư?”
“Chưa. Ông ấy chỉ bị cứng người thôi. Bây giờ các ông hãy
đưa nhanh ông ấy vào một nhà nào đấy để ta thử cứu xem.”
“Ông này thật điên rồ!” Bác sĩ Link kêu lên. “Nếu mà ông ấy
chưa chết thì...”
“Ông này là ai vậy?” Anh Ostrovský hỏi.
“Nghe bảo là bác sĩ...”
“Bác sĩ Hại đời thì có!... Cảnh sát đâu?” Anh thợ làm dây thắt
lưng quát, và đột nhiên nhớ đến năm nghìn zlatý.
“Bác sĩ Hại đời,” các ông viên chức Kdojek và Mužík lặp lại.
- Nhưng người bạn tận tụy Kejřík cùng với một số thanh niên
đã cẩn thận khênh quan tài vào quán U Vápenice ở ngay cạnh đó.
Cả phố ồn ào náo động. Xe tang rời đi, những người đánh xe
ngựa cũng quay đi. Ông viên chức Kdojek gọi mọi người:
“Ta vào đi, thế nào cũng biết được hết mọi việc!” Nhưng
không một ai biết phải làm cái gì.
“Tốt quá, ông cảnh sát đã đến rồi!” Anh Ostrohradský chào
viên cảnh sát. “Đang có chuyện trái phép lôi thôi lắm ông ạ...
làm nhục người quá cố giữa thanh thiên bạch nhật... cả một nửa
Praha đã trông thấy...” Nói đoạn, anh ta theo cảnh sát đi vào
quán. Bác sĩ Link lỉnh đi đâu mất. Một lúc sau, anh Ostrohradský
quay ra, sau anh ta là viên cảnh sát. Ông này nói với đám đông:
“Các ông các bà giải tán đi chứ! Không ai được vào trong ấy
đâu! Bác sĩ Heribert nói là sẽ làm cho ông Schepeler tỉnh lại.”
Bà vợ ông Schepeler muốn ra khỏi xe, nhưng bị ngất đi. Sự
sung sướng nhiều khi có thể giết người. Lúc này ông Kejřík vội
vã đi ra và tới gần chiếc xe ngựa. Mấy người đàn bà đang xúm
quanh bà Schepelerová. Ông bảo họ:
- “Các bà đưa bà ấy về nhà đi, rồi bà ấy sẽ tỉnh.” Rồi ông tự
nhủ: “Bà ấy trông mới dễ chịu làm sao...!” Ông quay lại, lên xe
ngựa và đi ra chỗ bác sĩ Heribert đã bảo ông đến.
Xe đi khỏi, những người đưa đám cũng tản đi. Nhưng ở cổng
thành vẫn còn đầy người và cảnh sát phải đứng trước quán để
giữ trật tự. Người ta tụ tập thành từng nhóm, bàn tán đủ chuyện
lạ đời. Có nhóm thì nói xấu bác sĩ Link, kể đủ thứ xấu xa về ông
ấy, có nhóm thì chế giễu ông Heribert. Ông Kejřík thì chạy ra
chạy vào; với vẻ mặt rạng rỡ, lúc đầu ông báo tin: “Rất có nhiều
khả năng!”, sau đó lại bảo: “Chính tôi cũng thấy mạch đập rồi.
Bác sĩ quả là người thần!”. Rồi ông cuống quýt kêu: “ ở được
rồi! ở được rồi!” và chạy vội ra xe ngựa để đi báo tin vui cho bà
Schepelerová.
Cuối cùng, mãi đến khoảng 10 giờ tối, người ta khênh một
cái cáng trùm kín ra khỏi quán Vápenice. Bác sĩ Heribert và ông
Kejřík đi một bên, viên cảnh sát đi phía bên kia.
Tất cả mọi quán ăn ở Malá Strana đều đông chật người đến
tận quá nửa đêm. Người ta không nói về cái gì khác ngoài chuyện
- ông Schepeler sống lại và về bác sĩ Heribert, người ta bàn tán
chuyện trò rất hào hứng.
“Ông ấy biết nhiều hơn cả sách vở!”
“Cứ chỉ nhìn ông ấy là đủ thấy! Cha ông ấy vốn đã là bác sĩ
giỏi đấy! Cha truyền con nối mà!”
“Ông ấy không muốn chữa bệnh à? Tất nhiên là ông ấy phải
là bác sĩ rất đắt!”
“Chắc là ông ấy có tiền, thế đấy thôi!”
“Tại sao mà người ta lại gọi ông ấy là bác sĩ Hại đời nhỉ?”
“Hại đời ư? Tôi chẳng nghe thấy bao giờ.”
“Hôm nay tôi nghe thấy có đến hàng trăm lần”...
Hai tháng sau, ông Schepeler lại đi làm ở công sở như trước.
“Ở trên kia có ông trời, ở dưới đất này có bác sĩ Heribert!” Ông
nói vậy. Có lúc ông lại bảo “Anh Kejřík là vàng!”
Cả thành phố nói về bác sĩ Heribert. Chắc hẳn báo chí ở khắp
nơi trên thế giới cũng đều viết về ông. Tất nhiên là cả khu Malá
Strana tự hào hãnh diện vì ông. Người ta kể cho nhau nghe
nhiều chuyện lạ. Nào là các công tước, bá tước, các nhà quý tộc
- quyền quý, ai ai cũng muốn mời bác sĩ Heribert làm bác sĩ riêng
cho mình. Nào là nhà vua Ý đã dự tính thuê bác sĩ bằng một
khoản tiền lớn chưa từng thấy. Nói chung, những người tha
thiết mời bác sĩ chăm sóc cho mình đều là những người mà cái
chết của họ có thể mang lại sung sướng cho nhiều người khác.
Nhưng bác sĩ Heribert hoàn toàn không để ý đến ai. ậm chí,
người ta còn kể rằng bà vợ ông Schepeler đã mang đến cả một túi
tiền, nhưng chưa lần nào được ông tiếp. Nghe bảo lần cuối cùng
bà đến, ông đã đổ nước từ hành lang xuống người bà.
Vậy là lại thấy ông chẳng quan tâm gì đến ai. Người ta chào
ông, nhưng ông không hề chào lại. Ông lại thất thểu đi trên
đường phố như trước, cái đầu nhỏ bé gầy gò và nhợt nhạt của
ông luôn luôn run rẩy. Không bao giờ ông nhận chữa cho ai.
Nhưng người ta vẫn cứ gọi ông là bác sĩ Hại đời, cái tên ấy đến
với ông một cách tự nhiên như từ trên trời rơi xuống vậy.
Phải đến chục năm nay tôi không trông thấy ông. Tôi cũng
không biết ông có còn sống không. Nhưng ngôi nhà nhỏ của ông
ở phố Oujezd vẫn còn đó, có lẽ có ngày tôi phải đến hỏi xem sao.
BÌNH SLAVICKÁ dịch
- THỦY THẦN
B ao giờ ông Rybář cũng cầm cái mũ trong tay. Ngay cả khi
trời rét căm căm hay nắng chói chang, cùng lắm thì ông
cũng chỉ nâng chiếc mũ trụ rộng vành lên trên đỉnh đầu như
nâng một cái ô. Mái tóc bạc trắng của ông được chải phía sau,
bện chặt và buộc lại, chắc đến mức cứng không vung vẩy được.
Đó là một trong những cái đuôi tóc bện cuối cùng ở Praha, ngay
ngày ấy cũng chỉ còn hai, hoặc ba người tết tóc như vậy thôi. Ông
mặc cái áo khoác màu xanh lá cây có cúc vàng. Áo có hai vạt
trước ngắn cũn nhưng lại có vạt sau dài lê thê, thành thử ông
vốn nhỏ bé trông càng như choắt lại. Cái áo sơ mi trắng che kín
bộ ngực lép của ông, cái quần đen có ống chỉ dài quá đầu gối một
tí, ở hai gấu quần có hai cái mặt khóa bằng bạc, rồi đôi tất trắng
dài đến đầu gối, cũng có đôi mặt khóa bạc, cuối cùng là đôi giày
to. Tôi không biết đôi giày ấy có được sửa chưa bao giờ không,
nhưng lớp da của nó lúc nào cũng rạn nứt và có vẻ cũ kĩ.
- Trên khuôn mặt dài nhọn và gầy gò của ông Rybář luôn luôn
rạng rỡ một nụ cười. Khi ông đi ngoài đường, trông ông rất đặc
biệt. Cứ đi được khoảng hai chục bước là ông lại dừng lại rồi ngó
nghiêng sang phải sang trái. Như thể những suy nghĩ của ông
không ở trong ông, mà đi sau ông một bước, và chúng luôn mang
đến cho ông những ý nghĩ vui vẻ, vì vậy ông phải cười và thỉnh
thoảng lại nhìn ngó một cách tinh nghịch. Khi chào một người
nào đó, ông chỉ nâng tay phải, giơ ngón trỏ lên cao rồi huýt nhẹ.
Bao giờ ông cũng huýt nhẹ như thế khi bắt đầu cất tiếng nói, và
thường bắt đầu bằng từ “ờ”, với nghĩa đồng ý chấp nhận.
Nhà ông Rybář ở đường Hluboká, ngay phía dưới bên tay
trái, có mặt tiền hướng sang đồi Petřín. Nhưng cho dù đã đứng ở
trước cửa nhà mình, cứ hễ trông thấy những người nước ngoài
nào rẽ tay phải đi sang khu Hradčany[23], bao giờ ông cũng đi
theo họ. Khi họ dừng lại ở các điểm tham quan để chiêm ngưỡng
vẻ đẹp của Praha, ông thường đứng cạnh họ, giơ ngón tay và
huýt nhẹ: “Ờ, biển! Tại sao chúng tôi không có biển nhỉ!” Rồi ông
đi cùng họ vào Lâu đài Praha. Khi thấy khách du lịch chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của những bức bình phong có chạm đá quý, ông
huýt sáo một lần nữa: “ ế đấy, thế đấy! Ở Séc, nếu đứa trẻ chăn
- dê có lấy đá ném theo đàn dê thì hòn đá ấy thường quý hơn và có
giá trị hơn đàn dê!” Chưa bao giờ ông nói với họ về cái gì khác
những điều đó.
Bởi vì cái tên có nghĩa là Người Đánh Cá của ông, bởi cái áo
khoác màu xanh lá cây ông mặc, bởi cái từ “biển” mà ông hay
nói, chúng tôi gọi ông Rybář là ủy thần. Nhưng bất kể người
già con trẻ, tất cả chúng tôi đều kính nể ông. Ông quê ở vùng
Turnov, là luật sư đã về hưu. Tại Praha, ông ở cùng với một cô
cháu họ gần, còn trẻ, có chồng là viên chức nhỏ và có hai hay ba
đứa con. Người ta kể rằng ông Rybář là một người cực kỳ giàu có.
Không hẳn là vì nhiều tiền, mà là do ông có nhiều đá quý. Họ kể
là trong căn phòng nhỏ của mình, ông có một cái tủ cao màu
đen, trong tủ có rất nhiều cái hộp to và thấp cạnh, sơn màu đen.
Mỗi một chiếc hộp được chia bằng các dải băng dính màu trắng
thành các ô nhỏ, trong ô nào cũng có một viên đá quý sáng bóng
đặt trên lớp bông. Có người đã tận mắt trông thấy nó. Nghe nói
tất cả những viên đá quý ấy đều do ông tìm thấy ở núi Kozákov.
Bọn trẻ con chúng tôi thì thường kể cho nhau nghe về chuyện ở
nhà cô Šajvl, tức là ở nhà người cháu họ của ông Rybář, rằng ở
nhà ấy có rất nhiều đường kính. Vì vậy mà chúng tôi vô cùng
- ghen tị với các con của cô. Một lần, tôi ngồi ở trên trên bờ lũy ở
cổng thành Bruska, gần ông Rybář. Cứ khi nào đẹp trời là ông lại
ra đó khoảng một tiếng, ông ngồi thoải mái trên bãi cỏ và hút
tẩu. Lần ấy có hai sinh viên lớn tuổi đi qua, một anh nhạo ông:
“Ông này đang hút bông lót váy của mẹ!” Từ đó, tôi cho việc “hút
bông lót váy của mẹ” là một cái gì khác thường mà chỉ những
người giàu có mới có thể làm được.
Cứ như vậy, “ ủy thần” thường đi dạo ở khu cổng thành
Bruska. Nhưng mà có lẽ không nên gọi ông là ủy thần nữa, vì
chúng tôi đâu còn là trẻ con! Các kinh sĩ cũng thường đi dạo ở đó.
Bao giờ gặp ai, ông cũng nhẹ nhàng nói vài lời. Tôi nhớ hồi đó,
tôi rất thích nghe người lớn nói chuyện. Một lần, tôi nghe thấy
ông đứng nói chuyện với hai người kinh sĩ ngồi ở một chiếc ghế
dài. Họ nói về “Frankreich”, về sự “tự do”, toàn là những chuyện
lạ tai. Đột nhiên, ông Rybář giơ cao ngón tay và huýt một tiếng:
“Ờ, tôi cứ theo Rosenau. Ông Rosenau đã nói là sự tự do giống
như thức ăn ngon và rượu mạnh. Nó nuôi sống người nào mạnh
mẽ và làm cho người ta mạnh hơn, nhưng nó làm mệt, làm say,
nó hủy hoại người yếu đuối.” Nói đoạn, ông nhấc mũ lên chào rồi
bỏ đi.
- Ông kinh sĩ to béo suy nghĩ: “Ông ấy bao giờ cũng nói đến
Rosenau là nghĩa sao?” Ông thứ hai, cũng béo, nhưng nhỏ người
hơn, trả lời: “Nhà văn, chắc là nhà văn.”
Nhưng tôi nhớ đến nội dung của câu ấy với tất cả những điều
thông thái chứa trong nó. Tôi có ấn tượng cao đẹp về Rosenau,
tương tự như về ông Rybář. Sau này, khi lớn lên và tự mình đọc
được đủ các loại sách, tôi mới nhận ra rằng hồi đó ông Rybář đã
trích dẫn khá đúng. Cái khác duy nhất là câu đó không phải do
một Rosenau nào viết, mà chính là Roussenau[24] với hai chữ “s”
trong tên. Chắc hẳn đó chỉ là một điều ngẫu nhiên dẫn đến cách
phát âm sai như vậy của ông, nhưng hoàn toàn không vì thế mà
làm giảm sự kính nể của tôi đối với ông. Quả thật, ông là một
người vô cùng tốt!
Lúc đó là khoảng ba giờ chiều của một ngày tháng tám đầy
nắng. Người nào đang đi ở phố Ostruhová cũng dừng lại; người
nào đang đứng ở trước cửa nhà thì vội gọi ai đó ở trong nhà; mọi
người từ các cửa hàng đều chạy ra đường. Tất cả đứng nhìn theo
ông Rybář đang đi xuống dốc. “Ông ấy đi khoe của đấy,” ông
Herzl, chủ quán bia ở nhà Hai mặt trời, bảo vậy. Tôi cũng muốn
- nói là theo ngôn ngữ của Malá Strana thì “hai mặt trời” quả
đúng là hai mặt trời.
“Ấy, thế đấy!” Ông Vitouš ở cửa hàng chỗ góc phố kêu lên,
“Chắc là bí lắm mới mang đi bán!” Tôi lấy làm tiếc, nhưng phải
nói rằng ông Vitouš không được láng giềng tôn trọng lắm. Người
ta kể rằng đã có lần ông ấy suýt bị phá sản. Và cho tới bây giờ,
những người tử tế ở Malá Strana nhìn “người bị phá sản” bằng
con mắt khác hẳn so với người ở nơi khác.
Ông Rybář vẫn bình thản đi tiếp, hơi nhanh hơn một chút so
với lệ thường. Nách trái ông kẹp một trong những chiếc hộp
màu đen mà người ta thường kể nhiều về chúng. Ông kẹp cái hộp
vào mình, chặt đến mức mà cái mũ cầm trong tay như dính vào
chân. Trong tay phải ông là chiếc ba toong có tay cầm bằng ngà
voi. Cứ theo đó thì thấy là ông đang đi chơi thăm ai, vì những lúc
khác không bao giờ ông mang ba toong. Khi có người chào, ông
nhấc gậy chào lại và huýt sáo to hơn mọi ngày.
Ông đi hết phố Ostruhová, qua quảng trường ánh Mikuláš
rồi bước vào nhà ông Žambecký, lên tầng ba gặp ông Mühlwezel,
giáo sư trường trung học, nhà toán học và khoa học tự nhiên.
- Ngày đó, người có kiến thức như vậy là người khác thường.
Nhưng ông Rybář đã không dừng lâu ở đó. Giáo sư Mühlwenzel
lúc đó đang vui vẻ thoải mái. Cơ thể to béo của ông vừa được
nghỉ ngơi sau giấc ngủ trưa. Những sợi tóc bạc dài của ông vén
quanh đầu, tủa ra mọi phía. Cặp mắt xanh đầy sức sống và thiện
cảm của ông sáng lên. Đôi má vốn hồng hào của ông nóng rực.
Trên đôi má to và hiền hậu ấy có đầy nốt rỗ vì thủy đậu, và đó là
điều mà giáo sư thường đem ra để pha trò. “Chuyện đời là vậy,”
ông nói, “khi cô gái cười mà có một lúm đồng tiền thì người ta
bảo là đẹp, nhưng khi tôi cười, tôi có tới hàng trăm lúm đồng
tiền mà người ta lại bảo là xấu!”
Giáo sư mời ông Rybář ngồi vào ghế bành rồi hỏi: “Nào, tôi
có thể giúp ông được cái gì?”
Ông Rybář thận trọng đặt chiếc hộp lên bàn rồi mở ra. Các
viên đá sáng loáng lộ ra. “Tôi muốn... tôi chỉ muốn biết... cái
này... đáng giá bao nhiêu.” Ông lắp bắp rồi ngồi xuống, chống
cằm vào tay cầm của chiếc ba toong.
Giáo sư Mühlwenzel xem các viên đá. Sau đó, ông lấy ra một
viên tối màu, để trong tay và chìa ra chỗ sáng ngắm nghía.
nguon tai.lieu . vn