Xem mẫu

  1. NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ KHU PHỐ NHỎ VEN SÔNG (Tập truyện ngắn) Tác giả: Jan Neruda Dịch giả: Bình Slavická và Dương Tất Từ Nhà xuất bản: Văn Học
  2. We thank the Ministry of Culture of the Czech Republic for financial support for the translation and publishing of this book. Trân trọng cám ơn Bộ Văn hóa Cộng hòa Séc đã tài trợ cho việc dịch và xuất bản cuốn sách này. Dịch từ nguyên bản tiếng Séc, Povídky Malostranské. Nhà xuất bản Státní Nakladatelství Krásné Literatury, Praha, 1958. Xuất bản theo Hợp đồng sử dụng độc quyền bản dịch giữa tác giả và Nhà xuất bản Văn học.
  3. Chịu trách nhiệm xuất bản: TS. NGUYỄN ANH VŨ Biên tập: Nguyễn ị Hồng Hạnh Bìa: Tú Linh Trình bày: anh Tú Sửa bản in: Hồng Hạnh In 500 cuốn khổ 14,5x20,5. Tại Xưởng in Nhà xuất bản Nông nghiệp, số 6, ngõ 167 Phương Mai, Hà Nội. Số ĐKXB: 3543-
  4. 2018/CXBIPH/16-209/VH cấp ngày 03/10/2018. Số QĐXB: 1698/QĐ-VH ngày 9/10/2018. Mã ISBN 978-604-969-958-0. In xong và nộp lưu chiểu năm 2018.
  5. Tác Giả Jan Neruda (1834-1891) Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà phê bình văn học. Tác giả tiêu biểu của nền văn học Séc thế kỷ XIX.
  6. Bìa Sau G iống như khu phố cổ 36 phố phường Hà Nội, khu phố nhỏ ven sông - Malá Strana - được Neruda mô tả sâu sắc và tinh tế tất cả những thói tật của thị dân, cái vô tâm, ích kỉ cũng như sự nhẫn tâm của lời nói, những điều bịa đặt, những định kiến, tin đồn... như căn bệnh mãn tính, trở thành một thứ thói tật gần như là bản chất của những đô thị mà người ta sống trong những cộng đồng vừa thành thị nhưng cũng vừa rất đỗi làng xã. Khi mỗi cánh cửa mở ra đều có thể soi thẳng vào đời sống của một kẻ khác, khi cuộc sống của kẻ này có thể bị chà đạp bởi cả một cộng đồng rằng rịt trong những mối quan hệ và sự cô đơn chưa trở thành án chung thân của mỗi con người.
  7. NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ KHU PHỐ NHỎ VEN SÔNG ( ay Lời nói đầu) N gày nay, khi đến Praha, cho dù chỉ ở đó vài ngày, nhưng chắc chắn khách du lịch sẽ qua trung tâm, tới cầu Charles (Karlův most) để vượt sông Vltava, sang Lâu đài Praha, điểm du lịch hấp dẫn nhất của thành phố Trung Âu này. Cầu Charles dẫn đến quảng trường lịch sử Malostranské ở tả ngạn sông Vltava, với nhà thờ ánh Nicholas tại trung tâm. Từ đó, có một con phố chạy ngược lên dốc, đến tận lối đi lên Lâu đài Praha. Ở phố đó có rất nhiều hiệu ăn và các cửa hàng bán đồ lưu niệm, xen lẫn các dinh thự hoành tráng mà một số là những trụ sở của Đại sứ quán nước ngoài tại Séc. Con phố đó ngày nay mang tên là Nerudova, theo tên của Jan Neruda (1834-1891), tác giả tập truyện này. Ông đã sống ở phố đó và các truyện trong tập Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông của ông đều được đặt vào những địa điểm xung quanh khu vực đó. Toàn bộ khu phố cổ này nằm ở sườn dốc phía nam của Lâu đài Praha, mang tên là Malá
  8. Strana, tiếng Đức gọi là Kleinerseite. Ngay từ thế kỉ thứ 12, tại đây đã có dân cư sinh sống. Như một đứa bé, một cậu học trò và sau này là chàng trai trẻ, Jan Neruda biết Malá Strana rất rõ. Nhưng rồi sau này, ông đã chuyển sang nơi khác của Praha, sang bờ bên phải sông Vltava, nơi thu hút ông bởi cái hiện đại trái ngược với Malá Strana. Jan Neruda sang sống bên đó, đến gần hơn với đời sống thương mại và văn hóa của cộng đồng Séc đang lớn mạnh ở thế kỉ thứ 19, của cộng đồng mà nhà báo Jan Neruda đồng thời cũng là người dẫn dắt, người ca ngợi và nhà phê bình. Malá Strana đã đứng ngoài lề sự hiện đại hóa mạnh mẽ làm thay đổi các khu phố ở bên kia bờ Vltava. Kể cả cho đến ngày nay, Malá Strana vẫn giữ được đặc trưng cổ kính trước đây, vẫn giữ được hình dáng kiến trúc Baroque từ cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Các dấu hiệu phân biệt nhà bằng hình ảnh kiểu Baroque trên mặt tiền các ngôi nhà nhỏ san sát bên nhau ở Malá Strana vẫn luôn gợi lại thời xa xưa, khi Malá Strana còn là khu phố nghèo của một thành phố cấp tỉnh. Nhưng nhìn bề ngoài thì đó là một địa điểm thơ mộng lý tưởng và cho đến bây giờ nó cũng mang lại cảm tưởng như vậy, cảm tưởng về một nơi đẹp đẽ và hiếu khách. Cho đến bây giờ, Malá Strana vẫn có các con phố hẹp, các lối đi
  9. xuyên qua nhà, các quán ăn nhỏ bé, các góc sân của những ngôi nhà kiểu Baroque, cách tuyến du lịch chỉ vài bước chân, vẫn mang lại cái cảm giác gần gũi thân thuộc của một khu phố nhỏ. Jan Neruda đã biết một Malá Strana như thế, khi ông sống tại phố Ostruhová (tức phố Nerudova sau này) và trưởng thành trong ngôi nhà mang dấu hiệu Hai mặt trời (U Dvou slunců), ngôi nhà cho đến nay vẫn được gọi bằng tên như vậy. Jan Neruda là ai? Về các thể loại sáng tác khác nhau của mình, Neruda đã viết ở báo Hài hước (Humoristický list) như sau: “Anh không thể biết được là tôi thích đọc Sách thơ của anh đến như thế nào đâu,” người phụ nữ cất giọng cao vót, trong và ngọt như tiếng sáo thổi. - “Này anh bạn ạ, tôi không đọc thơ của anh, vì nó không thanh thoát, nhưng mà truyện của anh, ối trời, đây là cái hay, là cái từ cuộc sống!”, người đàn ông có hiểu biết nói. -... “Tôi nói để anh biết nhé, các truyện của anh, eo ơi, nó thô thiển làm sao, nhưng mà du ký Những chuyến đi ngắn hoặc Các bức tranh ở nước ngoài thì, ái chà chà, cái đó mới đúng là cái anh có tài, dứt khoát là thế!”, một người đàn ông hiểu biết khác khẳng định. - Và người hiểu biết thứ tư thì nắm tay tôi: “Tiểu phẩm, anh bạn quý mến của tôi ạ, anh đừng viết gì khác ngoài
  10. tiểu phẩm nhé!”... Suy từ đó ra thì tôi thấy rõ ràng một điều, hoặc là tất cả mọi sáng tác của tôi đều tuyệt vời, hoặc là nói chung tất cả và nói riêng từng sáng tác, chúng đều không có giá trị gì…” Tất cả “đều không có giá trị gì” ư? Neruda tự đánh giá các sáng tác thơ ca, truyện, du ký và tiểu phẩm của mình bằng cách châm biếm, đồng thời tự chế nhạo mình như vậy. Nhưng trên thực tế, các sáng tác của Jan Neruda vẫn luôn được dịch sang tiếng nước ngoài, vẫn được tái bản nhiều lần; điều đó lại chứng minh đặc điểm thứ nhất - là mọi sáng tác của ông “đều tuyệt vời”. Tác phẩm của Neruda không chỉ được tái bản, mà chủ yếu là được tìm đọc. Truyện và các sáng tác văn xuôi ngắn của ông được dịch sang nhiều ngoại ngữ; ngay cả sau 150 năm, những bài báo của ông vẫn gây hứng thú cho người đọc và không hề bị mất đi cái mới mẻ tươi mát của chúng. Nhưng sinh động nhất là Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông (Povídky malostranské). Đã từ lâu, chúng trở thành một bộ phận của truyền thuyết về Praha, trở thành một phần quen thuộc trong chương trình của điểm đến du lịch hấp dẫn. Các nhân vật và tích truyện của Neruda được đặt vào các địa điểm trên bản đồ thành phố. Có thể nói, hầu
  11. như trong tâm hồn người Séc nào cũng vang tiếng vọng của Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông cả qua tên gọi của một bến tàu điện ngầm. Đó là bến tàu điện ngầm mang tên Malostranská, được đặt bên dưới một trong những dinh thự kiểu Baroque trên địa phận khu phố Malá Strana. Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông không chỉ gợi lại cái nhớ nhung man mác về một thế giới xa xưa và tốt đẹp đã qua, mà còn gợi lên một cuộc sống đầy nghịch lý thô bạo, còn nói về cái tàn nhẫn nhật thường, về sự ích kỉ và đồng thời cả về lòng cảm thông của con người. Các truyện có khi không có tích truyện rõ ràng, chúng nhấp nháy như từng hình ảnh nối tiếp nhau của cuốn phim về cuộc đời. Con mắt nhà báo của Neruda nhìn thấy hết từng chi tiết nhỏ và để ý đến những hành động cư xử bình thường mà - dưới góc độ không muốn lý tưởng hóa, cũng không đánh giá - có thể biểu hiện như những hành động cư xử thô bạo, lạ lùng và kì dị. Nhà văn và nhà báo Neruda không hề có ảo tưởng về mọi người, nhưng đã bị quyến rũ bởi những gì có thể xảy ra trong quan hệ của họ, bởi những điều không ngờ tới trong cư xử của họ. Neruda không đánh giá và cũng không giải thích - ông chỉ ghi chép lại, và có thể vì thế mà ông vẫn luôn
  12. luôn là người của hiện tại, đồng thời sáng tác của ông không chỉ gắn liền với Praha. Độc giả nào cũng có lần biết cái lạ lùng của cuộc sống bình thường. Những câu chuyện kì dị của hàng xóm láng giềng thường là bộ phận của cuộc sống chung giữa các thành viên của các cộng đồng, bất kể những cộng đồng ấy sống tại trung tâm châu Âu, hay một nơi nào đó ở châu Á. Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông mang trong mình con mắt nhìn hai chiều về sự sống và cái chết, niềm vui và nỗi đau, về sự nhẫn tâm và lòng thương cảm, cái thờ ơ và sự sẻ chia, hồi ức ngây thơ của đứa trẻ và con mắt tinh tường của nhà báo. Đó là nhà báo muốn nhìn thấy những người dân chất phác, nghèo khó, không địa vị của thành phố mình, muốn viết về những cái bình thường có thật của cuộc sống, kể cả khi những cái đó không phải là điều dễ chịu. Khuynh hướng hiện thực và sự thiếu thốn về chủ nghĩa lý tưởng trong sáng tác làm giới phê bình thời đó phần nào có chỉ trích Neruda. Khi xuất bản Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông (1878), ông đã muốn phản ứng lại sự phê bình đó và tự bình luận tác phẩm của mình một cách hài hước trong tiểu phẩm đăng ở nhật báo Dân tộc như sau: “Neruda chỉ viết về tầng lớp dưới, về tầng lớp xã hội, nơi mà tình
  13. cảm không bao giờ được thể hiện nhẹ nhàng và sự thật vẫn còn có giá trị hơn cái dối trá, cho dù nó có khôn khéo đến đâu... Các ý tưởng trong Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông gập ghềnh nhấp nhô như con đường lát đá ở Constantinople, tản mạn phân tán như con chó con nhắng nhít, gai góc hung dữ như kẻ đi thu thuế...” Cái hương vị ngọt đắng trong mô tả hiện thực về con người ở Malá Strana cũng được thể hiện trong cách sử dụng ngôn ngữ. Trong văn học truyền thống Séc, Neruda được coi là người đưa thứ tiếng Séc “không tắm rửa, không chải chuốt, từ đường phố” vào ngôn ngữ văn học, theo lời của F.X. Šalda, một trong những nhà lý luận và phê bình nổi tiếng nhất của văn học Séc hiện đại. Nhờ Neruda mà tiếng Séc phổ thông được đưa vào văn học. Nhưng ngôn ngữ trong Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông không chỉ là tiếng Séc dân gian, mà ngược lại. eo một chuyên gia về sáng tác của Neruda, thì Neruda cũng là người triệt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Séc. Ông là người cố gắng tạo ra một phong cách viết đặc biệt nhằm đưa tiếng Séc tách xa tiếng Đức hơn, bởi trong thế kỷ 19, ngay cả ở Séc, tiếng Đức là ngôn ngữ chiếm ưu thế về mặt văn hóa và có truyền thống văn học phong phú hơn, mạnh hơn
  14. nhiều. Mục đích là để giới thiệu tiếng Séc như một ngôn ngữ có nhiều mức độ, phong phú về khả năng diễn đạt, là ngôn ngữ sinh động sâu sắc, giàu tính biểu cảm, gợi cảm tinh tế, đồng thời là ngôn ngữ đầy nghịch lý. Ở đây, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện chuyển tải tích truyện, mà chính bản thân ngôn ngữ là tích truyện của Malá Strana. Vì những điều đó mà Neruda là tác giả của ngày nay, vì những điều đó mà Neruda luôn mang đến cho người đọc nhiều niềm vui và hứng thú, nhưng đồng thời cũng làm cho người dịch sách trăn trở đắn đo bội phần khi chuyển ngữ. Neruda không chỉ là nhà văn, ông còn là nhà thơ quan trọng nhất của thời đại mình. Nền thơ ca Séc không thể đi đến đỉnh cao ở thế kỉ thứ 20, nếu không có những cách tân trong thơ ca của ông. Nền báo chí Séc không thể có phong cách viết riêng trong thể loại tiểu phẩm sắc bén và hóm hỉnh về cuộc sống bình thường, về văn hóa và chính trị, nếu không có phong cách viết báo của ông. Neruda cũng là một trong những người tiêu biểu nhất trong cuộc chiến vì bản sắc dân tộc của văn hóa Séc và vì độc lập về văn hóa trong phạm vi nhà nước quân chủ Áo - Hung đa dân tộc đa ngôn ngữ ngày đó.
  15. Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông vì vậy có thể là cuốn sách hướng dẫn tham quan Praha, là cánh cửa mở dẫn đến nền văn hóa Séc, nói cách khác là dẫn đến cả khu vực. Đến khu vực có một quá khứ vừa tàn bạo vừa lạc quan đầy kịch tính. Đến khu vực có cái vẻ vang trong quá khứ và cái vinh quang mới trong hiện tại, một khu vực bao giờ cũng đẹp, nơi có những con người có tính nết cư xử hoặc cộc cằn, hoặc thân thiện, giống như ở mọi nơi khác trên thế giới. PGS. TS. Libuše Heczková, Viện Văn học Séc và Văn học so sánh, Khoa Triết - Charles University Bình Slavická dịch
  16. TÓM TẮT TIỂU SỬ VÀ TÁC PHẨM CỦA JAN NERUDA J an Neruda là nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học. Ông sinh ngày 9/7/1834 tại khu Malá Strana, Praha. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đã làm nhiều công việc khác nhau, cũng đã làm việc như một viên chức và một nhà giáo, nhưng chỉ trong thời gian ngắn. Ông theo học khoa Luật và khoa Triết, nhưng đều bỏ dở không học hết. Năm 1858, ông tham gia xuất bản niên giám mang tên Máj nhằm giới thiệu thế hệ tác giả nòng cốt của văn học Séc thế kỉ 19. Trong số đó có bà Karolína Světlá, một trong những nữ tác giả Séc nổi tiếng nhất, người mà sau này Jan Neruda rất gần gũi. Vào thời gian này, tập thơ đầu tiên của ông ra đời, đó là tập Hřbitovní kvítí (Hoa nghĩa địa, 1857). Trong những năm 1859-1860 ông làm biên tập cho tạp chí Obrazy života (Hình ảnh cuộc sống). Vào thời gian này, ông đi du lịch rất nhiều, chủ yếu là đi các nước Ả- rập. Sau những chuyến đi ấy, ông đã viết sách du ký, như Menší cesty (Những chuyến đi ngắn), Obrazy z ciziny (Những bức tranh từ nước ngoài). Năm 1863-1864, ông chủ trì tạp chí Rodinná
  17. kronika (Nhật ký gia đình), năm 1865-1867 ông là một trong những người thành lập tạp chí Květy (Hoa); tuy có một số thay đổi nhưng tạp chí vẫn được xuất bản cho đến nay. Năm 1864, ông xuất bản tập truyện ngắn Arabesky (Arabesque) về những kiểu người đặc biệt và số phận bi hài của họ. Từ năm 1865 đến khi qua đời năm 1891, ông làm biên tập cho nhật báo chính trị Národní listy (báo Dân tộc). Ông đã viết cho báo này tới hơn hai nghìn tiểu phẩm, vì vậy ông còn được coi là một trong những người sáng lập ngành báo chí Séc. Năm 1868, ông xuất bản tập thơ thứ hai mang tên Knihy veršů (Sách thơ). Tập thơ mang tên Písně kosmické (Bài ca vũ trụ) xuất bản năm 1878 là tập thơ rất được ưa chuộng, lấy cảm hứng từ những kiến thức mới về vũ trụ. Cùng năm đó, ông hoàn thành tập truyện Povídky malostranské (Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông). Năm 1883, tập thơ Balady a romance (Bài ca ballad và lãng mạn) đã làm rạng danh tên tuổi của ông, một số bài ballad đã trở thành những bài ca dân gian. Tập thơ cuối cùng Zpěvy páteční (Bài ca ngày ứ Sáu) được xuất bản năm 1896, sau khi ông qua đời. Jan Neruda từ trần ngày 22/8/1891 tại Praha.
  18. MỘT TUẦN LỄ TRONG NGÔI NHÀ YÊN TĨNH I. GIẤC NGỦ C ăn phòng ấy đóng kín mít. Trong phòng là bóng tối dày đặc, không có một kẽ hở nào để cho dù chỉ một chút ánh sáng lờ mờ bên ngoài có thể lọt được vào. Cái bóng tối ấy dày đặc đến mức giá ta có cảm giác là nhìn thấy một cái gì sang sáng, thì cái sang sáng đó chỉ ở trong tưởng tượng của ta mà thôi. Tuy vậy, trong màn đêm ấy, vẫn có thể nhận ra được mọi biểu hiện nhỏ nhất của cuộc sống. Ta có cảm giác là trong phòng tràn ngập một bầu không khí đầy mùi dầu mỡ, mùi hỗn hợp thô tạp của các loại chất bốc hơi. Có thể ngửi thấy mùi gỗ thông, mùi mỡ bò, mỡ lợn, rồi lại còn có mùi gì như mùi mận khô, mùi hạt thìa là Ai Cập, thậm chí cả mùi rượu nặng, mùi tỏi, và nhiều thứ mùi khác nữa. Có thể nghe thấy cả tiếng đồng hồ chạy tích tắc. Cái đồng hồ này chắc hẳn phải là đồng hồ treo tường đã cũ, có tay lắc dài, ở phía cuối có một vòng tròn bằng tôn mỏng hơi bị vênh.
  19. Cái vòng tôn ấy hơi rung lên mỗi khi tay lắc ngừng chuyển động, và những khoảng khắc đều đặn ấy cứ lặp đi lặp lại đến đơn điệu. Cùng với tất cả những cái đó, còn có thể nghe thấy tiếng thở của những người đang ngủ. Dứt khoát ở đây phải có mấy người đang ngủ. Những tiếng thở của họ trộn lẫn vào nhau, không tiếng nào giống tiếng nào. Có tiếng thở nhỏ nhẹ, có tiếng thở mạnh hơn, có tiếng thở ngắt quãng như tiếng tay lắc của đồng hồ, rồi phì phì gấp gáp. Tự nhiên, cả cái đồng hồ cũng thở dài và cất tiếng điểm giờ, rồi sau đó, tiếng chuyển động của tay lắc như trở nên thầm thì hơn. Một trong những người đang ngủ trở mình và kéo chăn sột soạt; rồi có tiếng cọt kẹt của chiếc giường gỗ. Đồng hồ lại điểm giờ, đánh hai tiếng vang cao, rồi ngay sau đó là hai tiếng vọng trầm hơn. Người ấy lại trở mình. Rồi có tiếng người ấy ngồi dậy, tiếng hất cái chăn, tiếng chân người ấy chạm vào thành giường - bây giờ chắc đã quờ được chiếc dép đi trong nhà - rồi đã xỏ được chân vào cả đôi dép. Người ấy đứng lên, thận trọng bước mấy bước rồi dừng lại, sau đó đưa tay lần
nguon tai.lieu . vn