Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA GÂY MÊ PROPOFOL
KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO CÁC CAN THIỆP
TIẾT NIỆU NGOẠI TRÚ
Tạ Đức Luận*, Nguyễn Thị Quý**
TÓM TẮT
Mục đích nghiên cứu: Đánh giá sự hiệu quả và tính an toàn của gây mê propofol KSNĐĐ cho các can
thiệp ngoại khoa tiết niệu ở bệnh nhân ngoại trú.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả cắt ngang. Từ tháng 4 đến tháng 12/2012, tại khoa PT‐GMHS
BVĐHYD TP. HCM, 65 BN được lựa chọn cho can thiệp tiết niệu về trong ngày, ASA I/II, được gây mê tĩnh
mạch với propofol KSNĐĐ, thông khí MTQ, không dùng dãn cơ. Ghi nhận nồng độ đích tại các thời điểm, diễn
biến của sinh hiệu và cách xử trí. Trong mổ đánh giá độ mê bằng thang điểm PRST, sự hài lòng của PTV bằng
thang điểm VAS (tính ngược). Tại PHT đánh giá độ an thần của BN bằng thang điểm OAA/S. Tại PHP đánh
giá sự hài lòng của BN bằng VAS.
Kết quả: Nồng độ đích (mcg/ml) trung bình lúc mất tri giác: 1,3±0,31 (0,6‐2,0); đặt MTQ: 3,64 ± 0,35(2,6‐
4); trong can thiệp: 3,87 ± 0,37(3‐5); khi HT: 1,18 ± 0,31(0,4‐2,6).Thời gian mất tri giác(giây): 46,02±7,71(34‐
78); thời gian HT(phút): 13,95±5,20(7‐35). Điểm PRST luôn ≤1; sự hài lòng PTV: 9,83±0,52. Điểm OAA/S khi
về PHT: 5đ 33 ca (50,7%); 4đ 25 ca (38,5%); 3đ 7 ca (10,8%). Sự hài lòng của BN: 0,46±0,82đ. Các phiền nạn:
tụt HA phải sử dụng ephedrine: 5 ca (7,7%); mạch chậm: 11ca (16,9%). Không có trường hợp nào suy HH
trong và sau mổ.
Kết luận: Phương pháp gây mê tĩnh mạch bằng propofol KSNĐĐ với thông khí MTQ dễ sử dụng, có thể
áp dụng cho các can thiệp tiết niệu trung bình và ngắn, về trong ngày với hiệu quả và an toàn cao.
Từ khóa: gây mê tĩnh mạch, kiểm soát nồng độ đích, gây mê ngoại trú, can thiệp tiết niệu
ABSTRACT
STUDYING EFFICACY AND SAFETY OF INTRAVENOUS ANESTHESIA WITH TARGET
CONTROLLED INFUSION PROPOFOL FOR UROLOGICAL PROCEDURES IN OUTPATIENTS
Ta Duc Luan, Nguyen Thi Quy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 88 - 94
Objective: Studying efficacy and safety of intravenous anesthesia with TCI propofol for urologycal
procedures in outpatients.
Methods: Prospective, descriptive and cross‐sectional study. From 4/2012 to 8/2012, at surgery
anesthesiology department, university medical centre, 65 patients were selected for ambulatory surgery,by ASA
I/II to undergo urological procedures, received intravenous anesthesia with TCI propofol, LMA ventilation
without muscle relaxants. The study recorded TCI at different times as well as vital signs and solutions. During
operation, anesthesia depth was evaluated by PRST, the satisfaction of practioners was evaluated by VAS (in
reverse). In the recovery room, hypnosic was evaluated by OAA/S, and the satisfaction of patients was avaluated
by VAS
Result: Mean target concentration (mcg/ml) at losing awareness: 1.33±0.31 (0.6‐2.0); LMA insertation:
* Bệnh viện 30/4
** Viện tim TP. HCM
Tác giả liên lạc: BS Tạ Đức Luận
ĐT: 0903 953 874
88
Email: bsluan.gmhs@gmail.com
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
3.64 ± 0.35(2.6‐4);intervene: : 3.87 ± 0.37(3‐5);recovery: 1.18 ± 0.31(0.4‐2.6); losing awareness time (second):
46.02±7.71 (34‐78);recovery time (minute): 13.95±5.20 (7‐35). PRST score allways stays below 1; the
satisfaction of practioner : 9.83±0.52; OAA/S when arriving at recovery room:5 points for 33 cases ( 50.7%); 4
points for25 cases (38.5%); 3 points for 7 cases (10.8%). The satisfaction of patients:
0.46±0.82.Complications:blood pressure fall needs the use of ephedrine: 5 cases (7.7%);slow pulse: 11cases
(16.9%). There was no respiratory failure during and after procedure.
Conclutions: Intravenous anesthesia with propofol TCI, together with LMA ventilation is easy to use and
able to apply to medium and short urologycal procedures for outpatients with high efficacy and safety.
Key words: intravenous anesthesia, target controlled infusion(TCI),anesthesia for outpatients, urologycal
procedure
MỞ ĐẦUPhẫu thuật trong ngày (PTTN) được
Ralph Water mô tả đầu tiên vào năm 1918.
PTTN mang lại nhiều lợi ích như mức độ hài
lòng cao của bệnh nhân, giảm nguy cơ nhiễm
trị cũng
trùng,
giảm
chi
phí điều
như giảm được số lượng bệnh nhân chờ mổ.
Trong chiều hướng đó, gây mê hồi sức
(GMHS) cũng phát triển đáng kể để đáp ứng
kịp thời với nhu cầu phát triển ngoại khoa. Với
sự ra đời của nhiều loại thuốc mê mới có tác
dụng nhanh, êm dịu; nhiều phương pháp
phẫu thuật ít xâm lấn và kỹ thuật GM mới làm
cho số lượng và tỉ lệ của gây mê phẫu thuật
ngoại trú không ngừng tăng lên.
Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích
(TCI) được ra đời và phổ biến nhanh ở nước ta
với nhiều ưu điểm như kiểm soát mê nhanh, an
toàn, ổn định, dự báo được thời gian hồi tỉnh.
Mặt nạ thanh quản (MNTQ) cũng đang được sử
dụng rộng rãi với nhiều tính năng ưu việt như
kỹ thuật đặt nhanh, không cần dãn cơ, đảm bảo
thông khí tốt, ít xâm lấn. Sự phối hợp
GMKSNĐĐ với thông khí với MNTQ phát huy
được những ưu điểm tinh tế, mang lại sự an
toàn và hiệu quả, đặc biệt trong trường hợp gây
mê cho bệnh nhân ngoại trú.
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm
xác định hiệu quả và tính an toàn của gây mê
propofol KSNĐĐ kết hợp với thông khí MNTQ
trong các can thiệp ngoại khoa về tiết niệu ở
bệnh nhân ngoại trú.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Niệu Khoa
Tiền cứu, mô tả cắt ngang
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân có chỉ định can thiêp ngoại
khoa tiết niệu, tuổi từ 16 đến 70, ASA I, II, dự
kiến cuộc mổ không kéo dài hơn 90 phút. BN
được giải thích rõ và tự nguyện đồng ý tham gia
PTTN trong thời gian từ tháng 4/2012 đến tháng
8/2012 tại khoa PT‐GMHS bệnh viện Đại Học Y
Dược TP. HCM.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân chống chỉ định đặt MNTQ: Độ
mở miệng ≤ 2cm; BN có độ dãn nở phổi giảm,
bệnh xơ hóa phổi; áp lực đường thở cao hơn 30
cm H20; có khối u vùng hầu họng; có tiền sử trào
ngược dạ dày thực quản, phì đại lưỡi, dạ dày
đầy. Chống chỉ định PTTN: Có bệnh kèm theo
nghiêm trọng chưa kiểm soát được (đái tháo
đường, hen phế quản, đau thắt ngực…). Bệnh
béo phì có kèm theo các hội chứng về hô hấp
(suyễn), tim mạch (đau thắt ngực). Bệnh đang
điều trị với các thuốc có tác động trung ương
(IMAO, thuốc điều trị trầm cảm…) người lạm
dụng cocaine. Không có người lớn chịu trách
nhiệm chăm sóc tại nhà sau PT.
Tiến hành GM
Sau khi có chỉ định PT, người bệnh được
khám tiền mê, làm các xét nghiệm tiền phẫu.
Giải thích cho BN và thân nhân, nhịn ăn uống
trước mổ 6 giờ. Tại phòng mổ tất cả bệnh nhân
được thiết lập đường truyền tĩnh mạch với NaCl
0,9%. Theo dõi monitor ECG, nhịp tim, huyết áp
không xâm lấn , SpO2, EtCO2. Sau đó tiền mê
qua đường tĩnh mạch với midazolam 1mg và
89
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Fentanyl 1,5 – 2 mg/kg, Lidocaine 1% 0,5 mg/kg.
Bệnh nhân tự thở 02 100% với lưu lượng
4lít/phút qua mặt nạ mặt để Sp02 > 95%. Khởi mê
bằng phương pháp TCI với gài đặt nồng độ đích
huyết tương (Cp) ban đầu là 6 mcg/ml. Quan sát
thấy BN không mở mắt khi gọi (mất ý thức), ghi
nhận nồng độ đích tại não (Ce): nồng độ mất ý
thức. Nồng độ này sẽ được gài đặt như nồng độ
hồi tỉnh dự kiến. Khi BN có các dấu hiệu: sụp
mi, hàm dưới lỏng, không cử động và ngưng
thở, chúng tôi tiến hành đặt MNTQ, ghi nhận Ce
tại thời điểm này. Sau khi đặt MNTQ, BN được
gắn vào máy thở , duy trì thông khí áp lực
dương kiểm soát. BN được thế thở hoàn toàn
qua máy GM với Vt= 8 – 10ml/kg, tần số thở 12
lần/phút, áp lực thông khí 95% và EtC02
nguon tai.lieu . vn