Xem mẫu
- Năng lực tư duy sáng tạo
trong thời đại ngày nay
Trước tiên, ta hăy nói về năng lực tư duy trong triết học. Triết học chỉ có
thể ra đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến tŕnh độ
phát triển nhất định cho phép khái quát những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc
thành một hệ thống những quan điểm và quan niệm chung về thế giới.
Do đó, nói đến lịch sử triết học không thể không đề cập tới vấn đề năng
lực tư duy của con người, vốn là điều kiện ra đời của triết học, song do
tác động trở lại, triết học cũng là khoa học về những quy luật chung nhất
của tư duy.
Vào thời cổ đại, Aristotle là người đầu tiên biến tư duy thành đối tượng
nghiên cứu của triết học. Ông cho rằng tư duy cũng có những nguyên tắc
tồn tại độc lập và con người chứng minh phải theo đúng quy tắc ấy. Bởi
vậy, ông đă xây dựng phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch,
đă t́m ta nguyên lư của sự chứng minh tam đoạn luận và phân loại 10
phạm trù nhằm mở rộng cả h́nh thức và nội dung của tư duy.
Đến thế kỷ 17, Décertes cũng đă có câu nói nổi tiếng về tầm quan trọng
- của năng lực tư duy đối với sự tồn tại của con người trong vũ trụ: “Tôi
tư duy, vậy tôi tồn tại”. Nguyên lư cơ bản đó của ông mang ư nghĩa tiến
bộ trong lịch sử, bởi nó khẳng định được rằng mọi khoa học chân chính
đều phải xuất phát từ “sự nghi ngờ, nghi ngờ ở đây không phải là hoài
nghi chủ nghĩa, “mà là sự nghi ngờ về phương pháp luận, nghi ngờ để
đạt đến sự tin tưởng”, có nghĩa là tư duy.
Và đại biểu xuất sức của nền triết học cổ điển Đức thế kỷ 18, Heghen
cũng cho rằng, quá tŕnh nhận thức thế giới là quá tŕnh con người xây
dựng nên những khái niệm, tức là con người đă tư duy...
Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, khi nhận thức của con người đă đạt
đến một tŕnh độ cao hơn, th́ năng lực tư duy không c̣n giữ nguyên nghĩa
mà đă trở thành năng lực tư duy sáng tạo. Bởi lẽ, người ta không chỉ tư
duy để có những khái niệm về thế giới, mà c̣n sáng tạo nhằm thay đổi
thế giới làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Với sinh viên nói riêng,
năng lực tư duy sáng tạo đă trở thành một trong những điều kiện cần
thiết để đem lại cho họ một công việc hứa hẹn khi ra trường hay xa hơn
nữa là một chỗ đứng vững chắc trong xă hội và trên thế giới. Do đó,
ngay từ khi c̣n ngồi trên ghế giảng đường đại học, sinh viên đă phải tự
chuẩn bị và tạo dựng cho ḿnh năng lực tư duy sáng tạo, coi nó như là
hành trang để bước vào đời. Tuy nhiên, năng lực tư duy sáng tạo của
- sinh viên mỗi nước trên thế giới thể hiện rất khác nhau. Xin lấy dẫn
chứng là 2 cường quốc kinh tế Mỹ và Nhật Bản.
Ở Mỹ, nơi ḷng say mê sáng tạo đă được coi như kim chỉ nam của mọi
thành công, sinh viên luôn phải tự t́m cách nghiên cứu hay giải quyết lấy
mọi vấn đề mà học tập đặt ra. Chẳng hạn như kỳ thi tuyển đặc biệt vào
trường đại học Oxford (Mỹ). Giáo sư chỉ cầm một tờ báo đọc sau khi đă
yêu cầu cậu thí sinh hăy làm điều ǵ đó làm ông bất ngờ nhất, nhằm đo
chỉ số IQ của anh ta. Sau vài giây suy nghĩ, anh bèn châm lửa đốt tờ báo
và rồi ung dung bước vào trường đại học danh tiếng nhất nước Mỹ.
Ví dụ trên đây luôn coi là ví dụ tiêu biểu nhất cho việc đề cao năng lực
tư duy sáng tạo của sinh viên Mỹ. Nói lên sự thông minh, can đảm để
đạt đến thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, ví dụ này cũng chỉ rơ
tính bột phát trong sức sáng tạo của sinh viên Mỹ, nên đôi khi đẩy nó
đến chỗ phản tác dụng như: tinh thần tự giác trong học tập của sinh viên
chưa cao, có những sinh viên quá kiêu hănh về sự thông minh của ḿnh
để rồi cuối cùng năng lực tư duy sáng tạo suy giảm.
Trái với Mỹ, phương pháp tạo dựng năng lực tư duy sáng tạo cho sinh
viên ở Nhật lại khác hẳn. Sinh viên chỉ sáng tạo sau khi tư duy đă chín
muồi. Nói cách khác, sinh viên Nhật phải tích lũy một khối lượng kiến
thức cần thiết trước khi có thể có những sáng tạo một cách đúng nghĩa.
- Tuy nhiên, trên thực tế, khi bước vào quá tŕnh sáng tạo theo kiểu ngẫu
hứng như sinh viên Mỹ, năng lực tư duy sáng tạo của họ rất bị hạn chế
và họ buộc phải tuân theo những điều thuộc về nguyên tắc và vốn là
truyền thống của đất nước mặt trời mọc.
Cựu sinh viên Việt Nam th́ sao? Không thể phủ nhận đây là tầng lớp ṇng
cốt trong những chiến lược phát triển của xă hội chúng ta. Đó là những
thanh niên thông minh, can đảm, dám đương đầu với mọi thử thách của
cuộc sống, và đặc biệt là có năng lực tư duy sáng tạo không thua kém
bạn bè trên thế giới. Nhưng điều đáng quư là năng lực tư duy sáng tạo
của sinh viên Việt Nam luôn được thể hiện ở những đóng góp về tri thức
và sức lực v́ sự độc lập của Tổ quốc hay sự phồn vinh của đất nước.
Vào thời chiến, khi đất nước bị đế quốc phương Tây đô hộ, th́ sinh viên
đă đóng góp công lớn vào sứ mệnh lịch sử giành lại độc lập cho đất
nước, có những sáng tạo đáng kể nhằm thúc đẩy nhanh quá tŕnh kháng
chiến thắng lợi. Một cách trực tiếp, sinh viên đă t́m ra những cải tiến vũ
khí, hay có những nghiên cứu về việc ngắm bắn máy bay địch và việc
vận chuyển lương thực, đạn dược đến căn cứ cách mạng đúng hẹn và an
toàn. Hay một cách gián tiếp, các sinh viên đă đem lời ca tiếng hát làm
dịu đi các chiến trường nóng bỏng đạn bom trong phong trào “tiếng hát
át tiếng bom”. Những đóng góp ấy của sinh viên trên mọi mặt của đời
- sống kháng chiến chính là kết quả của năng lực tư duy sáng tạo được thể
hiện rất phù hợp.
Vào thời b́nh, khi đất nước đang ngày một phát triển về mọi mặt kinh tế-
văn hoá – xă hội, sinh viên cũng luôn là tầng lớp có năng lực tư duy
sáng tạo đáng khích lệ. Họ đă thể hiện tri thức tuyệt vời của bản thân
trong các cuộc thi quốc tế, đem lại vinh quang cho đất nước. Họ cũng có
những công tŕnh nghiên cứu được đánh giá cao và trở thành lực lượng tri
thức chủ lực của 1 Việt Nam “hoá rồng” trong tương lai.
Tuy nhiên, để có thể đem hết tài năng sáng tạo của ḿnh phục vụ tổ quốc
ngày mai, sinh viên cần phải làm những ǵ ngày hôm nay, nếu năng lực
tư duy sáng tạo được coi như là điều kiện quyết định mọi sự thành bại
của xă hội, công ty, xí nghiệp và các cá nhân? Dưới đây, xin giới thiệu
10 cách kích thích sự sáng tạo, khả năng ứng biến và năng lực quan sát:
1. Tin tưởng ḿnh có sức sáng tạo: Trở lực lớn nhất đối với việc kích
thích sức sáng tạo là tự cho ḿnh không có sức sáng tạo. Sở dĩ nhiều
người có quan niệm này là do cha mẹ, thầy giáo... sai lầm đổ cho. Họ
cho rằng sức sáng tạo là cái ǵ không thể với tới được, đối với các nhà
phát minh họ kính nhi viễn chi. Kỳ thức th́ khả năng sáng tạo không có ǵ
thần bí cả. Thật ra đó cũng chỉ là liên tưởng b́nh thường mà thôi.
- 2. Lập tức nắm lấy linh cảm: khi ư thức đă ở vào trạng thái ngủ hoặc
ch́m đắm ở những công việc khác th́ tiềm thức vẫn tiếp tục hoạt động.
Chính trong lúc này linh cảm xuất hiện, cho nên nếu tiện th́ cạnh giường
nên có giấy bút và máy ghi âm, để khi nào linh cảm chợt đến th́ ghi ngay
lại. Làm như vậy, kết quả đạt được hơn hẳn là cứ cố gắng kéo dài suy
nghĩ gây nên sự mệt nhọc, thiếu ngủ.
3. Không thoả măn với hiện trạng: Bằng ḷng với hiện trạng th́ không thể
nào bật ra sức sáng tạo được, cần phải thoát khỏi nếp nghĩ cũ kỹ, thay
đổi nhịp đi b́nh thường.
Hăy làm như cách vẽ tranh, ghi vấn đề lên trang giấy. Vẽ tranh có liên
quan đến hoạt động bán cầu năo phải, nó có thể tạo nên h́nh ảnh, quan
niệm và trực giác. Viết chữ có liên quan đến bán cầu trái phụ trách tri
thức, chữ số logic. Theo ḍng tư tưởng cứ để cho ngọn bút vẽ vung lên,
sẽ ra cái vấn đề anh suy nghĩ, từ nhiều góc độ miêu tả nó, sau đó năo sẽ
điều khiển biến thành một bức tranh sinh động. Dần dần sau khi tạo
thành thói quen dùng thị giác và tri giác xử lư vấn đề, bạn sẽ ngạc nhiên
phát hiện ra rằng linh cảm sáng tạo cũng dễ thôi.
4. Thay đổi hoàn cảnh mới: Việc thay đổi hoàn cảnh mới có quan hệ mật
thiết với sức sáng tạo. Do vậy, thỉnh thoảng bạn nên đi bách bộ trong
công viên hoặc trên băi biển để kích thích sức sáng tạo. Cuối tuần lễ về
- sống vài ngày ở nông thôn cũng làm nảy sinh những ư tưởng mới mẻ.
5. Suy nghĩ nhiều phương án: Những nhà quản lư giàu sức sáng tạo luôn
nói: “Phương pháp này hay đấy, nhưng thử nghĩ xem c̣n có phương pháp
nào tốt hơn nữa không”
Muốn t́m được nhiều cách giải quyết th́ phải dựa vào sự suy nghĩ, hễ gặp
vấn đề ǵ khó, cần phải ghi ngay lại và viết ra những sự việc liên quan và
cách giải quyết mà ḿnh nghĩ ra được, sau đó t́m hỏi những người mà
ḿnh cho là có thể góp cho những ư kiến hay.
6. Đặt ḿnh vào lĩnh vực mới: Bằng mọi cách đặt ḿnh vào lĩnh vực mới
hoặc bắt ḿnh phải từ bỏ hoạt động cũ kỹ chây lười th́ có thể bật ra sức
sáng tạo. Hoạt động tốt nhất là rèn luyện, đánh thức bán cầu năo b́nh
thường ít khi sử dụng đến. Như vậy mới nảy sinh ra những sáng kiến
thần kỳ.
7. Thường xuyên tự hỏi ḿnh: như vậy, bạn có thể khẳng định hay sửa
chữa, hoặc hoàn toàn vứt bỏ nếp nghĩ cũ. Bất kể sử dụng phương pháp
hỏi nào, bạn đều có thể mở ra cánh cửa của sự sáng tạo.
8. Tin tưởng là ḿnh có thể thực hiện được: Tư tưởng này có thể làm cho
anh giải thoát được áp lực, tạo nên sự xuất hiện tư duy mới, bởi thoải
- mái tiếp nhận ḿnh, tin vào mỗi phương pháp mà ḿnh làm, dần dần sẽ
bật ra lời giải đáp.
9. H́nh thành nhóm nghiên cứu: Từ 5 đến 8 người nên tập hợp nhau lại
cùng nghiên cứu một vấn đề, mỗi người có thể tuỳ ư đưa ra những
phương án giải quyết khác nhau.
Điều quan trọng là lúc đầu không nên phê b́nh, tranh căi ǵ cả, ư kiến của
bất kỳ người nào, dù là kỳ quái đi chăng nữa cũng được đối xử b́nh
đẳng, làm cho mỗi người đều được tự do thoải mái không e ngại, ra sức
phát huy trí tưởng tượng của ḿnh. Khi đă nêu ra hết, nhóm mới ghi lại
đưa ra thảo luận. Để tiết kiệm thời gian, trước khi tranh luận mỗi người
nên đọc lại bản ghi chép trước đă. Phương pháp thú vị và hữu hiệu này
có thể động viên nhiều bộ óc cùng nghĩ ra cách giải quyết.
10. Biến suy nghĩ thành hành động: Tất cả những suy nghĩ đều phải
được kiểm nghiệm trong thực tế, có thể mới biết suy nghĩ sáng tạo nào là
đúng. Cần phải thử xem điểm nào dùng được, điểm nào không dùng
được. Khẳng định khả năng sáng tạo của ḿnh, rồi đưa vào thực tiễn làm
như vậy bạn có thể trở thnàh thiên tài đầy sáng tạo.
nguon tai.lieu . vn