Xem mẫu

Trường Đại học An Giang

Tạp chí Khoa học số 01 (2013)

MOTIF KYTO GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT NGHỆ NHÂN VÀ MARGARITA
CỦA M. BULGAKOV VÀ ĐOẠN ĐẦU ĐÀI CỦA CH. AITMATOV
TRONG KỶ NGUYÊN THƯỢNG ĐẾ ĐÃ CHẾT
Nguyễn Thị Tuyết1
ABSTRACT
Using the comparative method as the main method, in this article, we want to point out, the same use of
Christianity motif but two works The Master and Margarita of Bulgakov and The Scaffold of Aitmatov have
innovative creation how theirs compare to the Bible, and contributing to express the idea content and unique
style of each writer. With the meaning of life bring different era color, and in one’s own view, each writer
regenerated old story, one’s own way. Bulgakov, with legendary writing style, has resurrected motif as an
integration and image crossing through the fictionally current story being rich in colors that drops a hint in
the writing The Master and Margarita. And Aitmatov, in The Scaffold, questioned about the existence of God
in life today, and answered it with deep philosophical meaning through the images of scaffold.
Keywords: Christianity, motif, the Master and Margarita, the scaffold
Title: Christian motif in novel The Master and Margarita of M. Bulgakov and The Scaffold of Ch. Aitmatov
in the era God is dead
TÓM TẮT
Bằng phương pháp chủ đạo là so sánh đối chiếu, trong bài viết này, chúng tôi muốn chỉ ra, cùng sử dụng motif
Kyto giáo nhưng hai tác phẩm Nghệ nhân và Margarita của Bulgakov và Đoạn đầu đài của Aitmatov đã có
cách tân sáng tạo như thế nào so với Kinh thánh, đồng thời góp phần thể hiện nội dung tư tưởng và phong
cách độc đáo của từng nhà văn. Với ý nghĩa nhân sinh mang màu sắc thời đại khác nhau, và từ góc nhìn riêng,
mỗi nhà văn tái sinh câu chuyện cũ theo cách riêng của mình. Bulgakov, với lối viết huyền thoại, đã phục sinh
ý nghĩa của motif này như một sự lồng ghép và nhân chéo hình tượng qua câu chuyện hiện tại và viễn tưởng,
giàu màu sắc ám gợi trong tác phẩm Nghệ nhân và Margarita(2). Còn Aitmatov, trong Đoạn đầu(3), đã đặt ra
câu hỏi có tồn tại Chúa trong cuộc sống hôm nay và giải đáp nó bằng ý nghĩa triết lý sâu sắc qua hình ảnh ẩn
dụ đoạn đầu đài.
Từ khóa: Kyto giáo, motif, Nghệ nhân và Margarita, Đoạn đầu đài

1. KỶ NGUYÊN THƯỢNG ĐẾ ĐÃ CHẾT
Thượng đế đã chết(4) như một nghịch ngôn về tiếng yêu tha thiết giữa con người và Thượng đế, bởi
đó là tiếng nói của một con người mộ đạo, yêu chúa, yêu người, nhưng phải tuyên bố khai tử
Thượng đế: F. W. Nietzsche (1844 - 1900). Song, không phải đến thế kỷ XX, người ta mới báo tử về
cái chết không thể cứu vãn này, mà trước đó, với học thuyết Tiến hóa luận, Darwin (1809 - 1882) đã
xé tan bức màn thần thánh thiêng liêng xoay quanh việc sáng thế của Thượng đế và phơi bày bức
tranh trật tự sinh học sinh động, đa dạng trong quy luật của nó. Chủ thuyết ấy là một thách thức lớn
đối với thần quyền thời bấy giờ.
1

Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang
Email: nttuyet@agu.edu.vn
2 Bulgakov, M. (2006). Nghệ nhân và Margarita (Đoàn Tử Huyến dịch). Hà Nội: Nxb Lao động, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ ĐôngTây, các trích dẫn tác phẩm trong bài
chúng tôi đều trích dẫn theo bản này.
3 Aitmatov, Ch. (1989). Đoạn đầu đài (Vũ Việt dịch). Hà Nội: Nxb Tác phẩm mới, các trích dẫn tác phẩm trong bài chúng tôi đều trích dẫn theo bản này

4 Friedrich Wilhelm Nietzsche, triết gia Đức, 1844 - 1900. Mệnh đề trên chứng tỏ sự phủ nhận, sự “lật nhào” các giá trị thống trị, nhằm khẳng định con người với ý chí
mạnh mẽ làm nên tính đa dạng của cuộc sống.

Tạp chí Khoa học số 01 (2013)

Trường Đại học An Giang

Tiếp đó, Freud (1856 - 1939), trong Vật tổ và cấm kỵ, đã chỉ ra nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo,
khởi nguyên là từ tín ngưỡng vật tổ. “Nó (vật tổ) có thể là hình thức sớm nhất của vật thay thế người
cha, còn chúa là cái có sau, trong đó người cha đã lấy lại hình hài con người của mình” (S. Freud,
2001, tr.237). Điều này có nghĩa rằng, sự ra đời của Thượng đế chỉ đơn giản là phản ánh sự thiếu tự
tin của con người trong thời kỳ ban sơ và con người tạo ra Thượng đế như hình hài của chính mình,
chứ không phải Thượng đế tạo ra con người.
Hơn thế, trước đó xa hơn, thế kỷ XVII - thời đại Lý Trí (The Age of Reason) và thế kỷ XVIII - thời
đại Khai Sáng (The Age of Enlightenment), các nhà triết học đã dõng dạc tuyên bố: “tôn giáo là kẻ
thù lớn nhất của lý tính” (Trần Giang Sơn, 2011, tr.385). Nhưng nghịch lý thay, cũng như Kant,
Voltaire khẳng định: “cho dù Thượng đế không tồn tại, thì chúng ta cũng phải tạo ra ngài” (Trần
Giang Sơn, 2011, tr.389) và hãy trả lại Thượng đế cho tín ngưỡng. Những xác tín này chứng tỏ các
nhà khai sáng không phải phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, mà thực chất, là một cuộc cách mạng
để giải phóng thân phận “con hầu của triết học”(5), thoát khỏi sự thống trị lâu dài của tôn giáo. Ngay
cả Nietzsche, người tuyên án tử hình Thượng đế, cũng thừa nhận, Thượng đế chết là con người rơi
vào cõi hư vô rợn ngợp. Triết gia lo âu, sợ hãi, rồi đây, con người sẽ sống như thế nào khi thiếu vắng
Người? Trả lời câu hỏi này, tiểu thuyết gia Dostoievski, trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov đã
chỉ ra sự xói mòn đạo đức cực độ: bởi vì không có Thượng đế nên con người ta có thể làm bất cứ
điều gì. Như một cứu cánh cứu vãn nhân sinh, các triết gia nhất trí rằng: “sự hiện hữu của Thượng
đế là không thể chứng minh được. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa rằng ngài không hiện hữu, chỉ
có nghĩa rằng, sự hiện hữu của ngài không phải là điều có thể chứng minh bằng lý trí” (Bryan
Magee, 2003, tr.73). Bởi chỉ có tôn giáo, tín ngưỡng mới giúp ta tìm được nơi nương tựa cho chỗ
mềm yếu nhất trong con người tâm linh và lớn lao hơn Thượng đế tồn tại vì cuộc sống có đạo đức
của con người. Có lẽ, vì vậy mà chưa bao giờ tắt ngấm ánh sáng lương tri của tôn giáo trong lòng
người, và ánh sáng ấy luôn quyến rũ, nâng đỡ nghệ thuật đạt tới giá trị Chân Thiện Mỹ.
2. MOTIF KYTO GIÁO TRONG TÁC PHẨM NGHỆ NHÂN VÀ MARGARITA VÀ ĐOẠN
ĐẦU ĐÀI
Nghệ nhân và Margarita là tác phẩm mang tính tổng kết sâu sắc về hiện thực đời sống cũng như
quan niệm của nhà văn về ý nghĩa cuộc sống, về con người, về cái chết và sự bất tử, về cuộc đấu
tranh giữa cái thiện và cái ác trong lịch sử, trong thế giới đạo đức của con người. Ở công trình nghệ
thuật thiên tài này, Bulgakov sử dụng motif Kyto giáo như một huyền thoại, để giải mã những vấn
đề xã hội, trong sự gặp gỡ các mối liên hệ và các tuyến cốt truyện độc đáo.
Aitmatov, tác giả của những tác phẩm đã đi vào kho báu của văn học Xô Viết và thế giới, viết Đoạn
đầu đài như một ẩn dụ về chung cục không tránh khỏi của con người, sự suy thoái nhân phẩm đến
mức báo động, đầu độc bản thân và cộng đồng bằng ma túy, sự tàn phá thiên nhiên, săn đuổi động
vật một cách tàn nhẫn... Motif Kyto giáo trong tác phẩm như một khát vọng, một nỗ lực phục
nguyên, cứu vãn nhân phẩm, nhân sinh, nhân loại. Ở đây, chúng ta cần giới thuyết nội dung motif
Kyto giáo. Kyto giáo là tôn giáo đặt nền tảng giáo huấn bằng sự chết trên thập tự giá và sự sống lại
của chúa Giesu như được ký thuật trong Kinh thánh; vì vậy motif chúa bị đóng đinh trên cây thập tự
trở thành yếu tố căn cốt trong thần học Kyto giáo, liên quan mật thiết với giáo lý cứu rỗi, sự thương
khó và sự chết của Đấng Messiah như là điều kiện cần thiết để con người được tha thứ tội lỗi. Hành
động này mang ý nghĩa như sự cứu chuộc tội lỗi (tội tổ tông) mà bậc tổ phụ của loài người, Adam và
Eva, đã mắc phải khi ăn trái của “cây biết điều thiện điều ác”. Chúa bị đóng đinh câu rút và sẽ phục
sinh dung chứa tư tưởng điều thiện sẽ thắng cái ác trong cuộc đấu tranh khốc liệt. Hơn nữa, sự chết
5. Trước thế kỷ XVII, Kyto giáo thống trị mọi mặt đời sống xã hội ở phương Tây, kể cả triết học. Từ sau thế kỷ XVII, các tư tưởng gia và khoa học gia tin rằng lý trí và khoa
học, chứ không phải là Kyto giáo, sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại.

Tạp chí Khoa học số 01 (2013)

Trường Đại học An Giang

của chúa Giesu trên cây thập tự xảy ra ngay sau khi ngài bị bắt và bị xét xử; và hành động xét xử
cũng góp phần thể hiện những ý nghĩa khác nhau, mà trước hết là cho ta cái nhìn đúng đắn về điều
thiện và cái ác. Vì vậy, motif Kyto giáo trong bài viết này bao gồm hành động xét xử, cái chết đau
đớn, khủng khiếp của Người, mà cốt lõi là ý nghĩa của điều thiện, trong cấu trúc cốt truyện và ý
nghĩa thời đại của các tác phẩm. Với Bulgakov và Aitmatov, Kinh thánh không phải là một giáo điều
tôn giáo mà là một giá trị văn hóa của loài người, dung chứa ý nghĩa triết học, đạo đức, thẩm mỹ cao
thâm. Các nhà văn đã dựa vào các truyền thuyết về cuộc đời và cái chết của chúa Giesu trong Tân
ước làm điểm tựa để giải phẫu những vấn đề nhân sinh của thời đại.
2.1. Motif Kyto giáo trong cấu trúc cốt truyện
Điểm chung của hai tác phẩm là có rất nhiều tuyến truyện đan xen và nghệ thuật kể chuyện rất tài
hoa. Nghệ nhân và Margarita có ba tuyến truyện tương ứng với ba không gian: Tuyến truyện về lịch
sử cổ đại - câu chuyện về Ponti Pilat; Tuyến truyện hiện đại - câu chuyện về Nghệ nhân; Tuyến
truyện hiện thực huyễn tưởng - câu chuyện về chúa quỷ Voland. Tác phẩm gồm 32 chương, chia làm
hai phần, trong đó câu chuyện lịch sử cổ đại chính là cuốn tiểu thuyết của Nghệ nhân, viết về việc
Pilat xét xử và hành hình Iesua trên núi Trọc. Mặc dù phân bố rải rác trong không gian tác phẩm
(chương 2, 16, 25, 26) nhưng tuyến truyện này được kể theo lối vừa nhân quả, vừa phi nhân quả. Từ
góc độ Iesua, đây là một câu chuyện tuyến tính, dễ nắm bắt: bị bắt -> xét xử -> đóng đinh -> chết ->
chôn cất; nhưng, từ góc độ Pilat, tác phẩm đã chuyển tải tầm triết lý, thẩm mỹ sâu sắc, mà trước hết
ở sự phi nhân quả trong hành vi của Pilat - quan tổng trấn xứ Giudea.
Đoạn đầu đài là tác phẩm dày 386 trang, được chia làm ba phần, hai phần đầu có chung cốt truyện
và hệ thống nhân vật, kể về Apdi một học sinh trường dòng bị rút phép thông công vì những tư
tưởng cấp tiến về Kyto giáo, phần ba kể về cuộc sống đầy bức xúc và những bi kịch trong cuộc sống
nông trường trong thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp những năm 70 - 80 của thế kỷ XX. Nối phần
một, phần hai với phần ba, ở bề nổi là câu chuyện bi thảm về đấu tranh sinh tồn của cặp sói Acbara
và Tastrainar, bề sâu thống nhất chặt chẽ ở tư tưởng điều thiện, từ motif Kyto giáo (chỉ xuất hiện từ
trang 165 -> 201, kể về việc xét xử và hành hình chúa trên thập giá).
Khảo sát cốt truyện cho ta thấy, cả hai nhà văn đều chọn motif chúa bị đóng đinh câu rút nhưng về ý
tưởng có nhiều sáng tạo độc đáo. Nếu Đoạn đầu đài trung thành hơn với Phúc âm và tập trung thể
hiện bi kịch của chúa trong quá khứ và bị kịch của cái thiện trong cuộc sống hiện tại thì trong Nghệ
nhân và Margarita, trọng tâm câu chuyện không phải là cuộc khổ nạn của chúa mà là bi kịch trong
con người Pilat - kẻ xét xử chúa, và tác phẩm có nhiều nét mờ nhòe, ám dụ so với Phúc âm. Ý nghĩa
bản thể của mỗi tác phẩm nằm ở mối quan hệ đa chiều giữa motif và các vấn đề nhà văn đặt ra, ở
kiểu tư duy độc đáo, cách “giải hiện thực” riêng, chứ không nằm ở bản thân motif. Trước hết, từ bản
thân motif chúa bị đóng đinh câu rút, các tác giả muốn phản ánh bức tranh xã hội đương thời, chân
lý đang bị chôn vùi, đạo đức đang bị suy thoái, con người không chỉ đồi bại trong hành động mà còn
bại hoại trong ý nghĩ, tâm hồn họ triền miên trong cái ác, giả dối, độc dữ… Đó là xã hội với những
thành phố Babylon(6) thời hiện đại.
Bulgakov, bằng ngòi bút trào phúng, đã lột tả bản chất xã hội hiện đại với những gì trần trụi nhất,
đầy đủ mọi giai tầng, mọi phẩm chất và nhân cách… hiện lên thật sinh động của xã hội Nga những
năm 20, 30 của thế kỷ XX: giới văn chương Massolit mà Berlioz - chủ tịch hiệp hội văn học lớn nhất
Moskva, học nhiều, biết rộng, nhưng chính ông ta đã biến văn học thành một thứ khẩu hiệu, thô
thiển như Riukhin, đã dung túng, khuyến khích các nhà phê bình đồ tể kiểu Latunski, Ariman và lũ
vu khống Mogarưt; giới quan chức ngu ngốc, tham lam, nhũng nhiễu, đục khoét; dân chúng Moskva
6. Một

thành phố thời thượng cổ, có trong Kinh thánh, thành phố này nổi tiếng vì sự xa hoa đàng điếm, và bị Thiên chúa trừng phạt.

Tạp chí Khoa học số 01 (2013)

Trường Đại học An Giang

tung hô, phơi bày sự hám khát lối sống phè phởn, tham lam, trụy lạc,… Xã hội ấy đã mất hết mọi kỷ
cương phép tắc, đạo đức bị băng hoại, con người sống chỉ hưởng lạc, giả dối, ghen ghét lẫn nhau.
Apdi trong Đoạn đầu đài đau đớn, xót xa trước cảnh một bộ phận thanh thiếu niên khát khao làm
giàu bất chính, bất chấp đạo đức, pháp luật và cả mạng sống của mình để đi tìm kiếm anasa, hủy
hoại môi sinh, tàn sát động vật dã man,… Nhưng bi kịch hơn là lối sống dung dưỡng, bưng bít sai
lầm từ giới quan chức cho đến giáo hội. Những bài báo anh vạch trần tệ nạn ma túy trong xã hội
không được xuất bản vì thói hám danh vô luân của giới cầm quyền: tại sao một hiện tượng như vậy
(ma túy) lại có thể xảy ra trong cuộc sống chúng ta, xã hội chúng ta là xã hội đã tuyên bố với toàn
thế giới rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa không có đất cho các tệ nạn phát triển; những kẻ “thông
thái” điển hình như bí thư chi bộ Korkorbaev chỉ biết “nhai lại” sách báo và hoạnh họe nhân dân,
những kẻ sâu rượu, khiêu khích, vô liêm sỉ như Bazarbai vẫn sống hiên ngang, còn những người
lương thiện, say mê lao động như Boston lại phải hứng chịu nhiều thiệt thòi, bi kịch. Cái ác không
chỉ tồn tại mà còn tung hoành trong đời sống vì lòng người đã không còn chỗ cho chúa, chúa đã bị
giết. Và từ đó, đạo đức bị băng hoại, con người bị đẩy xuống vực sâu của sự hủy diệt.
2.2. Motif Kyto giáo với ý nghĩa thời đại
Với niềm tin sâu sắc vào tín lý của điều thiện, Bulgakov và Aitmatov đã tái sinh, phục dựng chúa tình yêu thương, chân lý theo cách riêng của mình. Trong Nghệ nhân và Margarita, Bulgakov đã
đưa ra bằng cứ thứ bảy(7) là hiện thực cuộc sống, là bằng cứ không thể chối cãi của chân lý. Bằng
yếu tố kỳ ảo - sự xuất hiện của chúa quỷ Voland, nhà văn đã hóa giải những bi kịch của nhân sinh,
trừng trị kẻ ác và đền bồi cứu vớt người thiện thoát khỏi sự hỗn mang của thân phận.
Aitmatov xây dựng Apdi như là hậu sinh của chúa Kyto. Ngay tên anh, cái tên lạ lùng theo kiểu Cựu
ước. Và điều quan trọng nhất là anh trăn trở tìm cho được những con đường chưa ai theo để đến với
khối óc và trái tim lớp người cùng lứa tuổi, với xác định cứu cánh của đời mình là sứ mệnh giáo
thuyết điều thiện, anh đã sống và chết vì tình thương yêu ấy. Là người luôn đấu tranh mạnh mẽ cho
sự tiến bộ, anh đã mạnh dạn phê phán sự thủ cựu của giáo lý mặc dù anh mới chỉ là học trò, dũng
cảm đem sức mạnh của lòng tốt để cứu người, giúp đời như cột thu lôi dẫn sét vào lòng đất. Nhưng
cái ác trơ lì, hung bạo đã nuốt chửng anh, bi kịch lại tái diễn, anh bị buộc chặt vào cây muối đen
cong queo, bị dây thừng xiết chặt hai chân hai tay, anh lơ lửng như tấm da thú mới lột đem phơi.
Nếu chúa Kyto chết để cứu chuộc tội lỗi của loài người thì Apdi chết vị tội ác của họ (những kẻ tàn
bạo). Cái chết ấy truy nguyên một tấn bi kịch huyền bí và đánh thức tình yêu thương dào dạt, sự tin
yêu kính thành chúa nhưng ở một chiều kích khác. Nếu nỗi đau đớn trong nhục hình của Apdi gợi
nhớ chúa bị đóng đinh câu rút thì bi kịch của Nghệ nhân cũng như một kiểu ảnh xạ từ bi kịch của
Iesua, nhưng trên một hệ trục tọa độ khác, tọa độ của chân lý. Giới quan chức Moskva phủ nhận
chúa là muốn xóa bỏ hoàn toàn giá trị văn hóa của nhân loại. Mang khát vọng sáng tạo nghệ thuật
cháy bỏng, với vốn trí tuệ uyên bác, học vấn cao thâm, Nghệ nhân đã khôi phục chân lý (có chúa và
chúa đã bị giết) chôn vùi gần 2000 năm. Đó là bi kịch của nhân loại mang ý nghĩa triết học cao siêu,
mà bằng một cách thần bí, anh đã khám phá ra sự thật cụ thể của sự kiện lịch sử, về Ponti Pilat và
Iesua. Tái hiện bi kịch của chân lý nên Bulgakov vận dụng tối đa chi tiết quan tổng trấn Pilato hỏi
Giesu: “Chân lý là gì”?(8) trong Phúc âm. Trong khi đó Aitmatov khá trung thành với Thánh kinh lại
bỏ qua chi tiết ấy! Điều này thể hiện dụng tâm khác nhau của các nhà văn khi sử dụng motif Kyto
giáo. Nếu Pilato trong Phúc âm, sau khi hỏi Người Sự thật là gì? thì ông quay ra tuyên bố với đám
đông cuồng tín: phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông này (chúa Giesu). Nghĩa là Pilato
đã xác định được đâu là sự thật và Giesu đã chứng minh sự vô can của ông ta trong việc làm đổ máu
Người: ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài
7. Trong Thần học, tồn tại một hệ thống các bằng cứ nhằm khẳng định sự tồn tại của Thượng đế, như các bằng cứ: lịch sử luận, tâm lý luận, nhân chủng luận, vũ trụ luận,
mục đích luận, đạo đức luận, bằng cứ thứ bảy mà Bulgakov đưa ra là hiện thực trong tác phẩm.
8. chi tiết này có trong Kinh thánh, ở đây được Bulgakov sử dụng với dụng ý tô đậm bi kịch trong nhân vật Pilat

Tạp chí Khoa học số 01 (2013)

Trường Đại học An Giang

thì mắc tội nặng hơn. Còn nhân vật Pilat trong tác phẩm Nghệ nhân và Margarita, sau khi hỏi xong
câu hỏi đó (Chân lý là gì?) thì ông hối hận và ngạc nhiên: vì sao ta lại đề cập đến những vấn đề
không hoàn toàn cần thiết ở tòa án. Mặc dù có những băn khoăn trăn trở, nhưng rút cuộc Pilat cũng
bước qua chân lý vì con đường công danh của mình.
Motif Kyto giáo trong tác phẩm của Bulgakov đổ bóng theo một cách khác: Iesua không phải là
nhân vật trung tâm của bi kịch mà Pilat mới là trung tâm phức tạp. Và, kể từ giây phút hành hình
Iesua cho đến gần 2000 năm sau (khi được Nghệ nhân giải thoát), ngài nhận thấy sự hèn nhát của
bản thân, và đồng ý chịu làm hỏng con đường công danh của mình, sẵn sàng làm tất cả để cứu Iesua.
Điểm gặp gỡ thú vị giữa hai tác phẩm: cuộc đấu tranh thiện - ác là nội dung chủ đạo, chi phối việc
xây dựng các đường dây cốt truyện và quan niệm thiện ác được nhìn nhận bằng cặp mắt nhị nguyên
luận. Ở “Nghệ nhân và Margarita, phản đề thiện - ác, đó là chỗ thống nhất chủ yếu của những đường
dây cốt truyện không giống nhau và không thể dung hợp” (Vũ Công Hảo, 2007, tr.60 - 76). Nếu
Iesua mang tư tưởng đạo đức tận thiện: đời này không có người ác, chỉ có những người nhân từ, thì
Pilat cho rằng chỉ có những con người ác. Nếu, Nghệ nhân chỉ vì chân lý của một sự kiện lịch sử ngày cuối cùng tồn tại nơi trần thế của Iesua, mà tìm kiếm quên mình, thậm chí hi sinh cả tính mạng
và tình yêu thủy chung của người tình định mệnh (Margarita) là sự thể hiện điển hình tư tưởng triết
học đạo đức của Kant(9), thì những kẻ tự cho mình là nhà văn chân chính lại không tin, không hiểu
những gì mình viết, ngược lại, chúng viết chỉ vì những mục đích vật chất tầm thường, tiêu biểu nhất
là Latunski và Aloyzi. Đặc biệt, trong tuyến truyện viễn tưởng, nhân vật Voland - nhân vật phản
huyền thoại về chúa quỷ - mang quan điểm triết học mới mẻ về thiện - ác: ta là một phần của cái sức
mạnh vốn muôn đời muốn điều ác, nhưng muôn đời làm điều lợi ích. Ở đó, dung hợp hai mô hình:
“triết lý tôn giáo mang tính bi thảm và thông tục hài hước mang tính hoạt kê” (Bulgakov, 2006,
tr.739). Mô hình thứ nhất, Voland xuất hiện như để giải thích và xác tín về những gì đang diễn ra ở
Moskva; mô hình thứ hai, Voland và đoàn tùy tùng chỉ là một băng đảng những kẻ ảo thuật nói
giọng bụng, toàn bộ những viễn tưởng chỉ là những thủ pháp kĩ thuật, như một cách mở rộng cốt
truyện.
Trong tiểu thuyết Đoạn đầu đài, là hậu sinh của chúa, sau 2000 năm Apdi vẫn mang đầy đủ phẩm
tính và bi kịch của chúa. Anh lẻ loi và đơn độc trong cuộc chiến khốc liệt, không khoan nhượng.
Nếu theo Phúc âm, chúa chịu nạn đến ba lần và lần thứ ba bị đóng đinh vào thập giá, thì Apdi cũng
đã trải qua ba lần bị xét xử vì chân lý và tình thương. Với anh, tôn giáo là tâm linh của con người, nó
thuộc về đời sống tinh thần, nên hãy trả tôn giáo về đúng vị trí của nó và phải khắc khục sự thủ cựu
kéo dài hàng thế kỷ, giải phóng khỏi hệ thống giáo điều, ban cho đời sống con người quyền tự do
trong việc nhận thức chúa như bản chất cao nhất của sự tồn tại, của bản thân… Nếu chúa Giesu thà
chịu nhục hình đau đớn, khủng khiếp là bị đóng đinh câu rút còn hơn phải giả dối, chối bỏ đạo
thuyết của mình trước cường quyền La Mã thì Apdi chấp nhận bị đuổi khỏi chủng viện, chấp nhận bị
bọn tìm kiếm anasa, bọn săn bắn động vật đánh đập dã man và giết hại nhưng anh chưa bao giờ phủ
nhận chúa. Anh dùng tình thương đồng loại bao la, niềm tin tối thượng và chính cả tính mạng mình
để mong cứu vớt những cuộc đời tội lỗi, nhưng trong một xã hội tiền bạc, lợi ích vật chất là tất cả thì
con người sẵn sàng dẫm đạp lên lương tri và tình thương, sẵn sàng bán rẻ danh dự và đạo đức...
Trước khi Apdi bị đẩy ra khỏi con tàu đang chạy vùn vụt, anh còn đủ lý trí để hiểu ra rằng, cầu cứu
Grisan (kẻ đứng đầu toán tìm kiếm anasa) thì anh có thể sống sót, nhưng anh chẳng đời nào bấu víu
vào cái ác. Và thế là máu lại đã đổ vào một ngày thứ Sáu bất hạnh!
Cuộc đấu tranh thiện ác trong Đoạn đầu đài không chỉ dừng lại ở đó mà còn lan tỏa sang các tuyến
truyện khác: cuộc đấu tranh của Boston và nhân dân yêu lao động muốn xóa bỏ đói nghèo với những
9 . Immanuel Kant (1724 -1804) nhà triết học vĩ đại người Đức.

nguon tai.lieu . vn