Xem mẫu

MỐI QUAN HỆ GIỮA KỸ NĂNG TỰ NHẬN THỨC
VÀ TINH THẦN LẠC QUAN CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
NGUYỄN PHƯỚC CÁT TƯỜNG
ĐINH THỊ HỒNG VÂN – TRẦN THỊ HÓA
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Nghiên cứu này nhằm khảo sát mối quan hệ giữa kỹ năng tự nhận
thức và tinh thần lạc quan của trẻ vị thành niên. Nghiên cứu đƣợc thực hiện
trên 150 học sinh lớp 8 và lớp 9, Trƣờng Trung học Cơ sở (THCS) Phong
Hiền, Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Hệ số Pearson cho thấy tinh thần
lạc quan tƣơng quan thuận với kỹ năng tự nhận thức. Đồng thời, mối quan hệ
này vẫn đảm bảo sự nhất quán khi đƣợc xét dƣới góc độ giới tính và khối
lớp. Kết quả nghiên cứu đã góp phần chứng minh mối quan hệ giữa tinh thần
lạc quan và kỹ năng tự nhận thức. Một số kiến nghị đã đƣợc đề xuất nhằm
hỗ trợ trẻ vị thành niên nâng cao kỹ năng tự nhận thức trên cơ sở phát huy
tinh thần lạc quan.
Từ khóa: kỹ năng tự nhận thức, tinh thần lạc quan, trẻ vị thành niên

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vị thành niên là lứa tuổi có nhiều biến động về sự phát triển tâm sinh lý và nhận thức xã
hội. Đây cũng chính là giai đoạn trẻ bắt đầu hành trình “tôi đi tìm tôi” của mình. Trẻ bắt
đầu tự đánh giá lại chính bản thân, có khả năng tự nhận thức cao và cũng dễ bị tổn
thƣơng, dễ có những hành vi chống đối cha mẹ hoặc thầy cô giáo. Đối với nhiều em, sự
mất cân xứng giữa “cái tôi” bên ngoài (những thay đổi về hình dáng, về cơ quan sinh
dục...) và “cái tôi” bên trong (những cách thức ứng xử, những hiểu biết về chính cơ thể
mình và ngƣời khác...) khiến các em bỡ ngỡ và lúng túng. Trẻ dễ bị khủng hoảng và dễ
có những hành vi lệch lạc nếu nhƣ không xây dựng đƣợc một hình ảnh đúng đắn và
tích cực về chính bản thân mình. Các hiện tƣợng tự tử, vi phạm pháp luật, có thai ngoài
ý muốn hiện nay ở trẻ vị thành niên… phần nhiều là hậu quả của việc trẻ nhận thức lệch
lạc về bản thân. Có thể nhận định rằng càng hiểu rõ về bản thân, trẻ vị thành niên càng
có thể kiểm soát và lựa chọn hành vi muốn biểu hiện. Sự lựa chọn này trở thành một sức
mạnh nội tại không ai có thể lấy đi. Mặt khác, tự nhận thức cũng giúp trẻ vị thành niên
nhận rõ mình có những điểm yếu nào để có thể khắc phục kịp thời. Đồng thời, trẻ không
tự đẩy bản thân vào những thế yếu, theo đuổi những cái viển vông, không thực tế và
không phù hợp với năng lực hiện có của mình. Việc hình thành và phát triển kỹ năng tự
nhận thức, vì thế, đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự hoàn thiện nhân cách
của trẻ vị thành niên.
Kỹ năng tự nhận thức là một kỹ năng phức tạp, chịu ảnh hƣởng của khá nhiều yếu tố.
Kearney nhấn mạnh rằng các đặc điểm sinh học, tâm lý, nhận thức, xã hội, môi trƣờng,
văn hóa... đều góp phần ảnh hƣởng đến sự phát triển cá nhân và kỹ năng tự nhận thức
của trẻ vị thành niên [3]. Tinh thần lạc quan là một trong những yếu tố này. Một số
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(32)/2014: tr. 69-77

70

NGUYỄN PHƢỚC CÁT TƢỜNG và cs.

nghiên cứu đã khẳng định vai trò quan trọng của tinh thần lạc quan đối với kỹ năng tự
nhận thức. Nghiên cứu của Mäkikangas, Kinnunen, Feldt cho thấy rằng tinh thần lạc
quan và việc nhận thức về giá trị của bản thân có mối tƣơng quan rất cao [4]. Theo đó,
những cá nhân với tinh thần lạc quan cao có khả năng nhận định về giá trị, vị trí của cá
nhân một cách tích cực hơn. Ngoài ra, họ đồng thời là những ngƣời tự tin về năng lực và
phẩm chất của mình [4]. Luận án tiến sỹ của Wenglert cũng củng có kết quả này: những
ngƣời tự tin về tƣơng lai của mình là những ngƣời đánh giá cao về giá trị của bản thân
hơn là những ngƣời bi quan về tƣơng lai của chính mình [6].
Ở lứa tuổi vị thành niên, sự nhận thức không chính xác về bản thân thƣờng bắt nguồn từ
sự lạc quan thái quá hoặc sự bi quan quá mức. Trẻ vị thành niên cần nhận thức đƣợc
tầm quan trọng của tinh thần lạc quan đối với kỹ năng tự nhận thức để có ý thức rèn
luyện tinh thần lạc quan cho bản thân. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa tinh thần lạc
quan và kỹ năng tự nhận thức trên trẻ vị thành niên, vì vậy, có tính cấp thiết lớn, bởi
việc xác định vững chắc mối quan hệ này sẽ đặt nền tảng cho việc đề xuất các biện pháp
nâng cao tinh thần lạc quan cho trẻ vị thành niên, nhằm giúp các em phát triển kỹ năng
tự nhận thức một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam và
trên thế giới, việc nghiên cứu về mối tƣơng quan giữa tinh thần lạc quan và kỹ năng tự
nhận thức trên đối tƣợng vị thành niên vẫn chƣa đƣợc quan tâm một cách thích đáng.
Có thể khẳng định rằng mảng đề tài nghiên cứu này cần đƣợc chú trọng hơn nữa.
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để khảo sát và đánh giá mối quan hệ giữa kỹ năng tự nhận thức và tinh thần lạc quan
của trẻ vị thành niên, chúng tôi sử dụng hai phƣơng pháp chủ yếu: phƣơng pháp điều tra
bằng bảng hỏi và phƣơng pháp trắc nghiệm.
a. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Bảng hỏi khảo sát kỹ năng tự nhận thức của trẻ vị thành niên đƣợc thiết kế phỏng theo
phần đánh giá “Tự nhận thức” trong Bảng hỏi “Trí tuệ cảm xúc” (EI Questionnaire) từ
website silver.clarinet.com - một website chuyên tổ chức các khóa tập huấn, khóa học,
khóa huấn luyện về kỹ năng mềm và kỹ năng lãnh đạo trực tuyến tại Hoa Kỳ[1]. Bảng
hỏi này đƣợc xây dựng dựa trên quan điểm của Daniel Goldman [2]về tự nhận thức,
gồm có 16 item, đánh giá ở ba khía cạnh:
+ Tự nhận thức xúc cảm bản thân (emotion self-awareness): bộc lộ cảm xúc; lý do nảy
sinh xúc cảm và ảnh hƣởng của xúc cảm với hoạt động và các mối quan hệ của cá nhân.
(3 item)
+ Tự đánh giá bản thân (self-assessment): nhận thức đƣợc điểm mạnh và điểm yếu của
bản thân; đánh giá và rút kinh nghiệm từ những trải nghiệm của bản thân; tiếp thu
những phản hồi một cách vô tƣ, có những mục tiêu mới, học tập không ngừng và tự
phát triển bản thân; có khả năng tự trào về bản thân. (6 item)
+ Sự tự tin (self-confidence): có khả năng hoạt động độc lập; hiện diện một cách tự tin
và thể hiện “sự có mặt” của bản thân với mọi ngƣời; có thể nói ra những quan điểm

MỐI QUAN HỆ GIỮA KỸ NĂNG TỰ NHẬN THỨC VÀ TINH THẦN LẠC QUAN...

71

khác biệt và sẵn sàng bảo vệ niềm tin về những gì bản thân cho là đúng; quyết đoán và
đƣa ra những quyết định chính xác bất chấp rủi ro và các áp lực. (7 item)
Mỗi item nhƣ vậy có 6 mức độ tần suất để khách thể lựa chọn, với kết quả định tính
đƣợc chuyển sang định lƣợng nhƣ sau: Không bao giờ = 1, Hiếm khi = 2, Thỉnh
thoảng=3, Thƣờng xuyên=4, Gần nhƣ luôn luôn = 5, Luôn luôn=6.
b. Phương pháp trắc nghiệm
Trắc nghiệm tinh thần lạc quan phiên bản chỉnh sửa (Life Orientation Test – Revised –
LOT – R) của Scheier và Carver [5] đƣợc sử dụng nhằm xác định mức độ lạc quan của
học sinh THCS; trên cơ sở đó, tìm hiểu mối quan hệ của nét nhân cách này với mức độ
kĩ năng tự nhận thức. LOT – R khá đơn giản gồm có 10 items, trong đó 3 items 1, 4, 10
đánh giá tính lạc quan và 3 items 3, 7, 9 đánh giá tính bi quan. Đặc biệt items 2, 5, 6 và
8 là những items có chức năng “làm đầy” (fillers), tránh cho khách thể biết họ đang
đƣợc đánh giá về tinh thần lạc quan. Mỗi item nhƣ vậy có 5 mức độ lựa chọn từ “hoàn
toàn đồng ý” đến “hoàn toàn không đồng ý”.
Cách tính điểm: Không tính điểm các câu 2, 5, 6 và 8. Đối với các câu 1,4 và 10: hoàn
toàn đồng ý = 4; đồng ý = 3; không đồng ý cũng không phản đối = 2; không đồng ý = 1;
hoàn toàn không đồng ý = 0. Đối với các câu 3, 7 và 9 thì cho điểm ngƣợc lại, nghĩa là:
hoàn toàn đồng ý = 0; đồng ý = 1… Việc đánh giá tính lạc quan dựa trên tổng điểm của
các câu. 0 điểm là cực kì bi quan và 24 điểm là cực kỳ lạc quan và nhìn chung 15 điểm
là tƣơng đối lạc quan [5]. Trắc nghiệm này đã đƣợc sử dụng khá phổ biến trong các
nghiên cứu thuộc lĩnh vực tâm lý học trong những năm gần đây ở Việt Nam [][].
Hai công cụ này đƣợc chúng tôi khảo sát trên 150 học sinh lớp 8 và lớp 9 Trƣờng THCS
Phong Hiền, Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả khảo sát đƣợc phân tích bằng
phần mềm SPSS 15.0. Chỉ số Cronbach alpha của bảng hỏi Tự nhận thức là 0,79, của
trắc nghiệm LOT – R là 0,67. Điều này cho thấy bộ công cụ sử dụng trong nghiên cứu
của chúng tôi có độ tin cậy tƣơng đối cao, đảm bảo sự chính xác cho các kết quả thu
đƣợc.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kỹ năng tự nhận thức của học sinh Trường Trung học Cơ sở Phong Hiền,
Phong Điền, Thừa Thiên Huế
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiếp cận khái niệm tự nhận thức theo quan điểm của
Goleman [2]. Tự nhận thức là một mặt biểu hiện của năng lực cảm xúc trong Mô Hình
Năng Lực Cảm Xúc Bốn Thành Phần của Goleman (Goleman’s Four - Cluster
Emotional Competency Model), gồm tự nhận thức, tự điều khiển, nhận thức xã hội và
quản lý các mối quan hệ. Trong đó, tự nhận thức đƣợc xem là thành phần cốt lõi nhất
của trí tuệ cảm xúc. Kỹ năng này bao gồm 3 kỹ năng bộ phận: tự nhận thức cảm xúc,
đánh giá chính xác bản thân và thể hiện sự tự tin. Theo đó, kỹ năng tự nhận thức có thể
đƣợc hiểu là năng lực cá nhân vận dụng có hiệu quả những tri thức, những kinh nghiệm
để nhận biết đúng đắn về cảm xúc, các đặc điểm riêng của bản thân; những điểm mạnh,

NGUYỄN PHƢỚC CÁT TƢỜNG và cs.

72

điểm yếu, vai trò, vị trí và định hướng cuộc sống của bản thân; tất cả được biểu hiện ở
sự tự tin và quả quyết của bản thân trong thực tiễn cuộc sống.
Kết quả ở bảng 1 cho thấy tần suất thực hiện các hoạt động liên quan đến kỹ năng tự
nhận thức của học sinh THCS Phong Hiền, Phong Điền, Thừa Thiên Huế là trên mức
trung bình ( X = 3,9). Nhìn chung, kết quả này cho thấy các em đã biết cách quan tâm
đến việc hình thành và phát triển kỹ năng quan trọng này cho bản thân.
Xét một cách cụ thể, kĩ năng tự đánh giá chính xác ( X =4,1) đƣợc các em thực hiện ở
mức độ tần suất cao hơn so với tự nhận thức cảm xúc ( X =3,9) và thể hiện sự tự tin ( X
=3,7). Có thể nhận thấy rằng kỹ năng tự đánh giá chính xác bản thân đƣợc phát triển khi
các em nhận thức đƣợc điểm mạnh và điểm yếu của bản thân; rút kinh nghiệm từ những
trải nghiệm của bản thân. Ngoài ra, kỹ năng tự đánh giá còn thể hiện qua khả năng tự
trào của trẻ vị thành niên, khả năng tiếp thu những phản hồi một cách cởi mở từ ngƣời
khác, có những mục tiêu mới, học tập không ngừng và tự phát triển bản thân. Bên cạnh
đó, những nội dung khác của kỹ năng tự nhận thức cảm xúc và sự tự tin nhƣ bộc lộ cảm
xúc, nhận thức đƣợc nguyên nhân nảy sinh của cảm xúc, quyết đoán, chấp nhận rủi ro
để đạt đƣợc mục tiêu... cũng đƣợc học sinh THCS Phong Hiền, Phong Điền, Thừa
Thiên Huế thực hiện một cách tích cực.
Bảng 1. Mức độ tự nhận thức của học sinh trường THCS Phong Hiền, Phong Điền Thừa Thiên Huế
Kĩ năng

X

SD

Tự nhận thức cảm xúc

3,9

1,00

Tự đánh giá chính xác

4,1

0,92

Sự tự tin

3,7

0,89

Chung

3,9

0,71

Chú thích: X = Điểm trung bình; SD = Độ lệch chuẩn; 1≤ X ≤6

Xét từng mặt biểu hiện của nhóm tiểu kỹ năng tự đánh giá, chúng tôi ghi nhận đƣợc
những kết quả khá tốt. Có đến gần 50% các em luôn luôn tìm kiếm cơ hội để mở rộng
vốn tri thức và kỹ năng của bản thân, 48% các em luôn luôn thừa nhận những điểm
mạnh và điểm yếu của bản thân. Điều này có thể giúp các em nhận ra đƣợc những ƣu
điểm của bản thân để từ đó có thể phát huy những điểm mạnh, bên cạnh đó hạn chế,
khắc phục những nhƣợc điểm bản thân còn tồn tại.
Đối với kĩ năng tự nhận thức cảm xúc, các số liệu khảo sát cho thấy 42% các em luôn
luôn nhận biết đƣợc các tình huống gây nên cảm xúc riêng của bản thân mình (Ví dụ:
em biết điều gì khiến em vui, điều gì làm em buồn). Ngoài ra, 23,3% các em luôn luôn
biết đƣợc cảm xúc của mình có thể ảnh hƣởng đến các hoạt động và mối quan hệ của
bản thân. Đây chính là việc các em nhận ra cầu nối giữa tình cảm và suy nghĩ của bản

MỐI QUAN HỆ GIỮA KỸ NĂNG TỰ NHẬN THỨC VÀ TINH THẦN LẠC QUAN...

73

thân, sự liên quan giữa cảm xúc, lời nói và hành động. Quan trọng hơn, việc hiểu đƣợc
tình cảm, cảm xúc của bản thân sẽ giúp các em kiểm soát đƣợc tình cảm và hành vi của
chính mình.
Đối với kĩ năng thể hiện sự tự tin, kết quả khảo sát cho thấy 48% các em luôn luôn có
quyết tâm làm bằng đƣợc điều đã định, dù khó khăn trở ngại đến mấy cũng không thay
đổi. Nhƣ vậy, nhìn chung mức độ tần suất thực hiện các nội dung của kỹ năng tự nhận
thức ở các em HS THCS Phong Hiền, Phong Điền, Thừa Thiên Huế là tƣơng đối khá. Ở
một số mặt thể hiện, mức độ luôn luôn chiếm số lƣợng khá lớn các em trong nhóm mẫu.
Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều HS chƣa quan tâm thực hiện tốt một số nội dung quan
trọng của kỹ năng tự nhận thức. Chẳng hạn nhƣ đến 51% các em hiếm khi biến việc
tham gia các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội… thành cơ hội để học hỏi những
điều mới hoặc mở rộng kinh nghiệm cá nhân; 48% các em cảm thấy hiếm khi tự tin để
học tập, làm việc mà không cần giám sát trực tiếp; 41% các em hiếm khi bù đắp những
điểm yếu của mình bằng cách làm việc với những ngƣời khác có điểm mạnh cần thiết
mà các em không có; 24% các em hiếm khi bộc lộ cảm xúc của bản thân mình.
Nhƣ vậy, khi xét điểm trung bình chung trên toàn mẫu, tần suất thực hiện các nội dung
của kỹ năng tự nhận thức của HS THCS trƣờng Phong Hiền, Phong Điền, Tỉnh Thừa
Thiên Huế ở trên mức trung bình, nhƣng khá nhiều các em thậm chí “không bao giờ”
hoặc “hiếm khi” thực hiện một số nội dung quan trọng của kỹ năng này. Nhìn chung, có
thể kết luận rằng kỹ năng tự nhận thức ở HSTHCS Phong Hiền, Phong Điền – Thừa
Thiên Huế vẫn còn một số hạn chế và chƣa thực sự thuần thục. Việc đề xuất các biện
pháp nâng cao kỹ năng này cho các em là điều hết sức cần thiết.
2.2. Mối quan hệ giữa kỹ năng tự nhận thức và tinh thần lạc quan của học
sinhTrường Trung học Cơ sở Phong Hiền, Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế
Tinh thần lạc quan đƣợc định nghĩa là “sự mong đợi về kết quả tốt đẹp hơn là kết quả
xấu sẽ xảy ra khi đối mặt với những vấn đề trong các lĩnh vực quan trọng của cuộc
sống”[5, 219]. Với điểm trung bình chung trên toàn mẫu là 14,7 và 57,9% các em đạt
điểm trung bình dƣới 15 theo trắc nghiệm mà Scheier và Carver [5] đề xuất, kết quả
khảo sát cho thấy HS THCS Phong Hiền, Phong Điền – Thừa Thiên Huế có khuynh
hƣớng nhìn nhận sự việc một cách bi quan hơn là lạc quan.
Tuy nhiên, vẫn có 63 em, chiếm 42,1% trong nhóm mẫu, đạt điểm trung bình ≥ 15,
nghĩa là các em có khuynh hƣớng nhìn nhận cuộc sống theo hƣớng lạc quan, tích cực.
Các em cho rằng những khi chƣa biết chuyện gì xảy ra, các em vẫn mong chờ những
điều tốt đẹp sẽ đến, luôn lạc quan về tƣơng lai của mình. Tỉ lệ này cho thấy bên cạnh
những HS có tinh thần bi quan thì còn có những HS lạc quan trong cuộc sống. Đây là
một dấu hiệu khá tích cực đƣợc ghi nhận từ nghiên cứu này.
Kết quả bảng 2 cho thấy có sự tƣơng quan thuận giữa tinh thần lạc quan và kĩ năng tự
nhận thức (r = 0,20, p
nguon tai.lieu . vn