Xem mẫu

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/325659094

Kỹ năng tổ chức và triển khai nghiên cứu tiếp cận chuẩn mực công bố quốc tế
Presentation · June 2018
DOI: 10.13140/RG.2.2.13547.85283

CITATIONS

READS

0

1,981

1 author:
Quan-Hoang Vuong
Phenikaa University
194 PUBLICATIONS   614 CITATIONS   
SEE PROFILE

Some of the authors of this publication are also working on these related projects:

Socio-cultural studies View project

Vietnamese entrepreneurship survey View project

All content following this page was uploaded by Quan-Hoang Vuong on 09 June 2018.

The user has requested enhancement of the downloaded file.

Kỹ năng tổ chức và triển khai nghiên cứu tiếp cận chuẩn mực công
bố quốc tế
Vương Quân Hoàng
https://sc.sshpa.com
Trường ĐH Thành Tây, Trung tâm ISR; hoang.vuong@wu.edu.vn, và
Université Libre de Bruxelles, Centre Emile Bernheim; qvuong@ulb.ac.be
Bài giảng trong khuôn khổ
Chương trình hỗ trợ nghiên cứu của VBFA tại Đại học
Ngoại thương Hà Nội
Hà Nội, ngày 7 tháng 6 năm 2018
(Bản cuối v.7; ngày 9 tháng 6 năm 2018)
“Well begun is half done”
–– Aristotle

Chúng ta bắt đầu câu chuyện dài của hành trình từ ý tưởng tới xuất bản quốc tế thành
công với một cái kết có hậu.
Trong hình trình bày dưới đây các bạn đang nhìn thấy điều mà một nhà nghiên cứu sau
khi nộp bản thảo – thường là nhiều tháng, và đôi khi còn tính bằng năm – mong muốn nhìn thấy:
quyết định biên tập “ACCEPT”.

1

Tốt hơn nữa, nếu quyết định đó đến từ một tạp chí của một nhà xuất bản mạnh, ví dụ
trong hình là Routledge / Taylor & Francis. Lại còn tốt hơn nữa, nếu tạp chí đó đã được chỉ mục
hóa trong Scopus (Scopus), ISI Web of Science (Clarivate Analytics) trong danh mục tốt cỡ như
SSCI (Social Science Citation Index). Niềm vui sẽ nhân lên nữa, nếu tạp chí đó lại có trị số của
hệ số tác động (HSTĐ) của ISI cao (hệ số này có tên gọi chính thức là Journal Impact Factor),
cũng như của Scopus (có tên gọi chính thức là CiteScore). Thường hệ số cao hạng nhất, thì tạp
chí ta xuất bản trên đó nằm trong nhóm 25% ảnh hưởng lớn nhất, xét từ quan điểm bibliometrics,
hay gọi là Q1. Còn hơn thế nữa, thì một số nhỏ nào đó trong Q1 này được giới chuyên gia trong
ngành xếp riêng, tấm tắc với nhau, “nhóm của các thầy chiếu trên”.
Hình ảnh dưới đây là của một bài báo khi vừa được chấp thuận, và thuộc nhóm thỏa mãn
tất cả các chuẩn mơ ước, tức là “giấc mơ hạng A*”. Câu hỏi đặt ra là: Vậy chúng ta có cơ hội
bao nhiêu % để hoàn thành giấc mơ đó? Làm thế nào để có thể đi từ những ý tưởng thô nhám
nhất, tới công đoạn hoàn thành giấc mơ đó?
*Câu trả lời khá đơn giản: Không sớm thì muộn, chúng ta cũng sẽ có cơ hội 100%! Tuy
vậy, chúng ta bắt buộc phải viết ra “cái gì đó”, cho dù ban đầu ở trạng thái thô sơ nhất. Và từ từ
biến nó thành cái mà ta gọi là “tác phẩm”.
Mọi rắc rối sinh ra từ câu trả lời đơn giản này. Vì thực hiện là một kỷ luật lao động thực
sự, đôi khi rất khắc nghiệt. Và tương lai số phận sản phẩm không do ta quyết định, mà do đồng
nghiệp đánh giá.

2

Gs. John Kirwan của University of Bristol, UK (Kirwan, 2017) chia sẻ trên Nature về sự
nghiệp của bản thân rằng đối với các công việc đã được tiến hành thì con số thành công chỉ là
38% (xem thêm: https://sc.sshpa.com/post/4153). Điều đó có nghĩa ngay cả đối với các nhà khoa
học hạng nhất, nhận được quyết định “ACCEPT” có ý nghĩa rất đáng kể. Vì vậy, để bước vào
giai đoạn cọ xát, cải thiện, sửa đổi, tranh đấu lý lẽ, cho tới khi được chấp thuận xuất bản, có một
bản thảo tốt là một bước đệm gọn gàng và tất cả những gì cần.
Vậy thì, thực sự viết nghiên cứu khoa học là gì?
Câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản này, hóa ra lại không hề đơn giản. Sau khi thảo luận
với rất nhiều người trong nghề này, và ở các ngành khác nhau, tôi nhận thấy mình nên chốt lại
với cách định nghĩa riêng cho mình. Nó như sau:
o Một quan điểm có ích về nghiên cứu: Nghiên cứu là quan sát những gì người khác
cũng quan sát, nhưng nghĩ điều mà mình (hy vọng rằng) chỉ có mình nghĩ đến.
o Một quan điểm về nghề viết có thể ứng dụng được: Viết là nghĩ trên giấy.
Từ đó dẫn đến một định nghĩa rất riêng cho bản thân về công việc viết nghiên cứu rất đơn
giản và dễ hiểu như sau:

3

Viết nghiên cứu là quá trình đặt những suy nghĩ riêng nhất của mình về đối tượng quan
sát lên trên giấy. Quá trình này được thực hiện tuân thủ các chuẩn mực phân tích và
trình bày khoa học.
Các bạn có thể sẽ có cách định nghĩa riêng cho mình. Nhưng chỉ nguyên việc suy nghĩ về
nghề nghiên cứu, và công việc viết nghiên cứu thôi, cũng đã là một bước tiến lý thú.
1. Bối cảnh và sự cần thiết của việc viết bài báo quốc tế1
Bối cảnh ngành nghề nghiên cứu quốc tế và câu chuyện “publish or perish”—dù được
nhắc đến với ý nghĩa tiêu cực, tích cực hay trung tính—trong giới học thuật hiện nay góp phần
khiến công bố khoa học trở nên sôi động. Sự hình thành, phát triển của khoa học quốc tế và xuất
bản quốc tế từ những tạp chí đầu tiên năm 1665 tại Anh và Pháp (Banks, 2018) đã tạo nên những
quy chuẩn trong khoa học mà trong dòng chảy toàn cầu hóa hiện nay, không một nước nào có
thể đứng ngoài cuộc. Việt Nam cũng hòa chung vào dòng chảy đó, với sự ra đời của Quỹ phát
triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) vào năm 2008 với những chuẩn mực quốc
tế tường minh và cụ thể, đã góp phần tạo nên sinh hoạt khoa học sôi nổi và đa dạng hơn rất nhiều
(tham khảo: https://sc.sshpa.com/post/1098).
Bối cảnh quốc tế
Công bố khoa học đã không còn là chuyện quá xa lạ. Sự ảnh hưởng và uy tín học thuật
của các nhà nghiên cứu lớn luôn được đánh giá qua năng suất cũng như chất lượng nghiên cứu.
Ngay từ trong những năm trong học, học sinh quốc tế đã được tiếp xúc với các tiêu chuẩn và
kiến thức học thuật đỉnh cao. Ví dụ tại Mỹ, cuộc thi Science Talent Search cho học sinh trung
học bắt đầu từ năm 1942 và nhiều người thắng cuộc đã tiếp tục đạt các giải thưởng lớn khác như
Nobel hay Fields sau này. Hay đối với bậc học tiến sĩ trên thế giới, yêu cầu phổ biến ngày nay
bên cạnh luận văn tốt nghiệp luôn là có 2-3 nghiên cứu được xuất bản trước khi tốt nghiệp.
Vì vậy, cạnh tranh trong nghề nghiên cứu đang gia tăng với số lượng Ph.D đào tạo tăng
vọt ở hầu hết tất cả các ngành: dưới 10% tốt nghiệp có thể “land a dream job” trong môi trường
học thuật khắc nghiệt hiện nay.

1

Trong bài này, tôi cố gắng sử dụng tối đa các tài liệu đã xuất bản của chính bản thân mình, để gia tăng độ tin cậy
phần trao đổi về trải nghiệm cá nhân qua rất nhiều chu trình thực tế đi đến công bố quốc tế.

4

nguon tai.lieu . vn