Xem mẫu

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

HIỆU QUẢ GÂY TÊ TỦY SỐNG VỚI BUPIVACAINE  
KẾT HỢP SUFENTANIL VÀ MORPHINE CHO PHẪU THUẬT NỘI SOI  
PHỤC HỒI THÀNH BẸN 
Võ Nguyên Hồng Phúc*, Nguyễn Cao Cương**

TÓM TẮT 
Mở đầu: Gây tê tủy sống cho phẫu thuật nội soi phục hồi thành bẹn (TEP) được xem như là cung cấp thêm
một lựa chọn về phương pháp vô cảm cho phẫu thuật viên và bệnh nhân. Thêm morphine vào hỗn hợp thuốc gây
tê tủy sống, chúng tôi muốn biết hiệu quả của phương pháp gây tê tủy sống có thêm morphine như thế nào đối
với phẫu thuật TEP.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả vô cảm trong mổ và hiệu quả giảm đau sau mổ của gây tê tủy sống với
bupivacaine kết hợp sufentanil và morphine.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: 67 bệnh nhân nam được gây tê tủy sống (33 bằng bupivacaine –
sufentanil và 34 bằng bupivacaine – sufentanil – morphine) cho phẫu thuật phục hồi thành bẹn nội soi bằng
phương pháp TEP tại ba bệnh viện ở thành phố Cần Thơ.
Kết quả: Nhóm 1 và 2 đạt hiệu quả gây tê tương tự nhau: đạt mức tê cao nhất là T6, phù hợp cho bơm CO2
vào khoang trước phúc mạc, thời gian duy trì mức tê T10 kéo dài 120,9 ± 33,6 phút, phù hợp với thời gian phẫu
thuật. Hiệu quả giảm đau sau mổ của nhóm 2 tốt hơn so với nhóm 1: thời gian VAS ≤ 3 kéo dài 20,8 giờ so với
10,2 giờ, tỉ lệ bệnh nhân cần thêm thuốc giảm đau sau mổ cũng giảm, đạt mức 15% so với 64%.
Kết luận: Gây tê tủy sống với bupivacaine kết hợp sufentanil và morphine phù hợp cho phẫu thuật TEP,
giúp giảm đau hiệu quả cho bệnh nhân sau mổ.
Từ khoá: gây tê tuỷ sống với Bupivacine, Sufentanil và Morphine, phẫu thuật nội soi phục hồi thành bụng

ABSTRACT
ADDING SUFENTANIL AND MORPHINE INTO INTRATHECAL BUPIVACAINE
FOR TOTAL EXTRAPERITONEAL PREPERITONEAL REPAIR
Vo Nguyen Hong Phuc, Nguyen Cao Cuong  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 382 ‐ 386 
Background: Spinal anesthesia for TEP has been offering a new choice both for surgeons and patients. The
main purpose of adding morphine into the “spinal cocktail” is to know how this method works on TEP.
Objectives: Evaluating effections of spinal bupivacaine with sufentanil and morphine during TEP and
post‐operating pain management.
Method: 67 male patients were given spinal anesthesia (33 with bupivacaine – sufentanil and 34 with
bupivacaine – sufentanil – morphine) for TEP at three hospitals in Cantho City.
Results: Group 1 and 2 both had good results in giving effective anesthesia for the operation: highest block
level is T6 and time of T10 bloking is 120.9± 33.6 minutes. Group 2 had better post‐operating pain relief than
group 1: VAS ≤ 3 in 20.8 vs 10.2 hours, only 15% of patients asked for IV pain killers (vs 64% of group 1).
Conclusion: Spinal anesthesia with bupivacaine adding sufentanil and morphine is a good choice for TEP,
* Bộ môn GMHS – Khoa Y – Trường Đại học Y Dược Cần Thơ   ** Bệnh viện Bình Dân 
Tác giả liên lạc: BS. Võ Nguyên Hồng Phúc   ĐT: 0902485075   Email: catherinephucvo@yahoo.co.in 

382

Chuyên Đề Ngoại Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

this method also helps in post‐operating pain management.
Keywords: spinal bupivacaine with sufentanil and morphine, TEP

MỞ ĐẦU 
Vô  cảm  cho  phẫu  thuật  nội  soi  ngoài  phúc 
mạc  là  một  vấn  đề  còn  rất  nhiều  tranh  cãi. 
Những ngày đầu mới ra đời, phẫu thuật nội soi 
vùng  bụng  được  thực  hiện  dưới  gây  mê  toàn 
thể, vì sự an toàn cho bệnh nhân và sự dễ dàng 
cho phẫu thuật viên. Năm 2011, Hiệp hội Thoát 
vị Nội soi Quốc tế (IEHS) đã công bố hướng dẫn 
cho  phép  phẫu  thuật  nội  soi  ngoài  phúc  mạc 
phục hồi thành bẹn (TEP) thực hiện dưới gây tê 
tuỷ  sống  như  là  một  lựa  chọn(2,4).  Việc  kết  hợp 
thuốc  tê  bupivacaine  với  fentanyl  hoặc 
sufentanil và morphine được xem là ưu thế nhất 
về khả năng giảm liều thuốc tê, tăng hiệu quả vô 
cảm và kéo dài hiệu quả giảm đau sau mổ đến 
24  giờ(1,3).  Thêm  morphine  vào  hỗn  hợp  thuốc 
gây  tê  tủy  sống,  chúng  tôi  muốn  biết  hiệu  quả 
của  phương  pháp  gây  tê  tủy  sống  có  thêm 
morphine như thế nào đối với phẫu thuật TEP. 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Hiệu quả gây 
tê  tủy  sống  với  bupivacaine  kết  hợp  sufentanil 
và  morphine  cho  phẫu  thuật  nội  soi  phục  hồi 
thành bẹn”. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh  nhân  nam,  có  chỉ  định  TEP,  ASA  I,  II, 
III. 
Tiêu chuẩn loại trừ
Thoát vị bẹn nghẹt, chống chỉ định với gây 
tê tủy sống, dị ứng với thuốc tê và opioid. 

Cỡ mẫu 
67 bệnh nhân, chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. 
‐  Nhóm  1:  Tê  tủy  sống  với  hỗn  hợp  11  mg 
bupivacaine 0,5% + 5 mcg sufentanil. 
‐  Nhóm  2:  Tê  tủy  sống  với  11  mg 
bupivacaine 0,5% + 2,5 mcg sufentanil + 100 mcg 
morphine. 

Các theo dõi và đánh giá. 
Tác dụng vô cảm trong mổ
Ghi nhận mức phong bế cao nhất. 
Ghi nhận thời gian từ lúc kết thúc tiêm thuốc 
vào  khoang  dưới  nhện  đến  lúc  phong  bế  cảm 
giác mức T10, T6. 
Ghi nhận thời gian duy trì tê T10. 

Mục tiêu nghiên cứu 

Đánh giá hiệu quả gây tê tốt, hoặc cần thêm 
thuốc, hoặc phải chuyển sang gây mê. 

‐  Đánh  giá  hiệu  quả  vô  cảm  trong  mổ  của 
gây  tê  tủy  sống  với  bupivacaine  kết  hợp 
sufentanil và morphine. 

Tác dụng giảm đau sau mổ
Theo dõi điểm đau sau mổ theo VAS, trong 
24 giờ đầu. 

‐  Đánh  giá  hiệu  quả  giảm  đau  sau  mổ  của 
gây  tê  tủy  sống  với  bupivacaine  kết  hợp 
sufentanil và morphine. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử  nghiệm lâm sàng  ngẫu  nhiên  có  nhóm 
chứng. 

Đối tượng nghiên cứu 
Các  bệnh  nhân  nam  được  phẫu  thuật  phục 
hồi thành bẹn nội soi bằng phương pháp TEP tại 
bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, bệnh 
viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ và bệnh viện 
Trường Đại học Y dược Cần Thơ. 

Ngoại Tổng Quát 

Ghi nhận thời gian VAS = 0. 
Ghi nhận thời gian VAS ≤ 3. 
Ghi nhận tỉ lệ bệnh nhân cần thuốc giảm đau 
sau mổ. 

Các ghi nhận khác
Thay đổi huyết động: huyết áp, mạch 
Thay đổi hô hấp: SpO2 
Các  tác  dụng  không  mong  muốn  khác:  An 
thần, buồn nôn và nôn, ngứa, bí tiểu, lạnh run, 
đau đầu, đau lưng. 
Mức  độ  hài  lòng  của  bệnh  nhân  và  phẫu 
thuật viên. 

383

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 
KẾT QUẢ – BÀN LUẬN 

Từ  tháng 07/2012  đến  tháng  07/2013,  chúng 
tôi tiến hành gây tê tủy sống trên 67 bệnh nhân 
mổ  thoát  vị  bẹn  nội  soi.  Bệnh  nhân  được  chia 
thành hai nhóm ngẫu nhiên gồm 33 bệnh nhân 
được  gây  tê  bằng  bupivacaine  và  sufentanil 
(nhóm  1);  34  bệnh  nhân  được  gây  tê  bằng 
bupivacaine  kết  hợp  sufentanil  và  morphine 
(nhóm 1). Chúng tôi có được kết quả như sau: 
Các  bệnh  nhân  thuộc  nhóm  1  và  nhóm  2 
được lựa chọn là bệnh nhân nam. Trên thực tế, 
các  bệnh  nhân  nữ  vẫn  có  thoát  vị  bẹn  (thoát  vị 
môi lớn), nhưng số  lượng không đáng kể.  Hơn 
nữa,  có  sự  khác  biệt  về  ngưỡng  đau  tùy  theo 
giới. Do đó, để dễ dàng theo dõi, đánh giá mức 
độ đau, trong giới hạn của nghiên cứu, chúng tôi 
chỉ  chọn  các  bệnh  nhân  nam.  Ở  2  nhóm  bệnh 
nhân, có sự tương đồng về tuổi, chiều cao, BMI, 
và phân bố ASA I – III. Từ đó thấy rằng các bệnh 
nhân được phân bố vào 2 nhóm một cách ngẫu 
nhiên đã có sự tương đồng, giúp cho sự khảo sát 
kết quả được khách quan, không bị sai lệch bởi 
đặc điểm tuổi tác hay tình trạng sức khỏe. 
Bảng 1. Tuổi, chiều cao và BMI.
Đặc điểm

Nhóm 1
n = 33

Nhóm 2
n = 34

Tuổi (năm)

50,6 ± 22,1*
(18 – 90)†
164,2 ± 6,6
(150 – 175)

52,3 ± 21,8
(22 – 85)
166,6 ± 5,6
(152 – 178)

Chiều cao (cm)
BMI

21,24 ± 2,47 21,50 ± 2,98
(14,7 – 29,6) (15,5 – 29,4)

Giá trị p

0,749
0,100
0,704

* Trung bình ± độ lệch chuẩn † Giá trị tối thiểu – giá trị
đối đa

Sau nghiên cứu, chúng tôi thấy trên 80% các 
bệnh nhân cả 2 nhóm đều đạt mức tê T6. Mức tê 
này  phù  hợp  cho  phẫu  thuật  bơm  CO2  ngoài 
phúc  mạc,  không  gây  khó  chịu  cho  bệnh  nhân. 
Nhóm bệnh nhân 2 có 18% (6 bệnh nhân) chỉ đạt 
mức  T10,  tuy  nhiên  kết  quả  cho  thấy  khi  bơm 
CO2  chậm  với  áp  lực  thấp  thì  bệnh  nhân  vẫn 
chấp  nhận,  không  cảm  thấy  khó  chịu.  Sự  khác 
biệt này có thể do 2 nguyên nhân. Một là mặc dù 
lượng  bupivacaine  ở  2  nhóm  là  như  nhau  (11 

384

mg),  tuy  nhiên  nhóm  1  được  thêm  5  mcg 
sufentanil,  trong  khi  đó  nhóm  2  thêm  2,5  mcg 
sufentanil. Rất có thể do giảm liều sufentanil nên 
ở  nhóm  can  thiệp  mức  tê  không  đạt  được  như 
nhóm  chứng.  Thống  kê  cho  thấy  sự  khác  biệt 
này không có ý nghĩa, và mẫu nghiên cứu cũng 
không  lớn,  nên  rất  cần  nghiên  cứu  thêm. 
Nguyên nhân thứ hai có thể do nhóm 2 có pha 
thêm  100  mcg  morphine,  morphine  này  có  thể 
ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc tê. 
Chúng  tôi  thấy  rằng  thời  gian  cần  chờ  để 
đạt T10 và T6 ở nhóm 2 lần lượt là 3,8 phút và 
5,1 phút. Thời gian này không khác biệt so với 
nhóm 1 (lần lượt là 2,6 phút và 4,4 phút).  Với 
thời gian tiềm phục ngắn khoảng 3‐5 phút như 
kết  quả  chúng  tôi  đạt  được,  ta  thấy  rằng 
morphine không làm ảnh hưởng đến thời gian 
tiềm phục của thuốc tê có thêm sufentanil. Rất 
có thể điều này được che lấp bởi thời gian tiềm 
phục  ngắn  của  sufentanil.  Quan  trọng  nhất, 
với  thời  gian  tiềm  phục  ngắn,  việc  gây  tê  tủy 
sống  với  hỗn  hợp  bupivacaine  –  sufentanil  – 
morphine không hề làm kéo dài thời gian chờ 
đợi của phẫu thuật viên. 
Với liều lượng thuốc tê và opioid sử dụng để 
gây tê tủy sống, thời gian duy trì mức tê T10 là 
129,9 (nhóm 1) và 120,9 (nhóm 2). Thời gian này 
so  với  thời  gian  phẫu  thuật  ở  cả  2  nhóm  bệnh 
nhân đều dài hơn, lần lượt là 59,8 phút (nhóm 1) 
và 78,4 phút (nhóm 2). Thời gian phẫu thuật dài 
nhất  ở  nhóm  1  là  110  phút,  nhóm  2  đến  140 
phút.  Trong  khi  thời  gian  ức  chế  T10  dài  nhất 
đạt  được  lần  lượt  là  169  phút  (1)  200  phút  (2) 
(thời gian phẫu thuật này không phân biệt thoát 
vị  bẹn  trực  tiếp  hay  gián  tiếp,  một  bên  hay  hai 
bên).  Điều  này  chứng  tỏ  phương  pháp  gây  tê 
tủy sống và liều lượng thuốc nghiên cứu là phù 
hợp  cho  phẫu  thuật  TEP.  Kết  quả  là  hiệu  quả 
gây  tê  tốt  ở  cả  2  nhóm  bệnh  nhân  là  trên  80%, 
mặc  dù  nhóm  1  cho  thấy  tỉ  lệ  tê  tốt  cao  hơn 
nhóm  2  (97%  so  với  82%)  nhưng  sự  khác  biệt 
này là không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Thời gian phẫu thuật

Phút
150
100
50
0
Nhóm 1

Nhóm 2
 

Biểu đồ 1. Thời gian phẫu thuật và thời gian duy trì
mức tê T10
Nhóm  2  có  hiệu  quả  giảm  đau  sau  mổ  tốt 
hơn nhóm 1 với trung bình VAS ≤ 3 suốt 24 giờ, 
trong khi nhóm 1 có VAS > 3 vào giờ thứ 4 sau 
mổ. Thời gian đạt VAS = 0 nhóm 2 kéo dài hơn 
khoảng 2,5 lần so với nhóm 1 (5,2 giờ so với 1,9 
giờ). Từ đó ta thấy rằng morphine tủy sống kéo 
dài thời gian VAS = 0 hơn rất nhiều, có thể đến 
24  giờ  sau  mổ,  trung  bình  là  5,2  giờ  sau  mổ. 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  chúng  tôi 

Nghiên cứu Y học

không yêu cầu VAS = 0, mà chấp nhận mức VAS 
≤  3.  Thời  gian  VAS  ≤  3  là  thời  gian  bệnh  nhân 
không  đau  hoặc  đau  nhẹ,  không  cần  cho  thêm 
thuốc. Thời gian giảm đau hiệu quả trung bình ở 
nhóm nghiên cứu là 20,8 giờ (0 – 24 giờ), so với 
nhóm chứng là 10,9 giờ có sự khác biệt rõ. Trên 
lý thuyết, morphine tủy sống giúp giảm đau sau 
mổ  18  –  24  giờ.  Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng 
tôi nằm trong khoảng lý thuyết, phù hợp với lý 
thuyết, và tương đồng với các tác giả khác. 

 

Biểu đồ 2. Điểm đau VAS trong 24 giờ sau mổ.

Bảng 2. Thời gian VAS ≤ 3.
Tác giả

n
(8)

Loại PT

Morphine (mcg)

T giảm đau hiệu quả(giờ)

Trần Huỳnh Đào

117

Mổ LT

100 + sufentanil

26,2

Võ Văn Hiển(9)

33

Mổ CS

100

22,21

30

Mổ chi dưới

100

23,6

Phan Anh Tuấn(7)
(5)

Nguyễn Thế Lộc

200

Mổ LT

100

24,8

Nguyễn Văn Minh(6)

20

Mổ LT

100

22,6

Chúng tôi

34

TEP

100

20,8

Mục  tiêu  của  chúng  tôi  khi  thêm  morphine 
vào hỗn hợp tê tủy sống là giảm nhu cầu thuốc 
giảm  đau  sau  mổ.  Các  bệnh  nhân  ngay  khi  kết 
thúc phẫu thuật được truyền tĩnh mạch thường 
quy paracetamol 1g. Sau đó đánh giá điểm đau 
VAS  trong  24  giờ,  nếu  >  3  thì  cho  thêm 
paracetamol 1g. Kết quả nghiên cứu  của  chúng 
tôi  cho  thấy  nhóm  2  chỉ  có  5  bệnh  nhân  (15%) 
yêu  cầu  thêm  thuốc  giảm  đau,  so  với  21  bệnh 
nhân  (64%)  ở  nhóm  1.  Điều  này  cho  thấy 
morphine  giảm  nhu  cầu  thêm  thuốc  giảm  đau 
sau mổ rất nhiều. 
Trong quá trình theo dõi bệnh nhân, chúng 
tôi đã ghi nhận và xử  trí các tác dụng phụ gặp 
phải.  Các  tác  dụng  phụ  bao  gồm  trong  mổ  và 
sau mổ. Trong mổ, chúng tôi gặp phải chủ yếu 

Ngoại Tổng Quát 

là  tụt  huyết  áp  và  mạch  chậm.  Sau  mổ  có  vài 
trường hợp lạnh run và ngứa. 
Khi  đánh  giá  mức  độ  hài  lòng  của  bệnh 
nhân và phẫu thuật viên, chúng tôi khảo sát bao 
gồm cả sự hài lòng về chất lượng cuộc mổ, chất 
lượng giảm đau sau mổ và các tác dụng phụ của 
phương pháp vô cảm. Về phía bệnh nhân, 85% 
bệnh nhân được gây tê với morphine hài lòng về 
chất  lượng  cuộc  mổ  và  giảm  đau  sau  mổ.  Các 
bệnh  nhân  hài  lòng  vì  sự  thoải  mái  suốt  cuộc 
mổ,  không  cần  phải  gây  mê,  có  thể  giao  tiếp 
được với phẫu thuật viên. 15% bệnh nhân không 
hài lòng (5 bệnh nhân) do thấy đau ở cuối cuộc 
mổ.  Các  bệnh  nhân  này  như  đã  nêu  ở  trên,  vì 
cuộc mổ kéo dài, nên tác dụng gây tê giảm. Mặc 
dù đã được xử trí cho thêm thuốc giảm đau, tuy 

385

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

nhiên, bệnh nhân vẫn có trải nghiệm không tốt 
với cảm giác đau trong mổ. Về phía phẫu thuật 
viên,  21%  trường  hợp  không  hài  lòng  do  bệnh 
nhân bị đau cuối cuộc mổ. Tuy nhiên phần lớn 
phẫu thuật viên và bệnh nhân đều hài lòng với 
chất lượng giảm đau sau mổ, bệnh nhân không 
đau,  với  VAS  0  –  3  điểm,  tạo  sự  thoải  mái  cho 
người  bệnh,  người  bệnh  phối  hợp  với  phẫu 
thuật  viên  để  đánh  giá  khối  thoát  vị  trong  lúc 
mổ,  cũng  như  đánh  giá  thành  bụng  sau  đặt 
mesh. 

2.

3.

4.

5.

KẾT LUẬN 
Nhóm  bệnh  nhân  được  gây  tê  với  hỗn  hợp 
bupivacaine  +  sufentanil  +  morphine  đạt  được 
hiệu  quả  gây  tê  tốt  tương  đương  nhóm 
bupivacaine + sufentanil: Đạt mức tê cao nhất là 
T6, phù hợp cho bơm CO2 vào khoang trước phúc 
mạc; thời gian duy trì mức tê T10 kéo dài 120,9 ± 
33,6 phút, phù hợp với thời gian phẫu thuật. 
Hiệu quả giảm đau sau mổ của nhóm bệnh 
nhân  được  gây  tê  bằng  bupivacaine  kết  hợp 
sufentanil  và  morphine  tốt  hơn  so  với  nhóm 
chứng: thời gian giảm đau hiệu quả kéo dài 20,8 
±  7,7  giờ,  tỉ  lệ  bệnh  nhân  cần  thêm  thuốc  giảm 
đau sau mổ cũng giảm, đạt mức 15% so với 64%. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

386

6.

7.

8.

9.

pharmacology  of  epidural  and  intrathecal  opioidsʺ,  Best
Practice & Research Clinical Anesthesiology, 16(4), p. 489‐505. 
Bittner  R,  et  al  (2011),  ʺGuidelines  for  laparoscopic  (TAPP) 
and  endoscopic  (TEP)  treatment  of  inguinal  hernia 
[International  Endohernia  Society  (IEHS)]ʺ,  Surg Endosc, 
25(9), p. 2773‐2843. 
Horlocker  TT,  et  al  (2008),  Practice guilines for the prevention,
detection, and management of respiratory depression associated with
neuraxial opioid administration,  An  updated  report  by  the 
American  Society  of  Anesthesiologist  Task  Force  on 
Neuraxial Opioids. 
Lal  P,  et  al  (2007),  ʺLaparoscopic  total  extraperitoneal  (TEP) 
inguinal  hernia  repair  under  epidural  anesthesia:  a  detailed 
evaluationʺ, Surg Endosc, 21(4), p. 595‐601. 
Nguyễn Thế Lộc (2010), ʺNghiên cứu phối hợp buvicaine với 
morphine  (opiphine)  hoặc  sufentanyl  trong  gây  tê  tủy  sống 
để mổ và giảm đau sau mổ lấy thaiʺ, Tạp chí Thông tin Y Dược,
Bộ Y tế, 8, p. 23‐25. 
Nguyễn Văn Minh và cs (2006), ʺNghiên cứu tác dụng giảm 
đau sau mổ của morphine tủy sống trong mổ lấy thaiʺ, Kỷ yếu
công trình nghiên cứu khoa học, Hội nghị gây mê toàn quốc, p. 10‐
16. 
Phan  Anh  Tuấn  (2008),  Đánh giá kết hợp gây tê tủy sống bằng
bupivacaine kết hợp với morphine và bupivacaine kết hợp với
fentanyl trong mổ chi dưới, Luận văn Thạc sĩ Y khoa. 
Trần  Huỳnh  Đào  (2012),  Đánh giá hiệu quả của phối hợp
bupivacaine với sufentanil và morphine trong gây tê tủy sống mổ
lấy thai,  Luận  án  chuyên  khoa  II  chuyên  ngành  Gây  mê  hồi 
sức. 
Võ Văn Hiển (2008), Đánh giá gây tê tủy sống bằng bupivacaine
kết hợp morphin trong phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống thắt
lưng, Luận văn Thạc sĩ Y khoa. 

 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014

Bernard  C  (2002),  ʺUnderstanding  the  physiology  and 
 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 

nguon tai.lieu . vn