Xem mẫu
- Giếng thở than - phần 1
St Bertrand De Comminges là một thị trấn hoang tàn trên những đỉnh nhọn của dãy núi
Pyrénées, không xa Toulouse là bao, và càng gần Bagnères-de-Luchon. Cho tới Cách
mạng, nó vẫn là địa phận của giám mục và có một nhà thờ được một số khách du lịch
tới thăm. Vào mùa xuân năm 1883, một người Anh đã tới cái nơi thuộc thế giới xưa cũ
này – tôi khó lòng đồng nhất nó với cái tên "thành phố" vì nó chỉ có chưa đến một ngàn
dân. Chàng là người của bảo tàng đại học Cambridge, nay đến Toulouse chỉ để thăm
nhà thờ St Bertrand và đã để lại tại khách sạn Toulouse hai người bạn kém say mê
khảo cổ học hơn chàng, hẹn họ sáng sớm hôm sau sẽ tới gặp chàng. Đối với họ thì chỉ
nửa giờ ở nhà thờ là đủ rồi, sau đó cả ba có thể tiếp tục cuộc du hành theo hướng
Auch. Nhưng hôm đó anh chàng người Anh của chúng ta đến khá sớm, dự định sẽ ghi
đầy cuốn vở ghi chép của mình và chụp hàng chục tấm ảnh để mô tả tất cả các góc
của ngôi nhà thờ kỳ diệu cao sừng sững nổi bật trên ngọn đồi nhỏ Comminges. Để
thực hiện đầy đủ ý định trên đây, cần phải độc quyền người giữ nhà thờ suốt ngày
mới được! Người giữ nhà thờ, nói cách khác, người cai quản giáo đường (tôi thích
cách gọi sau này hơn cho dù nó chưa thật chính xác lắm) được bà chủ khá thô lỗ của
quán Chapeau Rouge gửi tới; khi ông ta đến nơi chàng người Anh của chúng ta thấy
ngay đây là một đối tượng nghiên cứu thú vị bất ngờ. Không phải là từ vẻ bề ngoài
của ông già bé nhỏ, khô khan, mặt mày nhăn nheo, bởi ông ta giống hêt như những
người giữ nhà thờ khác ở Pháp, cái hay là ở chỗ ông ta có cái vẻ gì lén lút quái lạ, đúng
hơn, như thể bị săn đuổi, bị áp chế, cưỡng bức, lúc nào cũng cứ liếc nhìn phía sau, các
bắp thịt ở lưng và vai còng lại, có lẽ chúng liên tục co rút vì bồn chồn, tựa như lo sợ
bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ thù tóm được. Chàng người Anh không hiểu nên xếp
ông ta vào loại người bị ảo tưởng ám ảnh hoặc lương tâm tội lỗi cắn rứt, hoặc một
ông chồng sợ vợ? Có vẻ như là khả năng cuối cùng, nhưng người ta có cảm giác ông
ta sợ một kẻ khủng bố kinh hoàng thì đúng hơn là sợ một bà vợ gây gỗ, lăng loàn.
Tuy nhiên, chàng người Anh (ta hãy gọi chàng là Dennistoun) chẳng mấy chốc chìm
đắm trong việc ghi chép và bận rộn với chiếc máy ánh, thỉnh thoảng lắm mới liếc
nhìn người giữ nhà thờ. Mỗi lần nhìn ông ta, chàng lại thấy ông ta ở không xa chàng là
mấy, đang nép người vào sát tường hoặc thu mình trên một chiếc ghế hoa mỹ chỗ hát
kinh. Sau một lúc thì Dennistoun đâm sốt ruột, nghi ngại mình làm ông già mất bữa
cơm trưa, hoặc giả ông ta sợ mình xoáy mất cái gậy phép bằng ngà của giám mục nhà
thờ St Bertrand này chăng, hay có thể ăn cắp mất con cá sấu nhồi bông bám đầy bụi
treo phía trên bình đựng nước thánh? Những nỗi nghi ngại này giày vò chàng.
Cuối cùng chàng nói:
"Ông không về ăn cơm ạ? Tôi hầu như có thể hoàn thành các ghi chép này một mình,
ông cứ khoá tôi lại trong nhà thờ này cũng được. Ít nhất tôi cần thêm hai giờ nữa, ông
sẽ lạnh đấy".
"Trời ơi!" Người đàn ông bé nhỏ nói, lời đề nghị hình như đã đưa ông ta đến chỗ sợ
hãi không tả xiết "ai mà dám nghĩ đến chuyện ấy cơ chứ? Để ông ở lại trong nhà thờ
này một mình ấy ạ? Không, không, hai giờ hay ba giờ đối với tôi cũng thế mà thôi. Tôi
đã ăn sáng, tôi không lạnh đâu ạ, xin cám ơn ông".
"Vâng, thưa ông thế thì được" và Dennistoun nói một mình "Tôi đã báo trước, nay hậu
quả thế nào thì ông chịu lấy".
- Chưa hết hai giờ đồng hồ, cái ghế ngồi ở chỗ hát kinh, cây đàn organ to tướng đã long,
gãy hết cả, bình phong ngăn nơi ngồi của đội hợp xướng nhà thờ với giám mục John
de Mauléon, những tàn tích của thuỷtinh, của thảm cũng như mọi vật trong phòng
chứa các của quý đã được xem xét kỹ càng, ông già giữ nhà thờ theo Dennistoun sát
gót, thỉnh thoảng lại chạy lung tung như bị cái gì châm đốt mỗi khi nghe thấy những
tiếng động lạ phá tan sự yên tĩnh của cả toà nhà rộng lớn trống rỗng; đôi lúc những
tiếng động này rất kỳ quặc.
"Có một lần", Dennistoun bảo tôi "Thề với anh tôi nghe thấy một giọng cười như
tiếng kim loại ré lên ở tít trên cao tháp chuông". Tôi đưa một cái nhìn dò hỏi về phía
người giữ nhà thờ. Môi ông già trắng bệch ra. "Ông ta đấy, đấy, ông ta chứ còn ai nữa,
cửa khoá rồi cơ mà".
Ông già chỉ nói thế, hai chúng tôi nhìn nhau suốt một phút ròng.
Một sự kiện nhỏ xảy ra làm Dennistoun hoang mang. Chàng đang xem xét một bức
tranh treo ở phía trên bàn thờ, một bức trong loạt tranh minh họa những phép màu của
nhà thờ St Bertrand. Bức tranh vẽ những gì chẳng ai giải đoán được, tuy nhiên phía
dưới có một câu La tinh như sau:
Qualiter S.Bertrandus liberavit hominem quem diabolus diu volebat strangulare (Làm thế
nào thánh Bertrand đã giải thoát được một người đàn ông mà quỷ sứ tìm mãi để bóp
cổ)
Dennistoun quay lại nhìn người giữ nhà thờ, mỉm cười định đưa ra nhận xét vui đùa
nào đó, nhưng chàng bối rối khi thấy ông này đang quỳ xuống nhìn lên bức tranh với
đôi mắt cầu khẩn của người hấp hối, hai tay chắp lại, hai má tràn trề nước mắt. Dĩ
nhiên Dennistoun làm như không nhìn thấy gì, tuy nhiên chàng không khỏi nghĩ tới câu
hỏi "Tại sao một bức tranh lem nhem như thế mà ảnh hưởng mạnh đến một con
người như vậy nhỉ?" Chàng hầu như đã nắm được câu trả lời mấu chốt cho lý do của
cái nhìn kỳ lạ cứ làm chàng bồn chồn suốt cả ngày nay. Ông già là người mắc chứng
độc tưởng rồi. Nhưng ông ta độc tưởng cái gì mới được kia chứ?
Đã sắp năm giờ chiều, ngày ngắn sắp tàn, nhà thờ ngập những bóng tối, những tiếng
động kỳ lạ như tiếng bước chân bị bóp nghẹt cùng những giọng nói xa xôi nghe thấy
lúc ban ngày. Nay ánh sáng nhạt nhoà dần khiến chúng càng rõ thêm và xuất hiện liên
tục không ngớt.
Người giữ nhà thờ lần đầu tiên tỏ ra vội vã và thiếu kiên nhẫn. Ông ta thở ra nhẹ
nhõm khi máy ảnh và quyển vở ghi chép được gói ghém cất đi, ông giục Dennistoun
mau mau ra cửa phía tây của nhà thờ, dưới cái chuông.
Lúc này đã đến giờ chuông nguyện buổi chiều. Dây thừng được kéo vài cái, chiếc
chuông lớn Bertrand tít trên cao bắt đầu cất tiếng, giọng nó vút lên tới các ngọn thông
và xuống thấp dưới các thung lũng, ầm ầm với tiếng suối của núi non, kêu gọi những
người đang sống trên những ngọn đồi quạnh hiu hãy nhớ lấy và nhắc lại lời chào của
vị nữ thần mà quả chuông gọi là người đàn bà được Ban Phước. Sau đó thì lần đầu
tiên trong cả ngày hôm ấy, một nỗi yên lặng sâu xa trùm xuống thị trấn nhỏ,
Dennistoun và người giữ nhà thờ ra khỏi nhà thờ.
Tới ngưỡng cửa họ bắt chuyện với nhau.
"Hình như ông có vẻ quan tâm tới những sách hát kinh cổ ở trong phòng để đồ thờ thì
phải?"
"Đúng thế. Tôi đang định hỏi ông thị trấn ta có thư viện không?"
- "Thưa ông không. Có lẽ trước đây thì có, thuộc tăng hội, nhưng nay chỉ còn là một nơi
rất nhỏ…" tới đây có cái gì ngần ngừ làm ông ta không nói nữa, sau đó, hình như ông
ta liều lĩnh nói tiếp "Nhưng nếu ông thích chơi sách cổ (amateur des livres) tôi có một
quyển có thể khiến ông thích thú. Cách đây không đến một trăm mét".
Lập tức bao giấc mơ mà Dennistoun hằng ấp ủ mong tìm được những bản viết tay vô
giá từ những vùng xa xôi chưa ai đặt chân đến của nước Pháp loé sáng lên trong đầu
chàng, nhưng rồi sau đó lại tắt ngấm ngay. Biết đâu chỉ là một bản in sách kinh ngớ
ngẩn của Plantin khoảng năm 1580? Một nơi gần Toulouse như thế này chẳng lẽ chưa
bị các kẻ sưu tầm lùng sục từ lâu rồi sao? Tuy nhiên, không đi là điên, nhỡ ra sau này
sẽ ân hận vì từ chối? Thế là họ đi. Trên đường đi, trong óc Dennistoun hiện lại sự
ngần ngừ kỳ quặc sau đó đột ngột đi đến quyết định của người giữ nhà thờ, chàng hơi
ngượng tự hỏi hay họ bẫy ta tới chỗ bìa rừng nào đó để khử ta, tưởng ta là một người
Anh giàu có? Do đó chàng mưu mẹo nói với người dẫn đường – một cách vụng về -
rằng chàng đang chờ đợi hai người bạn đến với chàng sáng sớm hôm sau. Lạ thay,
nghe vậy người giữ nhà thờ có vẻ nhẹ hẳn nỗi lo âu vẫn đè nặng lên ông ta.
"Thế thi hay quá" ông ta tươi tỉnh nói "thật là hay khi ông du lịch cùng hai người bạn
luôn ở bên ông. Đi mà có bạn thì tốt quá, trong một số trường hợp nào đó"
Mấy chữ cuối cùng được nói sau ít phút nghĩ ngợi, rồi ông ta lại rơi vào nỗi u ám như
trước.
Chẳng mấy chốc họ tới nhà, một căn nhà khá rộng, rộng hơn các căn lân cận, xây
bằng đá, trên cánh cửa có khắc cái khiên của Alberic de Mauléon – con cháu (chi trên)
của giám mục Jonh de Mauléon - theo lời Dennistoun bảo tôi. Ông Alberic này là một
giáo sĩ của Comminges từ 1680 đến 1701. Những cửa sổ phía trên của toà nhà được bít
kín, toàn bộ nơi này mang dáng vẻ của một thời đại đã tàn hai, cũng như hầu hết
những căn nhà còn lại ở Comminges.
Từ ngưỡng cửa, người giữ nhà thờ dừng lại một lát.
"Có lẽ" ông ta nói "có lẽ ông không có thì giờ?"
"Không, tôi có khối thời gian là khác, từ giờ đến sáng mai chẳng có việc gì mà làm. Ta
cứ xem thử ông có cái gì?"
Đến đây cửa ra vào mở ra, một khuôn mặt thò ra, trẻ hơn khuôn mặt người giữ nhà
thờ nhiều, nhưng cũng mang cái vẻ buồn thảm y như thế. Chỉ có điều đáng chú ý ở
đây, là nó không phải sự sợ hãi cho an toàn của bản thân mà là nỗi lo lắng ghê gớm
cho an toàn của người khác. Rõ ràng chủ nhân của khuôn mặt này là cô con gái ông giữ
nhà thờ rồi, và tuy có vẻ mặt như tôi đã mô tả trên kia, cô ta khá xinh. Cô tươi hẳn lên
khi thấy cha mình có một người lạ khoẻ mạnh đi cùng. Cha và con nói với nhau vài lời
nhận xét gì đó, Dennistoun chỉ nghe mấy chữ "Ông ta lại cười trong nhà thờ" những lời
mà cô gái chỉ trả lời bằng một cái nhìn hoảng hốt.
Nhưng chỉ một phút sau họ đã ngồi trong phòng khách của căn nhà – một căn phòng
nhô cao, sàn lát đá, đầy những cái bóng nhảy múa của ngọn lửa trên đám củi cháy
bừng bừng trong lò sưởi – có vẻ gì đó mang tinh cách một nhà thờ nhỏ vì một bên có
một cây thập tự cao đến gần trần nhà, hình người thì sơn màu tự nhiên, chữ thập thì
sơn đen. Bên dưới là một cái tủ cổ và chắc chắn. Sau khi đèn được mang ra, các ghế
ngồi được kéo ra, người giữ nhà thờ tới chỗ cái tủ, thái độ liên tục bị kích động, bồn
chồn và nóng nảy, theo Dennistoun nghĩ. Ông ta lấyra một quyển sách to, bọc trong
một tấm vải trắng thêu thô sơ một chữ thập bằng chỉ đỏ. Ngay từ khi chưa mở khăn
bọc ra, Dennistoun đã lấy làm lạ về kích thước và hình dáng quyển sách. "Đối với một
- quyển sách kinh như thế này thì quá to", chàng nghĩ "về hình thù mà nói thì không phải
thứ kháng âm, rất có thể cũng là một thứ hay ho đây". Quyển sách được mở ra,
Dennistoun nhận ra nó còn hơn cả hay ho nữa. Trước mặt chàng là một quyển sách
khổ to được đóng theo kiểu có lẽ thế kỷ mười bảy, gia huy của tu sĩ Alberic de
Mauléon in thếp vàng hai bên. Trong quyển sách có độ một trăm năm mươi trang giấy
và trên hầu hết mỗi trang lại có dán một trang viết tay tô màu rực rỡ. Một bộ sưu tập
như thế này chưa bao giờ Dennistoun dám mơ đến. Đây chẳng hạn, mười tranh chép
từ cuốn đầu của Kinh Cựu ước – với nhiều hình vẽ minh họa, không thể muộn hơn
hơn năm 700 sau Công nguyên. Quá chút nữa là một bộ ảnh đầy đủ lấy từ một quyển
sách Thánh ca tiếng Anh, một tạo phẩm vô cùng tinh tế của thế kỷ mười ba, và đây
nữa,có lẽ giá trị nhất trong tất cả, là hai mươi trang La tinh chữ viết mà vừa nhìn qua
đây đó mấy chữ, chàng hiểu ngay nó thuộc về luận án từ rất lâu của các cha giáo lý.
Cũng có thể nó là một mẫu sao chép của Papias "Theo lời Chúa của chúng ta", được
biết vốn tồn tại ở Ninnes thế kỷ mười hai. Dù thế nào, ý chàng đã quyết, quyển sách
này sẽ phải theo chàng trở về Cambridge, cho dù chàng có phải rút hết tiền trong ngân
hàng ra và ở lại St Bertrand chờ tiền gửi đến. Chàng liếc nhìn lên người giữ nhà thờ,
xem nét mặt ông ta có lộ ra quyển sách này là để bán không. Mặt ông ta tái mét, hai
môi mấp máy:
"Ông giở đến cuối trang sách xem" ông ta nói.
Thế là chàng giở tiếp, mỗi trang là một kho tàng mới, đến tận cùng quyển sách chàng
gặp hai trang giấy. Không đến nỗi từ thời xa xưa lắm như các trang kia khiến chàng
khá bối rối vì theo chàng chúng là đương đại, có nghĩa Giám mục Alberic,chắc hẳn đã
lục lọi thư viện của Tăng hội St Bertrand để tạo nên quyển sách dán ảnh vô giá này.
Trên trang giấy đầu là một bản đồ, lập rất cẩn thận bởi một người rõ ràng thông tỏ
khu vực này, vẽ cánh phía nam và các hành lang của nhà thờ St Bertrand. Có nhiều dấu
hiệu kỳ quặc tựa như thể hiện các hành tinh, ở các góc là mấy chữ Do Thái, riêng góc
Tây bắc của hành lang là một chữ thập thếp vàng. Bên dưới bản đồ là vài dòng chữ
Ressponsa 12mi Dec 1694. interrogatum est: inveniame? Responsum est:Invenies.
Fiamme dives? Fies. Viamme invidenus? Vives. Moriarnein lecto meo? (Trả lời ngày 12
tháng 12 năm 1694. hỏi: liệu tôi có tìm thấy không? Trả lời: anh sẽ thấy. Tôi có trở
nên giàu có không? Anh sẽ giàu. Tôi có được người ta thèm muốn không? Anh sẽ. Tôi
có chết trong giường của tôi không? Anh sẽ)
"Thứ này quá tốt cho hồ sơ một kẻ đi săn của báu đây, nó làm tôi nhớ đến tập Old St
Paul s của ông phó giám mục Quatremain" Dennistoun bình phẩm và lật tiếp các trang
giấy.
Những gì chàng nhìn thấy lúc này mới thật gây ấn tượng. Chàng vẫn thường bảo tôi là
chưa bao giờ chàng quan niệm nổi một bức vẽ hay một bức ảnh có thể gây ấn tượng
mạnh cho chàng đến như thế. Và, mặc dù bức vẽ chàng nhìn thấy, nay không còn nữa,
bức ảnh chụp nó vẫn còn (tôi đang giữ) đã nói lên đầy đủ nhận định này. Bức tranh vẽ
bằng mực nâu đen vào cuối thế kỷ mười bảy, thoáng nhìn tưởng như một cảnh trong
kinh thánh, vì thiết kế trang trí của nó (cảnh là cảnh ở trong nhà) và các nhân vật
phảng phất vẻ nửa kinh điển mà các nghệ sĩ hai trăm năm trước cho là phù hợp để in
trong Kinh thánh. Bên phải là một vị vua ngồi trên ngai vàng, ngai cao mười hai bậc,
trên đầu có tấm màn che, hai bên có các con sư tử - rõ ràng là vua Salomon rồi. Ngài
đang cúi xuống phía trước, tay giơ quyền trượng với thái độ sai khiến, khuôn mặt biểu
hiện của ý chí độc đoán và uy quyền tự tin. Tuy nhiên bên trái của bức tranh mới làm
- người ta ngạc nhiên. Rõ ràng những thứ đáng lưu ý tập trung ở cả chỗ này. Trên mặt
đá lát trước ngai vàng là một nhóm bốn người lính quây quanh thành một hình thù đang
né núp xuống mặt đá lát, hình thù này tôi sẽ mô tả kỹ sau. Người lính thứ năm nằm
chêt rục trên mặt đá lát, cổ bị vặn gầy, hai nhãn cầu lồi ra khỏi hốc mắt. Bốn người
lính kia đang nhìn vào nhà vua. Trên khuôn mặt họ lộ vẻ kinh hoàng khôn tả, thực tế
có lẽ họ không bỏ chạy chỉ vì lòng tin tuyệt đối ở ông chủ của mình. Nỗi kinh hoàng
này chính là do cái hình thù mà họ vây quanh gây ra. Tôi rất thất vọng vì không truyền
đạt cho hết bằng bất kể cách nào cái ấn tượng mà hình thù đó gây ra cho bất cứ ai
nhìn vào đó. Tôi còn nhớ có lần đã đem cho một nhà hình thái học xem. Ông này là một
người tỉnh táo, không hề giàu trí tưởng tượng. Xem xong tấm hình chụp, ông ta nhất
định không chịu ở một mình tối đó nữa. Ông ta bảo tôi sau rất nhiều đêm tiếp theo,
ông phải để đèn khi ngủ. Tuy nhiên, tôi có thể chỉ ra những nét chính của hình thù đó.
Trước tiên bạn trông thấy một mớ lông đen thô thiển dính bẹt xuống đất, mớ lông này
che phủ một tấm thân gày đến mức đáng sợ, như một bộ xương, các thớ cơ tách hẳn
ra khỏi xương trông như những sợi dây thép. Hai bàn tay xanh nhợt và giống như thân
mình, được phủ một lớp lông cũng thô và dài, các ngón có móng rất xấu xí, kinh tởm.
Đôi mắt có ánh màu vàng cháy rực, giữa là lòng đen, đen kịt, nhìn lên vua với cái hằn
học của một con vật. Bạn hãy tưởng tượng loại nhện bắt chim của Nam Phi, kinh
khiếp như vậy mà lại hiện hình thành người với trí thông minh kém hơn ocn người.
Bạn sẽ hơi hơi có chút ý niệm của thứ người nộm kinh khủng mà tôi đang tả. thường
thì ai trông thấy bức ảnh tôi đưa ra cũng đồng thanh phát biểu rằng "Đó là sự sống đã
bị hút kiệt".
Sau khi chế ngự được cơn sốc hãi hùng lúc thoạt nhìn thấy bức tranh, Dennistoun nhìn
trộm các vị chủ nhà. Hai tay người giữ nhà thờ bịt chặt lấy mắt, cô con gái thì nhìn lên
cây thập tự, tay lần tràng hạt một cách hăng hái.
Cuối cùng một câu hỏi được đặt ra "quyển sách này có bán không?"
Lại cũng vẫn sự ngần ngừ rồi sự quyết định đột ngột mà Dennistoun đã nhận thấy
trước đây, sau đó đến câu trả lời chàng mong đợi.
"Vâng, nếu ông muốn mua"
"Ông đòi bao nhiêu ạ?"
"Tôi lấy ông hai trăm năm mươi francs".
Thật là lạ. Ngay cả lương tâm của một kẻ sưu tầm cũng có lúc bị khuấy động, mà
lương tâm Dennistoun lại mềm yếu hơn lương tâm những kẻ sưu tầm khác.
"Ông ơi" Dennistoun nói đi nói lại mãi "sách của ông đáng giá hơn thế nhiều. Bảo đảm
với ông, hơn nhiều lắm".
Nhưng câu trả lời không thay đổi "Tôi chỉ xin lấy có hai trăm năm mươi francs thôi,
không hơn".
Chẳng lẽ lại từ chối một cơ may hiếm có như vậy. Tiền trả xong, biên lai được ký
nhận, sách trao xong mỗi người uống một cốc rượu, và sau đó người giữ nhà thờ trở
nên một con người khác hẳn. Ông ta đứng thẳng lên, không còn ném ra phía sau những
cái nhìn nghi hoặc nữa, ông ta còn cười thành tiếng hoặc cố găng cười thành tiếng.
Dennistoun đứng dậy ra về.
"Tôi có được hân hạnh đưa ông về khách sạn không?"Người giữ nhà thờ hỏi.
"Ồ, cám ơn ông, không ạ. Có chưa đến một trăm mét ấy mà. Tôi thuộc đường lắm,
trời lại sáng trăng"
Lời đề nghị vẫn được nhắc đi nhắc lại ba bốn lần, lần nào cũng bị từ chối.
- "Thôi được, ông cứ gọi tôi nếu có dịp. Xin ông đi vào giữa đường hai bên đường gồ
ghề lắm"
"Nhất định, nhất định rồi" Dennistoun nói, chàng rất sốt ruột chỉ mong được một mình
xem lại phần thưởng này, chàng bước ra, tay cắp quyển sách.
Ra đến ngoài chàng gặp cô con gái, việc như cô ta cũng đang lo làm một việc mua bán
gì đó cho riêng mình.
Có lẽ như Gehazi, cô định "lấy cái gì đó" của người nước ngoài mà cha mình tha cho
chưa lấy.
"Ông có nhận cho một cây thập tự bạc cùng dây đeo cổ không ạ?"
Dennistoun dùng mấy thứ này làm gì?
"Cô lấy bao nhiêu tiền?"
"Dạ không, không một chút gì. Ông nhận là may cho tôi"
Giọng cô gái biểu lộ sự thành thực không thể nhầm lẫn được, thành ra Dennistoun
nhận lấy, cám ơn rối rít, đeo sợi dây vào cổ. Chàng thấy cứ như thể mình đã giúp hai
bố con ông giữ nhà thờ một việc mà họ không biết phải đáp lại như thế nào. Trong
khi chàng bước đi thì cả hai đứng ở cửa nhìn theo. Khi chàng quay lại vẫy tay một lần
cuối cùng, chúc họ ngủ ngon, từ bậc tam cấp của quán Chapeau Rouge, chàng vẫn
thấy họ đứng nhìn theo như lúc nãy.
Cơm tối xong, Dennistound đóng cửa ở trong phòng ngủ một mình với thứ mới mua
được. Bà chủ quán tỏ ra đặc biệt chú ý đến chàng khi nghe chàng nói đã vào thăm ông
giữ nhà thờ và mua của ông ta một quyển sách. Chàng cũng nghe loáng thóang mẩu đối
thoại vội vã giữa bà ta và ông giữ nhà thờ nọ trong hành lang bên ngoài phòng ăn, kết
thúc bằng mấy từ có ý tứ như sau "Pierre và Bertrand cũng ngủ trong nhà cả mà".
Suốt thời gian này, Dennistoun cứ có cảm giác không ổn trong người mà cảm giác đó
ngày càng tăng, có lẽ quá vui mừng vì sự khám phá của mình hay sao ấy. Dù thế nào
không biết, chàng tin chắc có ai đó đứng đàng sau, chỉ dựa sát lưng vào tường mới
thấy dễ chịu. Nhưng tất cả những thứ ấy thấm tháp gì so với giá trị của quyển sách
mà chàng vừa mua được. Và lúc này đây, một mình trong phòng, chàng lấy cái kho báu
của giám mục Alberic ra, cái của quý mà mỗi lúc chàng thấy càng thêm hấp dẫn.
"Xin Chúa ban phước cho giám mục Alberic!" Dennistoun nói, chàng có cái tật không
sửa được là hay nói một mình "Chẳng biết bây giờ ông ta ở đâu? Trời đất! Tôi cứ
mong bà chủ quán có cái cười vui vui lên một chút chứ bà đừng làm như có ai chết
trong nhà! Bà bảo là "Hãy hút thêm nửa tẩu thuốc nữa!" Đúng đấy. Tôi không hiểu cây
thập tự cô gái cố tình cho tôi là sao? Thuộc thế kỷ trước chăng? Có thể lắm. Đeo ở cổ
thế này vướng chết được, nặng ghê! Có lẽ cha cô ta đã đeo nó ở cổ trong nhiều năm.
Trước khi cất đi ta phải đem nó ra lau sạch cái đã"
Chàng tháo cái dây ra, đặt trên bàn, vừa lúc đó có một vật nằm trên miếng vải đỏ bên
khuỷu tay trái chàng khiến chàng chú ý. Óc chàng thoáng qua vài ba ý nghĩ thật nhanh.
"Giẻ lau bút ư? Nhà này làm gì có nhỉ? Chuột ư? Không, chuột phải đen hơn. Một con
nhện lớn chắc? Ta tin là không phải. Ồ, mà trời ơi! Một bàn tay giống hệt bàn tay thấy
trong bức tranh!"
Nhanh như ánh chớp chàng cầm bàn tay ấy lên. Làn da xanh bợt, chỉ có xương và gân,
những thớ gân rất to, lông lá đen sì, bàn tay dài hơn bàn tay người bình thường, ngón
tay có móng dài quắp xuống đưa ra trước, màu xám, cứng như sừng, rúm ró.
Chàng lập tức bay khỏi ghế ngồi, một nỗi sợ hãi không thể nào tả được bóp nghẹt lấy
tim chàng. Một bóng ma mà bàn tay trái vẫn đặt trên bàn, vươn dậy sau chỗ chàng
- ngồi, bàn tay phải khom khom trên mảnh da đầu còn tí tóc. Bóng ma đó mặc quần áo
rách tả tơi, lộ ra lông lá dài thô như trong bức tranh. Hàm dưới nó mỏng teo – tôi biết
gọi thế nào? Hõm sâu vào như hàm của một con vật, răng nhe ra khỏi đôi môi đen
ngòm, mũi không có, mắt rực sáng một ánh màu vàng, lồi ra hai con ngươi đen, bộc lộ
ra tất cả nỗi căm thù muốn tiêu diệt cuộc sống. Đó là điểm đặc trưng nhất của sự
kinh hoàng trong toàn bộ cảnh hiện hình yêu ma này. Trong tất cả những cái đó, vẫn
có một sự thông minh nào ấy thấp hơn của con người nhưng cao hơn của con vật.
Những cảm giác mà sự kinh hoàng này gây nên cho Dennistoun là sự sợ hãi căng thẳng
về thể chất đồng thời cũng là sự ghê tởm khủng khiếp nhất về tinh thần. Chàng phải
làm gì đây? Chàng có thể làm gì? Chàng không biết chắc mình đã nói những lời nào chỉ
biết là chàng đã nói, đã nắm vào cái chữ thập bằng bạc một cách mù quáng, chàng
nhận thức được động thái của con quỷ tiến về phía chàng, thế là chàng kêu thét lên
với giọng của một con vật dang chịu đựng một nỗi đau ghê gớm.
Pierre và Bertrand, hai tay phục vụ khoẻ mạnh chạy bổ vào, không trông thấy gì hết,
nhưng cảm thấy bị đẩy sang một bên rất mạnh như có ai chạy qua, Dennistoun thì bất
tỉnh nhân sự. Họ ngồi với Dennistoun suốt cả đêm hốm đó, còn hai anh bạn của chàng
thì chín giờ sáng hôm sau mới tới. Bản thân chàng, tuy còn run rẩy, bồn chồn nhưng
nói chúng lúc này đã lại người, thành ra câu chuyện kể của chàng người ta tin được,
mặc dù sau đó họ phải tận mắt nhìn vào bức vẽ và đích thân gặp người giữ nhà thờ.
Khoảng rạng đông thì ông già bé nhỏ kiếm cớ vào quán và chú ý lắng nghe câu chuyện
bà chủ quán kể lại, tỏ ra không chút ngạc nhiên.
"Ông ta đấy mà, ông ta đấy! Chính mắt tôi đã nhìn thấy mà!" ông già chỉ nói có thế,
bất kỳ câu hỏi nào ông cũng chỉ hạ cố đáp có một câu "Hai lần tôi trông thấy ông ta,
còn cảm thấy ông ta thì hàng ngàn lần". Ông cũng không nói từ đâu mà mình có cuốn
sách, cũng không kể chi tiết những gì mình đã gặp phải "Tôi chẳng mấy lúc cũng
được nghỉ ngơi, và sự yên nghỉ của tôi sẽ êm đềm. Việc gì các ông phải bận tâm thế
nhỉ?" Ông ta nói. [1]
Chúng ta không bao giờ hiểu được nỗi khổ mà ông ta và giám mục Alberic de Mauléon
phải chịu đựng. Đằng sau tấm ảnh định mệnh đó có mấy dòng chữ viết tay có thể rọi
cho chúng ta vài tia sáng:
Contradictio Salomonis ###### demonio nocturno
Albericus de Mauleone delineavit
v. Deus in adiutorịm Ps.Quihabital
Sancte Bertrande, demoniorum effugator, intercedepro une miserrimo
Primum iudi nocte 12mi Dec 1694: uidebo mox ultimum
Poccaui et passus sum, plura adhuc passurus
Dec.29.1701[2]
Tôi không bao giờ hiểu được quan điểm của Dennistoun về những sự kiện tôi vừa kể
ở trên. Một lần chàng trích dẫn cho tôi một câu trong sách Thánh "Một số hồn ma hiện
lên là để trả thù và trong cơn giận dữ, chúng chơi những cú ác liệt". Một lần khác
chàng nói "Issaiah là một người rất tỉnh táo, thế mà ông ấy chẳng nói gì đo về những
con quỷ đêm đêm vẫn sống ở những nơi đổ nát của Babylon đó sao? Những chuyện
này hiện nay còn quá tầm với của chúng ta, chưa thể hiểu được".
Một lời tâm sự khác nữa của chàng khiến tôi bị ấn tượng mạnh và qua đó thông cảm
với chàng. Năm ngoái, chúng tôi tới Comminges thăm mộ của tu sĩ Alberic. Một tảng
- đá hoa cương sừng sững, trên có hình nổi của giám mục đội tóc giả mặc áo thầy tu và
một lời ca tụng rất hay về học vấn của ông ở phía dưới. Tôi thấy Dennistoun nói
chuyện khá lâu với cha xứ của nhà thờ St. Bertrand. Trên đường lái xe đi chàng bảo
tôi:
"Hy vọng chuyện này không có gì sai trái. Anh biết tôi là người theo Tân giáo, nhưng
tôi tin là nên tổ chức một lễ Mass và hát kinh tụng nguyện cho giám mục Alberic được
yên nghỉ".
Rồi chàng nói thêm pha giọng Bắc Anh:
"Không hiểu sao tôi cảm thấy họ thật gần gũi với mình"
Quyển sách hiện nằm trong bộ sưu tập Wentworth của Cambridge. Tấm tranh vẽ
được chụp lại, sau đó Dennistoun đem đốt đi vào ngày chàng rời Commingessau dịp
đến thăm nhà thờ lần đầu tiên.
nguon tai.lieu . vn