Xem mẫu

  1. PGS.TS. LÊ THANH SƠN (Chủ biên) PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC LƯƠNG KỸ NĂNG LẬP LUẬN VÀ TRANH LUẬN NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC HUẾ Huế, 2020 i
  2. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Lê Thanh Sơn Kỹ năng lập luận và tranh luận / Lê Thanh Sơn (ch.b.), Đoàn Đức Lương. - Huế : Đại học Huế, 2020. - 307tr. ; 21cm Thư mục: tr. 307 1. Lập luận 2. Tranh luận 3. Kĩ năng 808.53 - dc23 DUF0320p-CIP Mã số sách: TK/71-2020 ii
  3. LỜI NÓI ĐẦU Các mối quan hệ trong xã hội dù ở bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống: từ đạo đức, văn hóa, giáo dục… đến chính trị, khoa học, kinh tế, luật pháp… luôn luôn làm nảy sinh, xuất hiện những tình huống phức tạp, chứa đựng những mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Đối thoại, tranh luận phản biện là cách giải quyết các mâu thuẫn dựa trên sức mạnh của trí tuệ – ngôn từ, là phương thức ôn hòa để hóa giải mâu thuẫn, cân bằng các mối quan hệ, san bằng cách biệt, giúp tiếp cận và làm sáng tỏ chân lý, tạo động lực để xã hội phát triển và là phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong thế giới tiến bộ. Là hình thức giao tiếp ngôn ngữ đặc thù, kỹ năng tranh luận luôn gắn bó tự nhiên, giao thoa và song hành cùng kỹ năng lập luận và kỹ năng tư duy phản biện để hình thành nhóm kỹ năng tư duy – ngôn ngữ. Đây là nhóm kỹ năng vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, trong đó có thể coi kỹ năng tư duy phản biện là khối óc và kỹ năng lập luận là dòng máu, là hơi thở để duy trì “sức sống” cho đối thoại, tranh luận. Sau cuốn “Kỹ năng tư duy phản biện” được xuất bản vào năm 2018, cuốn “Kỹ năng lập luận và tranh luận” được xuất bản lần này với hy vọng sẽ góp phần cung cấp những tài liệu liên quan cần thiết phục vụ cho mục tiêu nói trên. Về nội dung, cuốn sách có 5 chương và có thể được chia thành hai phần: phần thứ nhất gồm các chương 1, 2 và 3 trình bày các kiến thức và kỹ năng lập luận nói chung và lập luận iii
  4. pháp lý nói riêng. Phần thứ hai gồm các chương 4 và 5 trình bày các kiến thức và kỹ năng tranh luận. Với nhiệm vụ của một tài liệu huấn luyện kỹ năng – như tiêu đề của cuốn sách – chúng tôi tập trung quan tâm đến việc giúp người đọc thực hành để nâng cao đồng thời kỹ năng lập luận và tranh luận, mà trọng tâm là: - Kỹ năng phân tích (thành phần, cấu trúc) và đánh giá chất lượng một lập luận, xác định vai trò và mối quan hệ giữa các luận cứ và giữa luận cứ với kết luận trong một lập luận, kỹ năng vận dụng các loại lý lẽ, kết hợp linh hoạt các phương thức lập luận, biết cách phát hiện và khắc phục các lỗi trong một lập luận, vận dụng thành thạo các thủ thuật tăng cường hiệu quả lập luận… làm cơ sở để tự mình hình thành và xây dựng lập luận sắc bén, có sức mạnh thuyết phục, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn và hoạt động nghề nghiệp, kể cả những lập luận trong các hoạt động pháp lý, một lĩnh vực điển hình đòi hỏi hội tụ những yêu cầu cao nhất, nghiêm ngặt và có tính đặc thù về kỹ năng lập luận. - Dựa trên nền móng của kỹ năng tư duy phản biện và kỹ năng lập luận, biết vận dụng một cách tổng hợp và linh hoạt các kỹ năng cốt lõi, mang lại hiệu quả, khiến đối phương phải “tâm phục, khẩu phục” trong tranh luận, đó là: kỹ năng lựa chọn, sắp xếp các luận cứ, luận điểm để xây dựng lập luận “thấu tình, đạt lý”, kỹ năng chứng minh và bác bỏ, kỹ năng sử dụng các thủ thuật phản biện, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong tranh luận. Không chỉ là những kỹ năng có tính công cụ, lập luận và tranh luận còn là những kỹ năng “nền”, là cơ sở để hình thành iv
  5. và phát triển các kỹ năng sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng hợp tác, mà theo Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF – 2015) đây là những kỹ năng hình thành nên nhóm kỹ năng hội nhập, là hành trang của công dân trong thế kỷ 21. Vì vậy, việc rèn luyện và nâng cao kỹ năng lập luận và tranh luận là một trong những phương pháp hiệu quả để nâng cao năng lực và giá trị bản thân, đó không chỉ là thước đo để đánh giá phẩm chất và thái độ sống của mỗi người mà còn là “nguồn lực” để phát triển trong một thế giới đầy biến động và bất định. Trong cuốn sách, chúng tôi ưu tiên trích dẫn nhiều ví dụ minh họa cũng như các bài tập có nội dung liên quan đến lĩnh vực Luật nhằm giúp sinh viên chuyên ngành Luật thuận lợi khi sử dụng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, học tập. Tuy nhiên, điều đó không gây trở ngại đáng kể với những người có chuyên môn ngoài lĩnh vực Luật. Xin chân thành cám ơn Thạc sĩ, Luật sư Hoàng Ngọc Thanh (Công ty Luật TNHH Hoàng Ngọc Thanh và cộng sự) đã đóng góp nhiều ý kiến có giá trị, góp phần hoàn thiện nội dung cuốn sách. Chúng tôi xin trân trọng tiếp thu và cám ơn những ý kiến đóng góp, phê bình của các chuyên gia, của bạn đọc giúp sửa chữa, bổ sung, chỉnh lý nhằm tiếp tục hoàn thiện nội dung cuốn sách cho những lần tái bản sau. Mọi ý kiến trao đổi, góp ý, phê bình xin vui lòng chuyển về địa chỉ: lethanhson.dhh@gmail.com CÁC TÁC GIẢ v
  6. vi
  7. MỤC LỤC Trang Lời nói đầu iii Mục lục vii Chương 1. Một số nội dung cơ bản về lập luận 1 1.1. Những vấn đề chung về lập luận 1 1.1.1. Khái niệm về lập luận 1 1.1.2. Phân biệt lập luận với các dạng phát ngôn khác 3 1.2. Vai trò của lập luận 9 1.3. Lập luận theo logic hình thức và lập luận đời thường 10 1.4. Các thành phần trong một lập luận 16 1.4.1. Luận cứ 16 1.4.2. Kết luận 18 1.4.3. Các yếu tố chỉ dẫn lập luận 18 1.4.4. Nhận diện những thành phần không đóng vai 22 trò hình thành nên lập luận 1.5. Cấu trúc của một lập luận 24 1.5.1. Quan hệ giữa các luận cứ với nhau và giữa 25 luận cứ với kết luận 1.5.2. Lập sơ đồ biểu diễn cấu trúc lập luận 31 vii
  8. 1.6. Các hình thức lập luận 37 1.6.1. Lập luận diễn dịch 37 1.6.2. Lập luận quy nạp 42 1.6.3. Lập luận hỗn hợp 47 1.6.4. Lập luận phản đề 48 1.7. Giả định và hàm ý trong lập luận 48 1.8. Lý lẽ trong lập luận đời thường 55 1.8.1. Lý lẽ khách quan 55 1.8.2. Lý lẽ cá nhân (lý lẽ nội tại) 57 1.8.3. Lý lẽ theo kinh nghiệm xã hội 59 Câu hỏi và Bài tập chương 1 69 Chương 2. Lập luận pháp lý 81 2.1. Đặc điểm cơ bản của lập luận pháp lý 81 2.1.1. Dạng thức lập luận 82 2.1.2. Mục đích và kết quả lập luận 83 2.1.3. Lý lẽ sử dụng và phương pháp lập luận 84 2.1.4. Tính chất của lập luận 86 2.2. Các yêu cầu của lập luận pháp lý 87 2.2.1. Yêu cầu về lý lẽ 87 2.2.2. Yêu cầu về ngôn ngữ 101 viii
  9. 2.3. Trình bày một lập luận pháp lý theo phương 109 pháp IRAC (hoặc CRAC) Câu hỏi và Bài tập chương 2 118 Chương 3. Rèn luyện kỹ năng lập luận 139 3.1. Tính logic – sức sống của một lập luận 139 3.2. Rèn luyện kỹ năng nhạy bén xác định cấu trúc 141 lập luận 3.2.1. Xác định chính xác và đầy đủ kết luận và các 141 luận cứ của lập luận 3.2.2. Hiểu rõ vai trò, ảnh hưởng của các luận cứ 146 với kết luận 3.2.3. Xác định và đánh giá tính vững chắc của giả định 149 3.3. Rèn luyện kỹ năng phát hiện lỗi của lập luận 152 3.3.1. Các lỗi trong luận cứ 152 3.3.2. Các lỗi của kết luận 159 3.3.3. Các lỗi do vi phạm quan hệ logic giữa luận 161 cứ với kết luận 3.4. Nắm vững và vận dụng thành thạo các thủ thuật 162 tăng cường hiệu quả lập luận 3.4.1. Các thủ thuật tăng cường sức mạnh của luận cứ 162 3.4.2. Các chiến thuật tăng cường hiệu quả lập luận khác 171 ix
  10. 3.4.3. Nghệ thuật hùng biện trong lập luận 174 Câu hỏi và Bài tập chương 3 176 Chương 4. Kỹ năng tranh luận 194 4.1. Những vấn đề chung về tranh luận 194 4.1.1. Khái niệm về tranh luận 194 4.1.2. Các hình thức tranh luận trong đời sống 200 4.2. Vai trò của tranh luận trong đời sống và xã hội 204 4.3. Các khái niệm và mô hình cấu trúc của lập luận 208 trong tranh luận 4.4. Các đặc điểm cơ bản của tranh luận 212 4.4.1. Tính trí tuệ 212 4.4.2. Tính đối lập 213 4.4.3. Tính tương tác 214 4.4.4. Tính cạnh tranh 216 4.4.5. Tính văn hóa 217 4.5. Các yêu cầu của tranh luận 218 4.5.1. Phải có thái độ khách quan, công bằng 218 4.5.2. Phải nhanh nhạy và linh hoạt trong tư duy 219 4.5.3. Phải đảm bảo sự chặt chẽ, sắc sảo trong ngôn 220 ngữ và lập luận x
  11. 4.5.4. Phải có thái độ khiêm tốn, tôn trọng và cầu thị 221 Câu hỏi và Bài tập chương 4 224 Chương 5. Rèn luyện kỹ năng tranh luận 237 5.1. Rèn luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh luận 237 5.1.1. Nắm vững và bám sát vấn đề cốt lõi 238 5.1.2. Chủ động kiểm soát chiều hướng diễn biến 239 của cuộc tranh luận 5.2. Rèn luyện kỹ năng chứng minh và bác bỏ trong 240 tranh luận 5.2.1. Các thành phần của phép chứng minh 241 5.2.2. Các phương pháp chứng minh 242 5.2.3. Các phương pháp bác bỏ 247 5.2.4. Quy trình 4 bước trình bày lập luận đồng 256 tình/bác bỏ 5.3. Rèn luyện kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm 259 xúc khi tranh luận 5.4. Rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ khi 261 tranh luận 5.5. Rèn luyện kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ khi 262 tranh luận 5.6. Rèn luyện kỹ năng sử dụng hiệu quả các thủ 264 thuật phản biện xi
  12. 5.6.1. Các thủ thuật tấn công vào lập luận của đối phương 264 5.6.2. Các thủ thuật tác động vào tâm lý, cảm xúc 272 của đối phương Câu hỏi và Bài tập chương 5 278 TÀI LIỆU THAM KHẢO 307 xii
  13. Chương 1. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ LẬP LUẬN 1.1. Những vấn đề chung về lập luận 1.1.1. Khái niệm lập luận Trong logic học, lập luận là suy luận (suy diễn logic), là một “hình thức cơ bản của tư duy mà từ một hay nhiều phán đoán đã có (tiền đề), người ta đưa ra được phán đoán mới (kết luận)”. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì lập luận là “… trình bày lý lẽ một cách có hệ thống, có logic nhằm chứng minh cho một kết luận về một vấn đề”1. Còn theo tác giả Nguyễn Đức Dân thì: “Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lý lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó; rút ra một (một số) kết luận hay chấp nhận một (một số) kết luận nào đó”2. Như vậy, lập luận là một hành động ngôn ngữ, dựa trên những căn cứ (sự kiện, bằng chứng, chân lý…) đã được thừa nhận, thông qua việc sử dụng, sắp xếp các lý lẽ, cách diễn đạt, cách phản hồi… để dẫn dắt đến những kết luận nhằm đạt được mục đích (chứng minh, thuyết phục, tạo dựng niềm tin…) trong quá trình giao tiếp. Chứng minh, thuyết phục là mục đích mà lập luận hướng tới. Tuy nhiên, không phải bất cứ nỗ lực chứng minh, thuyết 1 Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, tr.195. 2 Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, NXB Giáo dục, tr.165. 1
  14. phục nào cũng đều là những lập luận. Điều này sẽ được xem xét và phân tích khi nghiên cứu cấu trúc của lập luận. Để hiểu rõ hơn khái niệm lập luận, ta xét 2 phát biểu sau đây: a/. “Đây là một giao dịch hợp pháp”. b/. “Đây là một giao dịch hợp pháp vì nó thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005”. Phát biểu a là một khẳng định, chỉ có nhiệm vụ cung cấp thông tin. Nhưng phát biểu b là một lập luận vì trong phát biểu này, điều khẳng định (“Đây là một giao dịch hợp pháp”) đã được hỗ trợ bởi bằng chứng (“vì nó thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 122 BLDS năm 2005”). Ở đây, tính “hợp pháp” của giao dịch được hỗ trợ bởi tiền đề, đó là căn cứ pháp lý được quy định trong BLDS. Trong một lập luận, kết luận thường là: * Một lời khẳng định/phủ định. Ví dụ: “Mọi người phạm tội đều có hành vi vi phạm pháp luật. Nam là người phạm tội. Vậy, Nam có hành vi vi phạm pháp luật”. * Một khuyến cáo/đề nghị/lời khuyên. Ví dụ: “Phát triển năng lượng hạt nhân đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Đây cũng là nguồn năng lượng có sức mạnh hủy diệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nhân loại đã chứng kiến nhiều bài học đau lòng về thảm họa hạt nhân. Cần thận trọng cân nhắc khi lựa chọn phát triển năng lượng hạt nhân”. * Một câu hỏi có tính định hướng để người nghe/đọc tự rút ra câu trả lời theo hướng mong muốn của người hỏi. 2
  15. Ví dụ: “Hàng hóa do Công ty A sản xuất là hàng hóa thuộc danh mục Nhà nước cấm sản xuất, buôn bán, lưu hành, sử dụng theo Điều 199 Bộ luật Hình sự. Chẳng lẽ anh vẫn không công nhận đó là hàng cấm?”. 1.1.2. Phân biệt lập luận với các dạng phát ngôn khác 1.1.2.1. Phân biệt lập luận với giải thích và tóm tắt Mục đích thuyết phục là một trong những chỉ dấu quan trọng đầu tiên để nhận diện một lập luận. Vì thế, nếu một mệnh đề không đưa ra được kết luận với mục đích thuyết phục người nghe/đọc đến một nhận thức hay hành động, thì đó là dấu hiệu cho thấy mệnh đề đó có nhiều khả năng không phải là một lập luận. Ta xét 2 ví dụ sau1: Ví dụ 1: “Theo thỏa thuận, bà Th. sẽ trả số nợ 50 triệu đồng cho ông K. trước 12 giờ ngày 23/3/2012. Tuy nhiên, do gặp trục trặc trong quá trình thu hồi vốn nên đến 8 giờ ngày 24/3/2012 bà Th. mới có đủ số tiền. Vì vậy, đến 9 giờ ngày 24/3/2012 bà Th. mới hoàn trả đủ số tiến nợ cho ông K”. Trong ví dụ này có hai căn cứ được đưa ra (thời hạn bà Th. phải trả nợ và thời hạn bà Th. thu hồi đủ tiền) để hướng đến kết luận (đưa ra lý do bà Th. bị chậm trễ trong việc trả nợ). Tuy nhiên, kết luận này rõ ràng không nhằm đến mục đích thuyết phục một điều gì. Các lý do đưa ra chỉ có nhiệm vụ giải thích cho kết luận cuối cùng mà thôi. 1 Dẫn từ “Tình huống pháp lý và thực tiễn tố tụng”, Hồ Ngọc Diệp - NXB Phương Đông, 2016. 3
  16. Ví dụ 2: “Ngày 4/8/2014, trong khi đang làm việc tại nhà máy, chị M. nhặt được chiếc ví bên trong có nhiều tài sản là nữ trang kim loại màu vàng. Cùng ngày, Ban giám đốc nhà máy lập biên bản tạm giữ số tài sản đó, nhưng đến nay đã hơn 2 tháng vẫn chưa có kết luận gì. Ngày 5/9/2014, Công an phường X. lập biên bản tạm giữ số vàng trên và chuyển hồ sơ đến Công an Thành phố H. để thụ lý giải quyết theo thẩm quyền. Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện tại cơ quan Công an vẫn chưa có thông tin phản hồi với chị M. Như vậy, từ khi chị M. nhặt được tài sản, các tổ chức có thẩm quyền đã trực tiếp xem xét xử lý nhưng chưa đưa ra kết luận nào về sự việc”. Với ví dụ này, nội dung được nói đến sau từ “Như vậy” không phải là một kết luận mà thực chất chỉ là việc tóm tắt lại những nội dung đã nêu trước đó, không đưa ra thông tin hoặc phán đoán gì mới. Vì vậy, đây không phải là một lập luận. Để thấy rõ hơn sự khác nhau, ta xét ví dụ 3 tương tự với ví dụ 2: Ví dụ 3: “Ngày 4/8/2014, trong khi đang làm việc tại nhà máy, chị M. nhặt được chiếc ví bên trong có nhiều tài sản là nữ trang kim loại màu vàng. Cùng ngày, Ban giám đốc nhà máy lập biên bản tạm giữ số tài sản đó, nhưng đến nay đã hơn 2 tháng vẫn chưa có kết luận gì. Ngày 05/9/2014, Công an phường X. lập biên bản tạm giữ số vàng trên và chuyển hồ sơ đến Công an Thành phố H. để thụ lý giải quyết theo thẩm quyền. Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện tại cơ quan Công an vẫn chưa có thông tin phản hồi với chị M. Do đó, căn cứ vào 4
  17. các quy định của pháp luật, chị M. hoàn toàn có quyền khiếu nại về thái độ vô trách nhiệm của các cơ quan liên quan đối với sự việc này”. Trong ví dụ này, câu cuối cùng không phải là sự tổng kết những nội dung đã nêu ở phía trước (như trong ví dụ 2) mà là một kết luận. Đó là kết luận về thái độ thiếu trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong sự việc này, đồng thời hướng mục đích đến việc thuyết phục, tìm sự đồng thuận với người đọc/nghe trong trường hợp chị M. có khiếu nại. Vì vậy, nội dung của ví dụ 3 là một lập luận. 1.1.2.2. Phân biệt lập luận với miêu tả và trần thuật Ta xét hai ví dụ sau đây: Ví dụ 41: “Theo Điều 3 Thông tư số 28/2013 ngày 05/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì tiền giả là những loại tiền làm giống như tiền Việt Nam nhưng không phải do Ngân hàng Nhà nước tổ chức in, đúc, phát hành”. Ví dụ 5. “Từ trước đến nay, ai cũng phải thừa nhận An là người rất trung thực”. Các phát ngôn trong hai ví dụ trên là những phát ngôn miêu tả, trần thuật có mục đích thông báo cho người đọc/nghe thông tin về sự vật, hiện tượng mà không đưa ra bất kỳ một kết luận nào. Tính đúng/sai, chân thực/không chân thực của sự vật, hiện tượng được đánh giá dựa vào thực tế mà nó phản 1 Dẫn từ “Tình huống pháp lý và thực tiễn tố tụng”, Hồ Ngọc Diệp - NXB Phương Đông, 2016. 5
  18. ánh. Như vậy, trong khi lập luận có mục đích chứng minh, thuyết phục người đọc/nghe thông qua kết luận mà nó đưa ra, thì miêu tả, trần thuật chỉ có mục đích thông báo hoặc đưa ra nhận định về các sự vật, sự việc, hiện tượng của đời sống. Tuy vậy, trong thực tế nhiều khi phát ngôn miêu tả, trần thuật không chỉ cung cấp thông tin được thể hiện trực tiếp ở nội dung mà nó diễn tả, mà còn hàm chứa “phía sau” thông tin đó một kết luận mà nó muốn hướng đến. Chẳng hạn, trong ví dụ 4, bản thân nội dung chỉ mang đến một thông tin (cho biết thế nào là tiền giả theo quan điểm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), không hàm ý định hướng đến một kết luận cụ thể nào. Tuy nhiên, nếu đặt trong một văn cảnh giao tiếp cụ thể – ví dụ trong phiên tòa xét xử tội tàng trữ ngoại tệ giả – thì phát ngôn này có thể hướng đến một thái độ, một kết luận. Giả định, nếu trong phiên tòa nói trên Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ hướng dẫn tại điểm 3, Mục I Nghị quyết số 02/2003/NQ–HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 (theo đó, tiền giả bao gồm tiền Việt Nam đồng giả và ngoại tệ giả) để kết tội bị cáo “… phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả” theo Điều 280 BLHS năm 2009 cũng như Điều 207 BLHS năm 2015 và “… bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm…”, thì phát ngôn này thể hiện rõ sự không đồng tình với kết luận của HĐXX. Theo quan điểm của phát ngôn này thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – với tư 6
  19. cách là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ – chỉ xem tiền giả là tiền Việt Nam đồng, nghĩa là tiền ngoại tệ giả không có trong khái niệm tiền giả. Do đó, hành vi tàng trữ ngoại tệ giả không thuộc phạm vi điều chỉnh của thông tư này. Tương tự, phát ngôn ở ví dụ 5 nếu đặt trong ngữ cảnh dư luận có ý kiến cho rằng An là một người giả dối, không trung thực thì phát biểu này là sự phủ định ý kiến của dư luận. Những phát ngôn miêu tả, trần thuật có mục đích thông báo, nhưng lại hàm ẩn một sự đánh giá, một kết luận được gọi là những lập luận hàm ngôn. Lập luận hàm ngôn là lời nói có nghĩa ẩn bên trong, tự nó chưa phải là một lập luận đích thực mà chỉ chứa đựng tiềm năng lập luận. Chỉ khi nào từ các phát ngôn miêu tả, trần thuật người phát ngôn đi đến một kết luận trực tiếp, “hiển ngôn” – là khi nghĩa của lời nói biểu hiện trực tiếp ra ngoài – thì phát ngôn đó mới trở thành lập luận đích thực. Trong các văn bản nghị luận khoa học, chính trị – xã hội hay lập luận pháp lý, để đạt được mục đích thuyết phục người đọc, người nghe chấp nhận các kết luận thì nhất thiết các kết luận đó phải được rút ra một cách rõ ràng, minh định, tránh nhận thức mơ hồ hay gây hiểu nhầm. Vì vậy, yêu cầu lập luận được sử dụng trong các trường hợp này phải là lập luận hiển ngôn. 1.1.2.3. Phân biệt lập luận với một số câu có dạng thức tương tự với lập luận Dưới đây là một số dạng câu tuy không phải là một lập 7
  20. luận, nhưng có dạng thức tương tự như lập luận, vì vậy dễ gây nhầm lẫn. * Câu minh họa. Ví dụ: “Trường chúng tôi có rất nhiều đơn vị trực thuộc. Trong đó có các Phòng, Ban chức năng, các Khoa đào tạo, các Trung tâm, các bộ phận cơ hữu khác”. Trong ví dụ này, toàn bộ phần nội dung của câu sau chỉ có nhiệm vụ minh họa cho câu đầu tiên (“Trường chúng tôi có rất nhiều đơn vị trực thuộc”). * Câu điều kiện (Nếu…thì). Ví dụ: “Nếu muốn đi du học, Bạn phải học tiếng Anh”. Trong ví dụ này, không có kết luận nào được đưa ra và vì thế đây không phải là một lập luận. Tuy nhiên, mệnh đề: “Nếu muốn đi du học, Bạn phải học tiếng Anh. Bạn đã không học tiếng Anh. Vì vậy, Bạn không thể đi du học” lại là một lập luận. Ở đây, kết luận “Bạn không thể đi du học” được hỗ trợ bởi 2 tiền đề, đó là: “Nếu muốn đi du học, Bạn phải học tiếng Anh” và “Bạn đã không học tiếng Anh”. * Câu ở dạng “Báo cáo”. Ví dụ: “Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng nhìn chung Giáo dục Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi những khó khăn, thách thức. Đặc biệt là những tồn tại, yếu kém về chất lượng giáo dục”. Những dạng câu báo cáo chỉ có giá trị cung cấp thông tin. 8
nguon tai.lieu . vn