Xem mẫu

  1. PHẦN III CHUYÊN KHOA DA LIỄU Bài 29 GIẢI PHẪU – SINH LÝ DA 1. Đại cương - Da là cơ quan quan trọng chiếm tới 16% trọng lượng cơ thể. Da bao bọc toàn bộ diện tích cơ thể gồm 2 lớp chính: lớp biểu mô trên mặt gọi là biểu bì và lớp mô liên kết phía dưới gọi là lớp đệm hay lớp chân bì. Phía 227
  2. dưới lớp chân bì là 1 lớp mô liên kết thưa, lỏng lẻo hơn chân bì gọi là hạ bì - Ở nhiều vùng lớp này chuyển thành mô mỡ dưới da, ở da người còn thấy các thành phần phụ thuộc là lông, các tuyến, móng. 2. Giải phẫu da 2.1. Biểu bì: Biểu bì là 1 biểu mô lợp thuộc loại biểu mô lát tầng sừng hóa gồm 2 dòng tế bào khác nhau tạo thành. Phần lớn tế bào biểu mô sừng hóa, hình thành các lớp trên mặt của da, các tế bào biểu bì được sinh ra từ ngoại bì, lớp mặt ngoài phôi. Những tế bào ở dưới sây của biểu bì không sừng hóa. Từ trong ngoài biểu bì được phân thành các lớp: Lớp đáy; Lớp sợi; Lớp hạt; Lớp bong; Lớp sừng. Biểu bì là lớp tế bào liên tục lợp bên ngoài toàn bộ cơ thể, đồng thời cũng có khả năng được biết ở một số nơi để hình thành những bộ phận phụ thuộc của da: lông, móng, các tuyến. 2.2. Chân bì: Hạ bì được tạo thành bởi lớp mô liên kết thưa, nối chân bì với các cơ quan bên dưới, tùy từng vùng của cơ 228
  3. thể, tùy tình trạng nuôi dưỡng, ở lớp hạ bì có thể có những thùy mỡ, tạo thành 1 lớp mỡ dày hay mỏng. 3. Sinh lý da Da không chỉ là một màng bọc đơn thuần mà là một cơ quan có nhiều chức năng quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với đời sống, nó có liên quan mật thiết đến các bộ phận khác trong cơ thể do đó sự toàn vẹn, lành mạnh của da là yếu tố cần thiết để bảo đảm sức khỏe chung. 3.1. Chức năng bảo vệ Da là một hàng rào bảo vệ các bộ phận sâu như thần kinh, mạch máu, cơ xương, phủ tạng khỏi các tác hại của yếu tố cơ học, lý học, hóa học, vi khuẩn. 3.2. Chức năng điều hòa nhiệt độ: Nhờ hệ số dẫn nhiệt của tổ chức mỡ dưới da (K = 0,00033) và của lớp sừng (K = 0,000125), da tham gia điều hòa nhiệt độ bằng hai cơ chế chính là ra mồ hôi và phản ứng vận mạch. 3.3. Chức năng bài tiết: Trên da toàn cơ thể có chừng 2 – 5 triệu tuyến mồ hôi, ngoài nhiệm vụ điều hòa thân nhiệt, mồ hôi còn có 229
  4. nhiệm vụ thải trừ các chất cặn bã, độc hại chủ yếu là ure, bài tiết chất bã Sebum làm cho da không ngấm nước, lớp sừng mềm mại, lông tóc trơn mượt, giúp cho da chống đỡ với vi khuẩn và nấm. 3.4. Chức năng dự trữ và chuyển hóa: - Nước trong cơ thể chiếm 64%, riêng ở da là 9% - Dự trữ natriclorua khá nhiều: khi lao động tiết nhiều mồ hôi thì nước ở da giảm, khi thận bị tổn thương lọc muối kém, muối giữ lại nhiều trong máu bị đưa ra da, muối ứ đọng ở da kéo theo nước gây phù nề dưới da. - Dưới tác dụng của tia cực tím Cholesteron dưới da được chuyển hóa thành vitamin D rất cần cho sự hấp thụ canxi ở xương. - Ở dưới da còn có nhiều điện giải khác như canxi, magie, kali … 3.5. Chức năng tạo Karatin và melanin: Có thể coi là hai chức năng đặc hiệu của tế bào thượng bì, khi hai chức năng cơ bản đảm bảo cho sự lành mạnh toàn vẹn của da. 3.6. Chức năng cảm giác: Da có thể phân biệt được 3 loại cảm giác - Cảm giác sờ mó, tỳ ép, đụng chạm 230
  5. - Cảm giác nóng, lạnh - Cảm giác đau Nhờ có chức phận cảm giác cơ thể thích ứng được với ngoại cảnh và tránh được yếu tố có hại 4. Sự liên quan giữa da và nội tạng - Da là nơi phản ánh nhiều rối loạn hoặc tổn thương nội tạng, nội tiết - Bệnh gan, mật biểu hiện rất sớm ở da và niêm mạc - Táo bón, bệnh giun sán gây sẩn ngứa, eczema - Lao thận có thể gây sạm da - Tổn thương da có thể ảnh hưởng sâu sắc đến nội tạng, đến sức khỏe chung: - Bệnh da ngứa mãn tính ảnh hưởng đến thần kinh trung ương gây suy nhược thần kinh - Mụn nhọt, nhiễm trùng da gây nhiễm khuẩn huyết, viêm cầu thận cấp. 231
  6. Bài 30 THUỐC BÔI NGOÀI DA 1. Đại cương Thuốc bôi điều trị ngoài da rất phong phú, đa dựng và có các nguồn gốc sau: - Nguồn gốc hóa học - Vô cơ: kim loại muối kim loại, á kim và các dẫn xuất của chúng như oxyt, axit - Hữu cơ: các chất béo, chất thơm, aldehyt, axeton, phenol, axit - Các chất thảo mộc - Các chất tổng hợp, bán tổng hợp 2. Tác dụng của thuốc bôi ngoài da - Làm tăng cường hạn chế, thậm chí cản trở sự bốc hơi nước qua da. Có loại làm tăng diện tích tiếp xúc của da, giúp bốc hơi nước qua da dễ dàng hơn, làm mát da, chống ngưng tụ máu, giảm viêm. Ngược lại, có loại làm bít da, hạn chế bốc hơi mồ hôi, làm tăng xung huyết da. - Ảnh hưởng tới tuần hoàn da gây giãn mạch hoặc co mạch - Tùy theo dạng thuốc và tá dược, thuốc sẽ ngấm vào da nhiều hay ít, nông hay sâu. 232
  7. Nhưng thường cả 3 loại tác dụng trên cùng phối hợp với nhau - Cần chú ý đến tác dụng lý hóa học của thuốc - Thuốc làm thay đổi độ pH của da - Thuốc có thể ảnh hưởng đến quá trình oxy hóa trong tế bào do sử dụng thuốc khử oxy hoặc nhượng oxy - Thuốc bôi ngoài da có tác dụng toàn thân gây nên trong những biến đổi sinh học nhất định, do thuốc ngấm vào máu, tác động lên đầu dây thần kinh thụ cảm ngoại vi hoặc tác động lên các trung tâm của thần kinh thực vật. Như vậy thuốc bôi ngoài da có tác dụng tại chỗ và toàn thân, chỉ định và sử dụng thuốc bôi ngoài da cần hết sức cẩn thận. 3. Các dạng thuốc bôi 3.1. Cấu tạo chung của một công thức thuốc bôi Cấu tạo thuốc bôi gồm hai thành phần chính là hoạt chất và tá dược - Hoạt chất: là thuốc chính có tác dụng điều trị - Tá dược: là phương tiện vận chuyển hoạt chất, đưa dẫn hoạt chất ngấm vào da. Bản thân tá dược không có tác dụng điều trị nhưng nó có một vai trò quan trọng 233
  8. là đưa dẫn thuốc vào nông hay sâu (phụ thuộc vào dạng thuốc). Tá dược thường dùng là: nước, cồn, vaselin, bột. Khi chọn tá dược cần chú ý tác dụng lý, hóa học của hoạt chất, tính hóa tan và tương kỵ 3.2. Các dạng thuốc bôi thông dụng *Dung dịch: - Hoạt chất được pha trong tá dược (thường là các dung môi lỏng) thành một chất lỏng đồng đều, không vón, không tủa. - Tá dược thường dùng là nước, cồn, ete, axeton, clorofoc, đôi khi dùng glyxerin (các chất này ngấm mạnh) - Một số dung dịch: dung dịch jarish, millan, castellani - Nhìn chung dung dịch có tác dụng nông, nhất thời, thường dùng trong giai đoạn cấp tính hoặc bán cấp. - Cách sử dụng dung dịch như: đắp gạc, bôi lên da, một số dung dịch pha loãng dùng để ngâm tắm *Thuốc bột: - Tá dược thường dùng là hai loại bột: bột thảo mộc và bột khoáng chất. 234
  9. - Tác dụng làm mát da, chống xung huyết, giảm viêm, hút nước, làm khô da, làm giảm cảm giác ngứa - Các loại bột thường dùng: bột gạo, bột mỳ, bột câu canh kina, bột tal, bột caolin - Thường dùng thuốc bột rắc lên tổn thương đang viêm tấy nhiều, cấp tính hoặc đang chảy nước. - Thuốc mỡ: là dạng thuốc bôi ngoài da quan trọng và phổ biến nhất. - Tá dược là các chất béo (vaselin), tỷ lệ bột hoạt chất < 30% - Thuốc mỡ làm tăng khả năng hất thu qua da, ngấm sâu, làm trở ngại sự bài tiết qua da, mềm da nhưng gây bít da, hạn chế, hạn chế bốc mồ hôi, gây xung huyết. - Không dùng trên các tổn thương đang ở giai đoạn cấp tính hoặc chảy nước *Hồ: - Thành phần gồm hoạt chất và mỡ nhưng có nhiều bột hơn (tỷ lệ bột trong công thức hồ là 30 – 50%) - Tác dụng làm thoáng da hơn thuốc mỡ, không ngấm sâu bằng thuốc mỡ, giảm viêm, giảm xung huyết, 235
  10. làm khô da, không hạn chế sự bài tiết và bốc hơi ở da, thường dùng cho tổn thương ở giai đoạn bán cấp Ví dụ: hồ nước, hồ saloxit 3% dùng trong eczema bán cấp *Thuốc kem: - Có thể coi kem là một loại thuốc mỡ có thêm glyxerin và nước - Thành phần gồm vaselin, glycerin - Tác dụng mát da, bảo vệ da, độ ngấm vừa phải - Dùng trong giai đoạn bán cấp, thẩm mĩ - Thuốc dầu: - Chất pha trong tá dược là dầu olivơ, dầu lạc trung tính, dầu vừng có thể thêm bột 30 – 40% - Tác dụng nông, dịu da, dùng trong tổn thương cấp tính hoặc tổn thương nông. Ví dụ: dầu kẽm, dầu benzyl benzoate điều trị ghẻ 4. Một số điểm chú ý khi dùng thuốc bôi - Thuốc bôi có tác dụng tại chỗ và còn có tác dụng toàn thân, thuốc ngấm qua da, ngấm vào mạch máu, tác động vào thần kinh, tác động lên toàn cơ thể, ví dụ: bôi mỡ salicylic nếu bôi diện rộng bệnh nhân thì thấy chóng mặt, nhức đầu. 236
  11. - Sử dụng thuốc bôi ngoài da phù hợp với tính chất bệnh lý, giai đoạn, mức độ bệnh, từng vùng da, tuổi, giới, thời tiết, nghề nghiệp - Các tổn thương đang có nhiều dịch mủ, vẩy tiết nên cho ngâm, rửa, đắp gạc trong dung dịch sát khuẩn vài ngày cho giảm viêm, sạch mủ, sau đó dùng thuốc bôi phù hợp cho giai đoạn sau. - Không nên bôi một thuốc thời gian quá dài hoặc thay đổi thuốc liên tục, thường bôi một đợt khoảng 10 - 15 ngày - Theo dõi bệnh nhân trong thời gian dùng thuốc để điều chỉnh kịp thời và phát hiện tai biến phụ thuộc của thuốc. - Theo dõi phản ứng da của từng bệnh nhân vì thuốc bôi có thể gây dị ứng 237
  12. Bài 31 BỆNH NẤM DA (DERMATOMYCOSIS) 1. Đại cương - Nấm là thực vật hạ đẳng, không chưa diệp lục tố nên không tự dưỡng được, nấm da sống ký sinh trên các vật chủ - Nấm có bộ phận dinh dưỡng là sợi nấm, chia thành nhánh chằng chịt từng búi. Sợi nấm già, môi trường hết chất dinh dưỡng, hình thành nha bào để bảo toàn nồi giống của nấm - Nấm phát triển tốt nhất ở 28-32oC, độ pH từ 5,8- 6,8 bị diệt ở 80oC sau 5-7 phút, phơi nắng 40-50oC từ 1- 3 giờ, một số thuốc màu, axit cũng diệt được nấm. - Nấm da là một trong những bệnh ngoài da phổ biến trong nhân dân và quân đội. Theo Nguyễn Cảnh Cầu (1994): bệnh nấm da trong quân đội chiếm 37.31% so với tổng số bệnh ngoài da, trung bình 7 – 10% quân số (có khi tới 25 – 30%) 2. Nguyên nhân và đường lây 2.1. Nguyên nhân: Thường gặp 3 loại chính là: Microsporum, Trichophyton, Epidermophyton. 238
  13. 2.2. Đường lây: - Đường lây trực tiếp: do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh. - Đường lây gián tiếp: do sử dụng chung quần áo, khăn quàng, lược chải tóc, chăn màn, chiếu, xô chậu, găng tay … của người bị bệnh nấm. - Điều kiện thuận lợi: vệ sinh không tốt, mặc quần áo chật, nếp kẽ ẩm ướt, rối loạn nội tiết, sức đề kháng giảm. 3. Triệu chứng lâm sàng của một số bệnh nấm da thường gặp 3.1. Bệnh nấm “hắc lào”: - Vị trí: thường bắt đầu ở vùng da hở, nếp kẽ lớn như bẹn, mông, chi, sau lan ra thắt lưng, nách, nếp vú, thân mình. - Tổn thương cơ bản là đám đỏ hình tròn bằng đồng xu, đường kính 1 – 2 cm, có khi tới 10 – 12 cn, rải rác hoặc liên kết với nhau thành đám hình đa cung, ranh giới rõ rệt có bờ viền, trên bờ viền có những mụn nước nhỏ, xu hướng lành ở giữa. - Bệnh nhân ngứa gãi nhiều có thể gây nhiễm trùng thứ phát (trợt, rớm mủ, sưng tấy) hoặc viêm da thứ phát. 239
  14. - Tiến triển lành tính, không điều trị thành mãn tính, dễ tái phát, cần chẩn đoán phân biệt với phong củ, eczema. 3.2. Nấm lang ben: - Bệnh hay gặp ở lứa tuổi 15 -17 (thời kỳ dậy thì) cho nên còn gọi là bệnh lang lớn. - Tổn thương hay gặp ở 1/2 phía trên thân người (mặt, cổ, ngực, lưng) hiếm gặp ở đùi và cẳng chân. - Nơi da bị nhiễm nấm thường có những dát màu loang lổ, trắng nhạt hoặc hơi hồng 1 - 2mm như bèo tấm về sau thường liên kết thành đám vằn vèo. Khi lao động, khi ra nắng hơi gồ nổi lên mặt da, ngứa, cạo đám tổn thương bong một lớp vảy vụn (vảy cám). - Chẩn đoán phân biệt với phong bất định, sẹo mất sắc tố sau một số bệnh da liễu: zona, vẩy nến… 4. Điều trị 4.1. Nguyên tắc chung - Cần phát hiện sớm, điều trị sớm khi chưa có biến chứng - Dùng thuốc thích hợp với từng vùng da, đúng phác đồ. 240
  15. - Dùng thuốc điều trị liên tục, đủ thời gian, tối thiểu 3 – 4 tuần. 4.2. Điều trị cụ thể. * Phác đồ điều trị nấm hắc lào của Cục Quân y - Tuần 1: cồn BSI 2% bôi sáng 1 lần, chiều 1 lần - Tuần 2: bôi BSI 2% buổi sáng, bôi mỡ benzosali buổi chiều - Tuần 3, 4: bôi mỡ mỡ benzosali ngày một lần - Với hắc lào diện rộng, mãn tính hay tái phát thì dùng thuốc uống: Griseofulvin 0,25 g x 4 viên/ngày x 30 ngày. Hoặc nizoral (ketoconazol) 200 mg x 1 viên /ngày x 20 – 25 ngày - Khi có nhiễm trùng thứ phát dùng dung dịch: - Dung dịch thuốc tím 1/4000 hoặc nước muối 9‰, dung dịch rivanol 1‰, dung dịch becberin 1‰, ngâm 3 – 5 ngày khi nào hết mủ, hết viêm cấp mới dùng thuốc nấm. - Dùng dung dịch nitrat bạc 0,25%, tím metyl, jarich, castellani bôi 2 lần/ngày 241
  16. Gần đây mỡ benzosali được thay thế bằng một số loại thuốc bôi nấm mới như mỡ clotrimazon, kem fazol, nizoral, bôi ngày 2 lần x 20 ngày * Điều trị bệnh nấm lang ben - Điều trị tại chỗ: - Bôi dung dịch ASA, BSI và mỡ benzosali - Bôi mỡ lưu huỳnh 10%, mỡ salicyle 3 – 5%, dung dịch rễ mận rừng 10 – 20% x 3 – 4 tuần - Tắm bằng xà phòng sastid 1 lần/ngày x 3 tuần Kết hợp bôi kem nizoral 1 lần/ngày cho đến khi khỏi. - Bôi kem lamisil, canesten, fazol… ngày 2 lần x 2 -3 tuần. - Điều trị toàn thân: uống nizoral 200 mg x 1 viên/ngày x 10 – 15 ngày. Hoặc sporal 100mg x 2 viên/ngày x 7 ngày - Kết hợp dùng thuốc an thần, chống ngứa bằng kháng histamine tổng hợp: Peritol 4 mg x 2 viên/ngày x 10 ngày Hoặc histalong, astemizol 10mg x 1 viên/ngày x 10 ngày 242
  17. * Thuốc Đông y điều trị nấm Điều trị nấm gồm dung dịch cồn rễ uy linh tiên, rễ cây mận rừng, lá cây chút chít, hạt muồng trâu… Các thuốc trên thái nhỏ ngâm vào cồn 70o hoặc dấm thanh tỷ lệ 20 – 30% sau 7 – 10 ngày , bôi ngày 2 lần (sáng, chiều) x 10 – 15 ngày. 5. Dự phòng 5.1. Với cá nhân: - Giữ gìn da khô ráo sau khi tắm, tránh mặc quần áo ẩm - Tranh thủ phơi nắng chăn chiếu, quần áo - Mặc quần áo rộng, năng tắm giặt - Tránh cạo, dùng thuốc nồng độ cao lên đám da bị nấm, dễ gây viêm da 5.2. Tập thể: - Thường xuyên tuyên truyền giáo dục ý thức phòng bệnh ngoài da trong quân nhân và quân đội - Quản lý tốt, tổ chức điều trị hàng loạt, ngăn chặn kịp thời ổ lây truyền - Tổ chức chỗ tắm riêng cho người bị nấm 243
  18. Bài 32 BỆNH GHẺ 1. Đại cương - Ghẻ là một bệnh ngoài da lây truyền do ký sinh trùng ghẻ gây nên, có tổn thương điển hình là luống ghẻ, mụn nước và những tổn thương thứ phát rất đa dạng ở những vị trí đặc biệt - Ghẻ là một bệnh ngoài da khá phổ biến trong nhân dân và quân đội (đứng sau bệnh nấm, chàm, viêm da mủ) nhất là trong điều kiện chiến đấu, dã ngoại, sơ tán. 2. Nguyên nhân - Do ký sinh trung Scabiei hominis gây nên (chủ yếu do ghẻ cái, ghẻ đực ít thấy) - Ghẻ cái tròn dẹt, nhìn thấy bằng mắt thường, như một điểm trắng di động. Ghẻ cái đào hang ở lớp sừng và đẻ trứng ở đó, trứng nở sau 8 – 14 ngày thành ấu trùng, lột xác 5 – 6 lần mới thành ghẻ trưởng thành. Chu kỳ từ trứng đến ghẻ trưởng thành 14 – 21 ngày. Ghẻ cái sống được 3 tháng, một ghẻ cái đẻ khoảng 50 trứng, như vậy, sau 3 tháng 1 con ghẻ cái đẻ được hàng triệu con ghẻ khác. 3. Triệu chứng lâm sàng 244
  19. Bệnh ghẻ gặp ở mọi tầng lớp xã hội, thời gian ủ bệnh khoảng 10 ngày, thời kỳ toàn phát với các triệu chứng sau: 3.1. Tổn thương đặc hiệu ở vị trí đặc biệt - Tổn thương đặc hiệu là luống ghẻ (đường hang) và mụn nước - Đường hang dài 2 – 3mm, ngoằn ngoèo hình chữ chi, hơi gợn lên mặt da, thường đi song song với các nếp gấp. - Ở đầu đường hang có một điểm gồ cao, một mụn nước (mụn trai) kích thước 1 – 2mm (ghẻ cái thường nằm ở đây) - Vị trí đặc biệt: thường gặp tổn thơng ghẻ ở kẽ ngón tay, nếp gấp cổ tay và bàn tay, cùi tay, bờ trước nách, quanh rốn, mông, đặc biệt chú ý có tổn thương ỏ thân dương vật của nam giới, ở đầu vú nữ giới, ở gót chân trẻ em. 3.2. Ngứa tăng về đêm lúc đi ngủ Do ghẻ cái đào hang ở lớp sừng, do các lông của ghẻ cái khi di chuyển hoặc do các chất đào thải, chuyển hóa của nó gây nên. 245
  20. Do ngứa gãi gây nên vết xước, vết trợt, sẩn vẩy, mụn mủ, mụn nước kiểu eczema, đám viêm da nhiễm trùng, nhiều khi những tổn thương thứ phát này che lấp những tổn thương đặc hiệu. Ghẻ nhiễm khuẩn có thể biến chứng gây viêm cầu thận cấp: bệnh nhân có sốt, phù chân, đái ít, nước tiểu đỏ. 3.4. Yếu tố dịch tễ: trong gia đình hoặc đơn vị có nhiều người bị bệnh tương tự như bệnh nhân (có tính lây lan trong gia đình và tập thể). 4. Chẩn đoán 4.1. Chẩn đoán quyết định dựa vào các triệu chứng sau: - Tổn thương đặc hiệu (mụn nước, đường hang) ở vị trí đặc biệt - Ngứa tăng về đêm lúc đi ngủ - Yếu tố dịch tễ - Bắt được cái ghẻ 4.2. Chẩn đoán phân biệt - Sẩn ngứa do các loại côn trùng (do ruồi vàng, bọ chét): sẩn cục ở tay chân, quanh thắt lưng, ngứa từng cơn. 246
nguon tai.lieu . vn