Xem mẫu

Phần 5.
NHỮNG TỘI ÁC CỦA TÔI: LỜI KHAI CỦA
ZHANG

• 1 •
THẨM PHÁN: Xin hãy xác nhận tên của anh là Zhang Zhe-zhong[1], sinh
ngày 10 tháng Hai năm 1966, quê quán ở Đại Ấp, thị xã Bảo Hưng, tỉnh Tứ
Xuyên, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa.
BỊ CÁO: Vâng, đúng vậy.
THẨM PHÁN: Anh hiện cư trú tại căn hộ số 404 tòa nhà Matoya số 4-5
Maruyama, quận Shibuya, Tokyo và làm việc cho khách sạn Dreamer. Có
đúng không?
BỊ CÁO: Đúng ạ.
THẨM PHÁN: Anh tuyên bố là anh không cần phiên dịch. Anh chắc chứ.
BỊ CÁO: Vâng. Tôi nói thạo tiếng Nhật. Tôi chắc chắn.
THẨM PHÁN: Rất tốt. Luật sư bên công tố viên có thể đọc cáo trạng lên
không?
CÁO TRẠNG
Vào ngày mồng một tháng Mười một, năm thứ mười hai Heisei (2000),
Văn phòng công tố Tokyo do ủy viên công tố Noro Yoshizaki đại diện đề
nghị truy tố Zhang Zhe-zhong, công dân nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Trung hoa sinh ngày 10 tháng Hai năm 1966, hiện làm việc tại một khách
sạn và cư trú tại tòa nhà Matoya, căn hộ 404, số 4-5 phố Maruyama, quận
Shibuya, Tokyo trước tòa án Tokyo với những tội danh sau:
TỘI DANH THỨ NHẤT:
Trong thời gian làm việc tại Shangri-la, một quán ăn Trung Quốc ở
Kabuki, quận Shinjuku, vào ngày 5 tháng Sáu năm 1999 bị cáo đã tới căn hộ
số 205 khu nhà Hope Heights số 5-12 Okubo, quận Shinjuku và tại đây vào

khoảng 3 giờ sáng cùng ngày, bị cáo đã dùng cả hai tay bóp cổ Yuriko Hitara
(37 tuổi) khiến nạn nhân tử vong vì ngạt thở. Sau đó bị cáo đã lấy số tiền hai
mươi nghìn yen trong ví nạn nhân và một chiếc dây chuyền vàng đeo cổ 18
ca ra (trị giá bảy mươi nghìn yen vào thời điểm đó) của nạn nhân.
TỘI DANH THỨ HAI:
Cũng chính bị cáo vào hôm 9 tháng Tư năm 2000 đã tới căn hộ số 103,
khu nhà Green Villa số 4-5 Maaryama, quận Shibuya, và vào gần nửa đêm
cùng ngày đã dùng hai tay bóp cổ Kazue Sato (39 tuổi) khiến nạn nhân tử
vong vì ngạt thở. Sau đó bị cáo đã lấy bốn mươi nghìn yen trong ví của nạn
nhân.
TỘI DANH VÀ HÌNH PHẠT
Với tội danh thứ nhất: Bị cáo bị buộc tội cướp của và giết người theo điều
240, khoản 2, Bộ Luật Hình sự.
Với tội danh thứ hai: Bị cáo bị buộc tội cướp của và giết người theo điều
240, khoản 2, Bộ Luật Hình sự.
THẨM PHÁN: Chúng ta sẽ bắt đầu phiên tòa xử hai tội danh mà công tố
viên vừa đưa ra. Nhưng trước đó, tôi sẽ tuyên bố quyền của bị cáo. Anh có
quyền giữ im lặng, và có quyền giữ im lặng trong suốt quá trình xét xử vụ
án. Khi chấp nhận trả lời một câu hỏi, anh không có nghĩa vụ phải trả lời câu
hỏi kế tiếp. Tuy nhiên nếu anh chọn trả lời thì tất cả những gì anh nói có thể
sẽ được dùng để làm bằng chứng chống lại anh nên tôi nhắc nhở anh nên
thận trọng. Sau khi nghe những điều khoản nói trên tôi muốn hỏi anh một lần
nữa, anh có bất cứ phản ứng gì đối với những tội danh mà bên công tố vừa
nêu ra hay không?
BỊ CÁO: Tôi nhận đã giết Yuriko Hirata, nhưng tôi không mưu sát Kazue
Sato.
THẨM PHÁN: Anh thừa nhận hành vị phạm tội ở tội danh thứ nhất
nhưng không phạm tội ở tội danh thứ hai?
BỊ CÁO: Đúng.
THẨM PHÁN: Thế còn những tội danh về cướp của?
BỊ CÁO: Tôi đã đánh cắp tiền và dây chuyền của cô Hirata nhưng tôi
không cướp gì của cô Sato.
THẨM PHÁN: Luật sư bào chữa nói gì?

LUẬT SƯ BÀO CHỮA: Tôi xin bảo vệ ý kiến của thân chủ.
THẨM PHÁN: Rất tốt. Xin mời bên công tố mở đầu phần tranh tụng.
BẢN LUẬN TỘI CỦA CÔNG TỐ VIÊN:
TỘI DANH THỨ NHẤT TRONG CÁO TRẠNG
Phần 1: Tiểu sử cá nhân bị cáo
Bị cáo sinh ngày 10 tháng Hai năm 1966 ở tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Trung Hoa, là con trai thứ ba của Zhang Xiao-niu[2], nông dân
(hiện 68 tuổi) và Zhang Xiu-lan[3] (hiện 61 tuổi). Bị cáo có bốn anh chị em:
anh cả, An-ji[4] (hiện 42 tuổi), anh hai Gen-de[5], một chị gái tên là Meihua[6] (hiện 40 tuổi) và một em gái tên là Mei-kun[7], qua đời năm 1992
trong một tai nạn. Bị cáo học xong tiểu học vào năm mười hai tuổi, sau đó
nghỉ học giúp đỡ gia đình làm ruộng.
Năm 1989, bị cáo quyết định rời khỏi gia đình để đi tìm việc làm tốt hơn.
Bị cáo và em gái bị cáo, Mei-kun, đi tàu tới Quảng Đông để tìm việc ở thành
phố Quảng Châu. Năm 1991, họ chuyển tới thành phố Thâm Quyến, cũng
thuộc tỉnh Quảng Đông.
Năm 1992, bị cáo và em gái bị cáo Mei-kun lên tàu ở tỉnh Phúc Kiến định
nhập cảnh trái phép vào Nhật Bản. Mei-kun đã bị chết đuối trong quá trình
vượt biển còn bị cáo đã nhập cảnh bất hợp pháp vào Nhật Bản một cách trót
lọt tại đảo Ishigaki. Không có giấy tờ hợp pháp nên bị cáo đã làm nhiều công
việc khác nhau như dọn dẹp vệ sinh và nấu bếp. Bị cáo cũng từng làm việc
trong ngành xây dựng. Vào năm 1998, bị cáo làm việc tại một quán bar ở
Shinjuku tên là Nomisuke và năm 1999 bị cáo bắt đầu làm việc tại quán
Shangri-la cũng ở Shinjuku. Tháng Bảy năm 1999, bị cáo chuyển sang làm
việc ở Dreamer, một khách sạn tình nhân ở Honmachi, Kichijoji, khu
Musashino. Bị cáo chưa từng kết hôn. Theo đăng ký hộ tịch, bị cáo ở cùng
với các cá nhân sau: Chen-yi[8], Huang và Thìn, tất cả đều quốc tịch Trung
Quốc.
Ngày 30 tháng Sáu năm 2000, bị cáo phải ra trước tòa án Tokyo vì tội
danh nhập cảnh bất hợp pháp. Bị cáo bị phạt hai năm tù cộng thêm bốn năm
án treo. (Quyết định ngày 20 tháng Bảy cùng năm.)
Phần 2: Nạn nhân Yuriko Hirata
Nạn nhân Yuriko Hirata sinh ngày 17 tháng Năm năm 1962, con gái thứ

hai của Jan Maher (quốc tịch Thụy Sĩ) hiện đang làm việc cho hãng dệt
Schmidt của Thụy Sĩ và Sachiko Hirata. Vì bố mẹ nạn nhân sống với nhau
không có hôn thú nên nạn nhân dùng cả họ bố là Maher và họ mẹ là Hirata.
Vào tháng Ba năm 1976, Hirata và bố mẹ chuyển từ Kita-Shirakawa tới
thành phố Bern ở Thụy Sĩ. Tháng Bảy năm đó, Sachiko mất tại Bern nên
Hirata đã rời khỏi nhà bố mình, một mình trở về Nhật Bản. Vì chị gái nạn
nhân lúc đó đang sống với bố của Sachiko nên Hirata ở nhà một người quen,
người Mỹ, và nhập học tại trường cấp hai hệ thống trường Q. Sau đó, Hirata
tiếp tục học lên trung học nhưng bị đuổi học vào năm thứ ba ở trường trung
học do có hành vi không đứng đắn.
Sau khi bị đuổi học, nạn nhân cũng chuyển ra khỏi nhà người quen và bắt
đầu sống một mình. Nạn nhân ký hợp đồng với một công ty người mẫu và
làm việc trong lĩnh vực mẫu quảng cáo và tạp chí cho tới năm 1985 thì
chuyển sang làm tiếp viên tại Mallord, một câu lạc bộ ở Roppongi. Vào năm
1989, nạn nhân chuyển sang làm việc cho câu lạc bộ Jeanne cũng ở
Roppongi và thay đổi nhiều công việc khác nhau kể từ đó. Trong thời gian
làm tiếp viên hộp đêm, Hirata cũng đã hành nghề mãi dâm ở Shinjuku và
Shibuya.
Phần 3: Tình huống dẫn đến tội ác
Bị cáo như đã nêu ở phần trước, lúc đó đang làm bồi bàn ở quán Shangrila, quận Shinjuku. Ngoài đồng lương chết đói, bị cáo còn bị những người
chủ gốc Phúc Kiến hắt hủi. Các nhân viên khác thì châm chọc, gọi bị cáo là
“đồ nhà quê mà cứ làm như tinh hoa phố thị” nên bị cáo cũng không có
nhiều quan hệ riêng tư với những người làm cùng.
Được biết bị cáo hay có những hành vi như ăn vụng thức ăn của khách,
đổ bia và rượu whiskey còn lại trong chai vào can nhựa mang về nhà dùng.
Bị cáo đã nhiều lần bị cảnh cáo về những hành vì thiếu đứng đắn nói trên.
Ngoài sai sót đó thì bị cáo là một người làm việc rất chăm chỉ, đúng giờ,
chưa nghỉ làm một ngày nào. Nói rằng phải gửi tiền về cho gia đình nên bị
cáo còn làm thêm một việc bán thời gian tại nhà trọ Futomomokko ở gần đó
ngay sau khi hết việc ở quán vào lúc mười giờ đêm. Công việc của bị cáo ở
nhà trọ Futomomokko là đổ rác và giặt khăn tắm. Sau khi làm xong bị cáo sẽ
chạy tới phố Kabuki để đón chuyến tàu cuối về căn hộ của bị cáo tại

Maruyama, quận Shibuya.
Tất cả các ngày trong tuần, trừ ngày thứ Tư, bị cáo làm việc tại Shangri-la
từ trưa cho tới mười giờ tối. Bị cáo được trả 800 yen cho mỗi giờ làm việc
cộng với 6.500 yen cho chi phí đi lại hằng tháng, tổng cộng mỗi tháng bị cáo
kiếm được khoảng 315.000 yen. Công việc làm thêm bán thời gian mang lại
cho bị cáo 2.000 yen cho hai giờ làm việc.
Tiền thuê căn hộ 404 ở tòa nhà Matoya lên tới 65.000 yen một tháng
nhưng bị cáo cho ba người khác là Chen-yi, Huang và Thìn ở chung và lấy
của họ mỗi người là 35.000 yen một tháng nên đã lãi ra 40.000 yen.
Bị cáo thường bảo các đồng nghiệp ở chỗ làm là bố mẹ đang xây nhà ở
quê nên bị cáo phải kiếm ra ba triệu yen để gửi cho họ. Nhưng bị cáo rất
thích dùng đồ đắt tiền và hay mặc quần áo và đồ trang sức sang trọng như
chiếc vòng tay vàng 24 ca ra và chiếc áo da trị giá 50 nghìn yen mà bị cáo
mua ở cửa hàng bách hóa Isetan.
Phần 4: Những tình tiết liên quan đến tội ác
Vào khoảng mười giờ đêm ngày 4 tháng Sáu năm 1999, trên đường tới
chỗ làm việc tại nhà trọ Futomomokko, bị cáo đi ngang qua Hirata lúc này
đang đứng trước công viên Okubo, phố Kabuki. Nạn nhân cầm một cái ô. Bị
cáo vốn biết mặt những cô gái đứng đường ở địa điểm này nhưng đây là lần
đầu tiên bị cáo nhìn thấy Hirata. Bị cáo ngay lập tức chú ý tới nạn nhân vì
nhầm tưởng nạn nhân là người Mỹ. Bị cáo vốn luôn tin rằng sẽ có ngày tới
được nước Mỹ.
“Anh có khuôn mặt đẹp,” là những lời đầu tiên Hirata nói với bị cáo. Vì
nạn nhân nói tiếng Nhật nên bị cáo nhận ra cô Hirata không phải là người
Mỹ và tỏ ra thất vọng. Tuy nhiên lời tán dương của nạn nhân khiến bị cáo
hài lòng và có ý muốn hẹn hò với nạn nhân. Nhưng vì sợ trễ giờ làm nên bị
cáo chỉ vẫy tay, mỉm cười với nạn nhân rồi chạy vội tới nhà trọ
Futomomokko. Tại đây, bị cáo tiếp tục công việc của mình như thường lệ.
Không thể nào xóa bỏ hình ảnh của Hirata ra khỏi tâm trí, nên đường về
nhà bị cáo lại đi qua công viên Okubo. Bị cáo tới công viên vào khoảng
mười hai giờ năm phút đêm và nhìn thấy nạn nhân vẫn đang đứng dưới mưa.
Khi Hirata mừng rỡ bảo bị cáo, “Tôi sắp chết cóng vì đứng đây chờ anh!”
Nghe vậy, bị cáo quyết định sẽ quan hệ với nạn nhân.

nguon tai.lieu . vn