Xem mẫu

Phần Hai
Tôi đã đến nơi đâu và đang ở _giữa hạng người nào? Cuộc phiêu lưu khắc _nghiệt
nào mà tôi đang dấn thân vào? Tôi dụi _mắt, tự véo bản thân để xem mình đang tỉnh hay
mê. _Đối với tôi, tất cả chuyện này dường như chỉ là một cơn _ác mộng kinh hoàng, tôi
ước gì sẽ chợt tỉnh và thấy mình vẫn đang ở nhà, với ánh nắng ban mai đang len qua cửa
sổ, như đôi khi tôi vẫn thấy vào buổi bình minh sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng thịt
da tôi có phản ứng với cái _nhói đau của cú véo thử nghiệm ấy, và đôi mắt tôi _chẳng thể
bị đánh lừa. Tôi thật sự vẫn đang còn _tỉnh và đang ở giữa vùng rừng núi Carpates. _Tất
cả những gì tôi có thể làm lúc này _là kiên nhẫn chờ bình minh đến.
- Bram Stocker, Dracula, 1897

Chương 26
Barley giận dữ. Tôi không thể trách anh ấy, nhưng rõ ràng đây là một trong những sự
kiện bất lợi nhất đối với tôi, và tôi cũng cảm thấy hơi bực bội. Tôi càng giận dữ hơn bởi
tiếp theo cơn khó chịu ban đầu là một cảm giác nhẹ nhõm thầm kín dâng trào; trước khi
nhìn thấy anh, tôi đã không nhận ra mình hoàn toàn cô đơn trên chuyến tàu này, lao tới
những gì chưa biết, có lẽ là vào một nỗi cô đơn lớn lao hơn vì không thể tìm được cha,
hoặc thậm chí vào nỗi cô đơn vĩnh hằng vì phải mất cha mãi mãi. Vài ngày trước đây, với
tôi Barley chỉ là một người xa lạ nhưng giờ đây anh đã trở thành một gương mặt thân
thuộc.
Tuy nhiên, vào lúc này gương mặt đó vẫn còn cau có. “Em nghĩ mình đang đến nơi
quái quỷ nào vậy? Em vừa tặng cho anh một cuộc đuổi bắt thú vị đấy - mà dù sao chăng
nữa, em đang làm quái gì vậy?”
Lúc đó, tôi cố lẩn tránh câu hỏi cuối cùng. “Em không có ý làm anh lo lắng, Barley.
Em cứ tưởng anh đã ra bến phà và sẽ không bao giờ biết chuyện này.”
“Phải, anh vội vã quay về báo cho thầy James biết em đã an toàn về đến Amsterdam
rồi liền nhận được tin em đã biến mất. Ồ, lúc đó chắc hẳn anh sẽ được thầy khen ngợi lắm
đấy.” Anh ngồi phịch xuống bên cạnh tôi, khoanh tay lại, vắt đôi chân dài ngoằng lên
nhau. Anh xách theo chiếc va li nhỏ, mớ tóc màu vàng rơm phía trước đầu dựng ngược
lên. “Em nghĩ gì mà làm thế vậy?”
“Tại sao anh lại theo dõi em?” tôi vặn lại.
“Chuyến phà sáng nay bị hoãn lại để sửa chữa.” Lúc này, dường như anh không thể
nhịn được cười. “Anh đói quá sức, vì vậy đã quay lại để kiếm vài ổ bánh và uống chút trà,
khi ấy anh thấy em rẽ sang hướng khác, đi ngược lên, nhưng vẫn không chắc chắn lắm.
Em biết đấy, anh đã nghĩ chắc mình chỉ đang tưởng tượng thôi, nên vẫn yên trí đứng đó
mua bữa điểm tâm cho mình. Sau đó lương tâm anh chợt cắn rứt, vì nếu đó là em thì anh
sẽ gặp rắc rối to. Vì vậy anh vội vã đi theo con đường đó và thấy nhà ga, sau đó khi thấy
em lên tàu, anh tưởng mình sắp lên cơn đau tim.” Anh lại nhìn tôi chằm chằm. “Em quả
đã gây quá nhiều phiền phức cho anh sáng hôm nay. Anh phải vội chạy đi mua vé tàu anh hầu như không đủ tiền Hà Lan để mua vé - và đã lùng tìm em khắp nơi trên đoàn tàu
này. Và giờ chúng ta đã đi quá xa để có thể xuống tàu ngay.” Anh nheo mắt nhìn ra cửa sổ,
sau đó nhìn vào mớ bì thư trên đùi tôi. “Em sẽ giải thích cho anh biết tại sao em lại ở trên
chuyến tàu tốc hành đi Paris này thay vì đến trường chứ?”
Tôi có thể làm gì đây? “Em xin lỗi, anh Barley,” tôi rụt rè nói. “Em không có ý định
lôi anh vào chuyện này chút nào. Thực sự em cứ tưởng anh đã lên đường về nhà lâu rồi và
có thể yên tâm đến gặp thầy James. Em đâu muốn gây rắc rối cho anh.”
“Vậy à?” Rõ ràng anh đang chờ đợi câu trả lời sáng tỏ hơn. “Nghĩa là em chỉ có chút
ham muốn đến Paris thay vì vào lớp học lịch sử thôi sao?”
“À thì,” tôi bắt đầu tìm cách câu giờ. “Cha em đã gửi cho em một bức điện tín nói rằng
ông ổn và em phải đến đó ở cùng ông vài ngày.”

Barley im lặng một lúc. “Xin lỗi nhé, nhưng việc đó không giải thích được mọi
chuyện. Nếu em nhận được điện tín, có lẽ nó đã đến vào tối hôm qua nhưng anh đâu có
nghe nói gì về bức điện đó. Và đâu có câu hỏi nào về việc cha em không được ‘ổn’ đâu
nào? Anh nghĩ ông chỉ đi xa vì công việc. Em đang đọc cái gì vậy?”
“Đây là một câu chuyện dài,” tôi thủng thẳng trả lời, “và em biết anh đang nghĩ em rất
kỳ quặc…”
“Quá sức kỳ quặc,” Barley gắt gỏng đáp lại. “Nhưng tốt hơn em nên nói cho anh biết
em định làm chuyện gì. Chúng ta chỉ có quãng thời gian trước khi xuống tàu tại Brussels
rồi bắt chuyến tàu tiếp trở về Amsterdam.”
“Không!” Tôi không có ý định hét to lên như vậy. Người phụ nữ đối diện chúng tôi
chợt cựa mình trong giấc ngủ êm ái, tôi trầm giọng lại. “Em phải đi tiếp đến Paris. Em ổn
mà. Anh có thể xuống tàu ở đó, nếu anh muốn, sau đó quay trở về Luân Đôn tối nay.”
“Hả, ‘xuống ở đó’? Ý em là em sẽ không xuống đó? Chuyến tàu này còn đi đến nơi
nào khác nữa?”
“Không, nó sẽ dừng ở Paris…”
Anh lại khoanh tay và chờ đợi. Anh còn tệ hơn cả cha tôi. Có khi anh còn tệ hơn cả
giáo sư Rossi nữa. Tôi thoáng hình dung ra cảnh Barley đang đứng lớp, hai tay khoanh lại,
quắc mắt nhìn đám sinh viên không may của anh, giọng sắc lẹm: “Thế cuối cùng chuyện
gì đã dẫn Milton đến cái kết luận khủng khiếp của ông ta về việc Xa tăng bị tống khỏi
thiên đường? Không ai chịu đọc sách hay sao?”
Tôi nuốt nước bọt. “Đây là một câu chuyện dài.” Tôi lặp lại, giọng nghe càng lí nhí
hơn.
“Chúng ta có đủ thời gian đấy,” Barley nói.
“Helen và Turgut và cha ngồi quanh chiếc bàn nhỏ trong quán ăn, đưa mắt nhìn nhau,
và cha cảm nhận một tín hiệu thân thiện đang xuất hiện giữa chúng ta. Có lẽ để trì hoãn
thêm chốc lát, Helen cầm viên đá xanh tròn mà Turgut đã đặt cạnh bên đĩa thức ăn của cô
lên rồi chìa nó ra cho cha. ‘Đây là một biểu tượng cổ xưa,’ cô nói. ‘Đây là một cái bùa
chống lại Con Mắt Quỷ.’ Cha cầm lấy, cảm nhận hòn đá trơn phẳng, nặng, còn vương hơi
ấm bàn tay cô, rồi lại đặt nó lại xuống bàn.
“Tuy nhiên Turgut vẫn tỉnh táo. ‘Thưa cô, cô là người Rumani?’ Cô im lặng. ‘Nếu
đúng vậy thì cô phải cẩn thận hơn ở nơi này.’ Ông ta nhỏ giọng lại một chút. ‘Cảnh sát có
thể sẽ khá quan tâm đến cô. Đất nước tôi không được thân thiện với Rumani lắm.’
“ ‘Tôi biết,’ cô lạnh lùng đáp lại.
“ ‘Nhưng vì sao ả Gypsy ấy biết được điều này nhỉ?’ Turgut cau mày. ‘Cô đâu có nói
gì với ả?’
“ ‘Tôi không biết.’ Helen nhún vai, tỏ vẻ không hiểu nổi.
“Turgut lắc đầu. ‘Vài người cho rằng người Gypsy có biệt tài xem tướng. Tôi không
bao giờ tin việc này, nhưng…’ Ông ta dừng lại giữa câu và dùng khăn ăn chấm chấm bộ
ria. ‘Chuyện cô ta nói về ma cà rồng mới đúng là kỳ quặc.’
“ ‘Thật vậy à?’ Helen đốp chát. “Chắc hẳn ả điên rồi. Dân Gypsy đều là lũ khùng

điên.’
“ ‘Có thể, có thể.’ Turgut im lặng. ‘Tuy nhiên, đối với tôi, việc này rất kỳ lạ, cách cô ả
nói, vì đó cũng là lĩnh vực chuyên môn của tôi.’
“ ‘Về dân Gypsy à?’ cha hỏi.
“ ‘Không, anh bạn ạ - về ma cà rồng.’ Helen và cha nhìn ông ta đăm đăm nhưng thận
trọng tránh nhìn vào mắt nhau. ‘Shakespeare là sự nghiệp của đời tôi, nhưng truyền thuyết
về ma cà rồng là thú tiêu khiển của tôi. Ở đây, chúng tôi có một truyền thuyết cổ xưa nói
về ma cà rồng.’
“ ‘Đó là… à… một truyền thuyết Thổ Nhĩ Kỳ sao?’ cha kinh ngạc thốt lên.
“ ‘Ồ, truyền thuyết ấy đã lan truyền ít nhất là đến tận Ai Cập, các bạn đồng nghiệp
thân mến ạ. Nhưng ở đây, tại Istanbul, có một câu chuyện cho rằng những bạo chúa khát
máu nhất của đế chế Byzantine đều là ma cà rồng, một số trong bọn họ hiểu cộng đồng
Thiên Chúa giáo là nguồn máu người trần mời gọi để uống. Nhưng tôi không tin chuyện
này. Tôi tin về sau nó mới xuất hiện.’
“ ‘Ừm…’ cha không muốn để lộ sự quan tâm sâu sắc, vì sợ Helen sẽ lại đạp lên chân
cha dưới bàn hơn sợ bất kỳ niềm tin nào rằng Turgut có thể mang trong mình quyền lực
của bóng tối. Nhưng cô cũng đang chăm chú nhìn Turgut. ‘Vậy còn truyền thuyết về
Dracula thì sao? Ông đã nghe nói về truyền thuyết đó chứ?’
“ ‘Nghe nói à?’ Turgut khịt mũi, vặn xoắn chiếc khăn ăn, đôi mắt đen nhánh ngời lên.
‘Cô biết Dracula là một con người có thật, một nhân vật lịch sử chứ? Một đồng bào của
cô, thật vậy, thưa cô…’ Ông cúi người xuống chào Helen. ‘Hắn là một lãnh chúa, một
voivoda, tại miền Tây Carpates vào thế kỷ mười lăm. Các bạn biết đấy, hắn chẳng phải là
một người đáng ngưỡng mộ gì đâu.’
“Helen và cha gật đầu - chúng ta không thể làm gì khác. Ít ra thì cha cũng không thể,
còn cô thì hình như đã quá chăm chú vào những lời nói của Turgut để có thể tự kiềm chế.
Cô hơi chồm tới trước lắng nghe, đôi mắt đen cũng sáng rực một màu đen láy như ông ta.
Làn da xanh xao thường lệ bây giờ đã điểm chút sắc hồng. Dù đang giữa cơn khích động
cha vẫn nhận ra đây là một trong những khoảnh khắc mà vẻ đẹp ngời sáng từ nội tâm của
cô đột ngột xuất hiện và phủ lấp đi nét mặt vốn khá cay nghiệt thường ngày.
“ ‘Chà…’ Turgut có vẻ phấn khích với đề tài này. ‘Tôi không có ý định làm cô thấy
chán, nhưng có giả thuyết Dracula là một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Istanbul.
Người ta biết rằng khi còn là một cậu bé, hắn đã bị Quốc vương Mehmed II cầm giữ tại
Gallipoli, rồi sau đó là xa hơn về phía Đông, tại Anatolia - cha hắn đã trao hắn cho cha của
Mehmed, Quốc vương Murad II, làm con tin cho hòa ước từ năm 1442 đến 1448, sáu năm
dài đằng đẵng. Cha của Darcula cũng không phải là một quý ông tốt đẹp gì.’ Turgut cười
khùng khục. ‘Bọn lính canh giữ cậu bé Dracula là những bậc thầy về nghệ thuật tra tấn, và
hẳn hắn đã học được nhiều hơn cần thiết trong khi quan sát chúng. Nhưng các anh ạ’ trong một khoảnh khắc nhiệt huyết thuyết giảng, có vẻ như ông ta đã quên phắt giới tính
của Helen - ‘tôi có giả thuyết của riêng mình là hắn cũng để lại dấu ấn của hắn lên bọn
lính.’
“ ‘Ý ông là quái gì vậy?’ Hơi thở cha đã trở nên hổn hển.

“ ‘Kể từ khoảng thời gian đó đã có ghi nhận về hiện tượng ma cà rồng ở Istanbul.
Quan điểm của tôi - và than ôi, nó vẫn chưa được công bố mà tôi cũng không thể chứng
minh được nó - là những nạn nhân đầu tiên của hắn nằm trong số những người Ottoman,
có thể là những lính gác đã trở thành bạn của hắn. Tôi cho rằng hắn đã để lại trong đế
quốc của chúng tôi mầm truyền nhiễm, sau đó mầm nhiễm này hẳn đã truyền vào
Constantinople cùng với Người Chinh phục.(1)’
“Chúng ta nhìn ông ta chằm chằm, không nói được lời nào. Cha chợt nhớ lại, theo
truyền thuyết, chỉ có người chết mới trở thành ma cà rồng. Việc này phải chăng có nghĩa
là Vlad Dracula thực sự đã bị giết tại vùng Tiểu Á và sau đó trở thành ma cà rồng lúc còn
là một thanh niên rất trẻ, hay đơn giản là từ rất nhỏ hắn đã có sở thích bệnh hoạn là uống
máu người và truyền cái cảm hứng đó sang người khác? Cha xếp thắc mắc này vào loại sẽ
chỉ được nêu ra với Turgut sau này, khi đã biết nhiều hơn về ông ta. ‘Ồ, các bạn biết đấy,
đây là sở thích kỳ lạ của tôi.’ Turgut lại nở một nụ cười đôn hậu. ‘Chà, thứ lỗi cho tôi đã
quá nhiều chuyện. Vợ tôi thường bảo tôi đúng là kẻ hết chịu nổi.’ Trước khi nhấp thêm
một ngụm nước, ông ta lại nâng cốc chúc mừng bọn ta, cử chỉ nhã nhặn, tinh tế. ‘Nhưng,
trời ơi, tôi có một bằng chứng! Tôi có bằng chứng là các Quốc vương Hồi giáo sợ hắn
chẳng khác gì sợ ma cà rồng!’ Ông chỉ tay lên trần nhà.
“ ‘Bằng chứng à?’ cha lặp lại.
“ ‘Phải! Tôi đã phát hiện ra bằng chứng này vài năm về trước. Quốc vương Mehmed
quan tâm tới Vlad Dracula đến mức đã thu thập một số tài liệu và những vật gì hắn từng
sở hữu ở nơi này sau khi hắn chết tại Wallachia. Dracula từng tiêu diệt nhiều binh lính Thổ
tại xứ sở hắn, và vì vậy Quốc vương chúng tôi rất căm hận hắn, nhưng đó không phải là lý
do khiến ông lập ra kho lưu trữ này. Không! Vào năm 1478, thậm chí Quốc vương đã viết
một lá thư cho tổng trấn Wallachia, hỏi xin ông này bất cứ tài liệu nào về Vlad Dracula mà
ông ta biết được. Tại sao ư? Vì theo như ông ta nói, ông ta đang lập một thư viện chống lại
cái xấu xa mà Dracula đã gieo rắc trong thành phố của ông ta sau khi hắn chết. Các bạn
thấy đó - tại sao Quốc vương Mehmed vẫn sợ sau khi Dracula đã chết nếu không tin hắn
có thể quay trở lại? Tôi đã tìm được bản sao lá thư mà vị tổng trấn phúc đáp cho Quốc
vương.’ Ông ta đấm tay xuống mặt bàn và mỉm cười với bọn ta. ‘Thậm chí tôi đã tìm được
thư viện mà ông ta đã lập ra để chống lại cái ác ấy.’
“Helen và cha ngồi lặng yên. Sự trùng hợp kỳ lạ đến mức hầu như không thể tin nổi.
Cuối cùng cha đánh bạo nêu ra một câu hỏi. ‘Thưa giáo sư, bộ sưu tập này có chắc là do
Quốc vương Mehmed II lập ra không?’
“Lần này ông ta lại chằm chằm nhìn bọn ta. ‘Ui chà, anh đúng là một sử gia tài giỏi.
Anh quan tâm đến giai đoạn lịch sử này của chúng tôi à?’
“ ‘À - rất quan tâm,’ cha đáp. ‘Và chúng tôi - tôi rất mong muốn được xem tài liệu mà
ông đã tìm được.’
“ ‘Lẽ dĩ nhiên,’ ông ta thốt lên. ‘Rất sẵn lòng. Tôi sẽ cho các bạn xem. Hẳn vợ tôi sẽ
phải kinh ngạc lắm khi thấy có người muốn xem nó.’ Ông ta khúc khích cười. ‘Nhưng,
than ôi, tám năm trước đây, tòa nhà xinh đẹp từng lưu giữ tư liệu đó đã bị phá hủy để
nhường chỗ xây dựng văn phòng Bộ Giao thông Công chính. Đó là một tòa nhà nhỏ xinh
xắn gần Thánh đường Xanh. Thật đáng tiếc.’
“Cha có cảm giác như mặt mình không còn chút máu. Hóa ra đó là nguyên nhân vì sao

nguon tai.lieu . vn