Xem mẫu

Những đồng sự mùa đông








Bác sĩ Watson là mẫu người giám đốc dám nghĩ dám làm ở bệnh viện tâm thần. Anh
mơ đến việc tạo tên tuổi cho mình, viết bài chuyên môn và rồi được mời trình bày ở những
hội nghị chuyên đề, nơi có nhiều phụ nữ mến mộ anh vây quanh. Tuy nhiên, tạm thời,
những phụ nữ duy nhất gần anh đã mất trí không ít thì nhiều, và trong số này anh đã chọn
tôi để giết thời giờ trong khi chờ đến ngày anh đủ nổi tiếng để ra đi.


Tôi ở trong bệnh viện tâm thần được ít tháng thì anh đến, và suốt thời gian này
người ta râm ran đồn đại về vị giám đốc mới. Cuộc sống trong bệnh viện tâm thần nói
chung là vô cùng chán ngán, nên bất kỳ thay đổi nào cũng là đầu đề cho mọi người tranh
luận sôi nổi, như là việc thay đổi món cháo yến mạch trong bữa ăn sáng, hoặc việc dời giờ
may vá từ ba đến bốn giờ chiều. Vì thế mà vị giám đốc mới là biến cố quan trọng, thổi
ngọn lửa cho các cuộc đồn đại và suy đoán kéo dài nhiều tuần. Và khi anh đến, người ta
không lấy làm thất vọng. Trẻ trung và đẹp trai, anh có khuôn mặt tươi sáng, hiền hòa và
giọng nói cao trầm dễ nghe. Chỉ trong vòng nửa tháng, tất cả phụ nữ đều đem lòng yêu
anh. Tôi phải nói mình không phải là hờ hững hoàn toàn, nhưng quả là buồn cười khi thấy
một số phụ nữ tự làm đẹp cho mình bằng mấy dải ruy băng và hoa lá cành để mong thu
hút sự chú ý của anh. Watson lúc nào cũng tỏ ra nịnh đầm và có sức quyến rũ, thích cầm
lấy tay họ mà tỏ lời khen ngợi, khiến cho họ cười khúc khích và đỏ bừng mặt. Mùa hè
năm ấy, các phòng ngủ của phụ nữ đều vang tiếng thở dài trong đêm.


Vì tôi không thích trò tôn thờ thần tượng, thế nên tôi ngạc nhiên khi được gọi đến
văn phòng của Watson và thắc mắc liệu mình đã làm gì sai trái. Tôi thấy anh đang cúi
mình trên một chiếc máy trông kỳ lạ đặt ở giữa phòng. Lập tức tôi đoán đấy là một chiếc
máy đặt giữa các ống nước vòi tắm hoa sen, được thiết kế để tạo cho bệnh nhân tâm thần
một cảm giác mạnh nào đấy, nhưng tôi không rõ chi tiết nó vận hành như thế nào, và cảm
thấy khá lo lắng.


[40]
Watson nhìn lên và mỉm cười: “À, chào Cô Hay
.” Anh trông rất lấy làm vui với
chính mình. Thật ra, tôi lại kinh ngạc hơn do sự thay đổi trong căn phòng, vì với người
tiền nhiệm thì căn phòng tối tăm và trông buồn thảm, lại có mùi hơi khó chịu. Đấy là một
căn phòng đẹp (cả bệnh viện tâm thần gây ấn tượng tốt với cung cách tân cổ điển); trần
cao, với cửa sổ vòm rộng nhìn ra sân vườn. Watson đã cho lấy đi các tấm màn nặng nề
treo từ các cửa sổ, và bây giờ ánh sáng từ hướng nam tràn ngập. Các bức tường được sơn
màu hồng nhạt, có hoa đặt trên bàn, và đá cùng dương xỉ được xếp đặt một cách nên thơ
dọc một chân tường.





Tôi nói mà không thể ngăn nụ cười: “Xin chào.”
“Cô thích văn phòng của tôi không?”
“Vâng, rất thích.”



“Tốt. Sở thích của cô giống tôi. Tôi nghĩ điều quan trọng là làm cho khung cảnh của
mình trông hấp dẫn. Nếu con người sống trong cảnh xấu xí thì làm thế nào họ được hạnh
phúc?”


Tôi nghĩ anh không nghiêm túc hoàn toàn, và lí nhí lời lẽ gì đấy vô nghĩa, nghĩ rằng
anh may mắn mà có quyền thay đổi khung cảnh cho hợp với sở thích của mình.


Anh tiếp: “Dĩ nhiên là căn phòng càng trở nên hấp dẫn hơn khi có cô ở đây.”



Dù đã biết cung cách của anh, tôi vẫn cảm thấy hơi đỏ mặt, nhưng cố giấu diếm
bằng cách nhìn những bệnh nhân khác qua khung cửa sổ, lúc này đang đi dạo hoặc đang bị
nhân viên lôi tuột đi.


Chúng tôi vẩn vơ trò chuyện một lúc, và tôi đoán anh đang cố tìm hiểu tình trạng
yếu đuối tinh thần của tôi và liệu tôi có xu hướng lên cơn bạo lực hay không. Xem dường
anh hài lòng với những gì tôi nói, bởi vì anh bắt đầu giảng giải về chiếc máy. Về cơ bản
đấy là một chiếc hộp để tạo ra hình ảnh, và anh nói mình muốn nghiên cứu bệnh nhân.
Anh nghĩ việc này sẽ giúp tìm hiểu thêm về bệnh tâm thần và cách chữa trị, cho dù tôi
không hề hiểu rõ làm thế nào đạt kết quả này.


Đặc biệt là hình như anh muốn tạo ra hình ảnh của tôi: “Cô có gương mặt rất thích
hợp cho máy chụp ảnh, sáng sủa và diễn cảm, đấy chính là điều cần thiết.”


Tôi lấy làm vui với ý nghĩ là anh đã đặc biệt chú ý đến mình, và như thế là sự thay
đổi hay hay so với các công việc hàng ngày. Như tôi đã nói, cuộc sống trong bệnh viện
tâm thần là cực kỳ tẻ nhạt, ngoại trừ các cơn co giật kỳ lạ hoặc hành động muốn tự tử.


Đôi mắt nhìn xuống bàn, anh giải thích: “Điều tôi đang suy nghĩ là một loạt những
nghiên cứu về, à… cô, trong những tư thế biểu trưng cho vài điều kiện tinh thần. À, lấy ví
[41]
dụ… có triệu chứng mà chúng tôi gọi là mặc cảm Ophelia
, được gọi theo tên của một
nhân vật bị ảnh hưởng, trong một vở kịch nổi tiếng…” Anh nhìn tôi để xem tôi có hiểu
không.



Tôi nói: “Tôi biết câu chuyện này.”

“À, tốt lắm… Thế thì… cô xem, một minh họa cho triệu chứng này sẽ là… tư thế
đau khổ, với một vòng hoa trên đầu và đại khái như thế. Cô hiểu ý tôi nói chứ?”


“Tôi nghĩ tôi hiểu.”



“Việc này sẽ giúp ích cho tôi rất nhiều với một bài chuyên môn tôi đang viết. Các
bức ảnh sẽ minh họa tiền đề của tôi, đặc biệt đối với những người chưa bao giờ bước chân
đến một bệnh viện tâm thần và thấy khó mà mường tượng được.”


Tôi gật đầu một cách lễ độ, và khi anh không nói rõ thêm, tôi hỏi: “Tiền đề của anh
là gì?”


Anh có vẻ hơi ngạc nhiên: “À. Tiền đề của tôi là, à… rằng có một số mẫu hình đối
với bệnh tâm thần; một số dáng vẻ và hoạt động thể chất thường diễn ra đối với những
mẫu hình khác nhau, để chỉ ra tình trạng tâm thần của họ. Rằng, tuy mỗi bệnh nhân có tiền
sử riêng, họ đều ở trong những nhóm có chung các đặc điểm và dáng vẻ. Và rằng…” anh
ngưng lại, hiển nhiên là đang suy tư, “… qua việc nghiên cứu lặp đi lặp lại và tập trung,
chúng ta có thể khám phá thêm nhiều cách để chữa trị cho những người vô phúc tội
nghiệp này.”


“À.” Tôi nói mà tự hỏi mình - là một trong những người vô phúc ấy - có những dáng
vẻ gì đặc biệt hay không. Có vài hình ảnh không phù hợp tự hiện ra.


Anh nói tiếp: “Và cô có thể vui lòng dành cho tôi chút thời giờ để ăn trưa cùng với
tôi trong mấy ngày này, được không?”


Chỉ nghĩ đến việc này là tôi đã phát thèm. Thức ăn trong bệnh viện tâm thần thì đủ
bổ dưỡng nhưng nhạt nhẽo, khó nuốt và nhàm chán. Tôi nghĩ có một giả thuyết (có lẽ
thậm chí là một tiền đề) cho rằng một vài hương vị có tính kích thích nguy hiểm, nói ví dụ
quá nhiều thịt hoặc quá nhiều mỡ hoặc quá cay sẽ làm dấy lên tính mẫn cảm tinh tế, gây ra
náo động. Tôi đã thấy vui vì được làm người mẫu, nhưng chỉ sự hứa hẹn về thức ăn hợp
khẩu vị cũng đủ làm cho tôi xiêu lòng.


“Thế thì,” anh mỉm cười, và tôi nhận ra anh thật sự bồn chồn, “cô chấp nhận việc
này không?”


Tôi cảm thấy băn khoăn vì anh bồn chồn - đối với tôi? Hoặc đối với điều khả dĩ là
tôi sẽ từ chối? Rồi tôi gật đầu. Có lẽ trọn đời tôi chẳng bao giờ hiểu được làm thế nào xuất
hiện trong các bức ảnh với vòng hoa trên đầu sẽ chữa được bệnh tâm thần, nhưng tôi là ai
mà lại từ chối?


Hơn nữa, anh là người đẹp trai, tử tế và trẻ trung, trong khi tôi là đứa con gái mồ côi

trong một bệnh viện tâm thần không có người bảo hộ và không thấy có triển vọng sẽ được
xuất viện. Tuy tình huống này có khác thường đến đâu thì cuộc đời tôi vẫn không thể nào
tệ hại hơn được nữa.


Chuyện diễn ra như thế. Khởi đầu, tôi đến văn phòng anh khoảng một hoặc hai lần
mỗi tháng. Watson thu thập một số kiểu trang phục và cùng các món trang trí để tạo ra
khung cảnh. Anh bắt đầu với khung cảnh được gọi là u uất, mà tôi cảm thấy mình rất phù
hợp để diễn tả. Anh sắp đặt một chiếc ghế bên khung cửa sổ, rồi tôi ngồi với một bộ áo
màu ảm đạm, tay cầm một quyển sách và nhìn xa xăm ra ngoài như thể - theo cách anh nói
- tôi đang mơ đến người yêu đã mất. Đáng lẽ tôi có thể nói với anh rằng trong đời còn có
những nỗi khổ tồi tệ hơn là mất người yêu, nhưng tôi giữ mồm giữ miệng mà nhìn ra
ngoài khung cửa sổ, lại mơ đến các món thịt rừng nấu rượu poóc-tô, cà ri gà, và nấm
[42]
trifle
nấu với nhục đậu khấu.


Bữa ăn trưa có các món ngon lành như tôi đã tưởng tượng ra. Tôi lo lắng vì mình ăn
uống với tất cả vẻ thanh nhã của một nông nô, và anh mỉm cười nhìn tôi khi tôi xúc miếng
bánh nhân đào và quế lần thứ hai và thứ ba. Tôi ăn đến căng bụng, không phải vì thiếu
chất trầm trọng, mà chỉ vì từ lâu đã không được ăn ngon, ăn món cay nồng và ngọt dịu.
Lần đầu tiên trong bốn năm (trừ dịp Giáng sinh) được nếm lại các món nhiều gia vị cùng
phó mát xanh cùng rượu vang quả là thần tiên. Tôi đã nói như thế, và anh cười lớn, và có
vẻ rất vui. Khi anh tiễn tôi ra cửa văn phòng, anh nắm lấy hai tay tôi và nhìn sâu vào mắt
tôi mà thốt lời cảm ơn.


Như tôi đã đoán trước, tôi được gọi đến văn phòng anh thường xuyên hơn, và khi
chúng tôi đã quen biết với nhau hơn thì việc ngồi làm mẫu cũng kém nghiêm túc. Ý tôi nói
là dần dà tôi ăn mặc ít đi, rồi đến lúc tôi ngả người dựa vào đám dương xỉ với một tấm vải
muxơlin mỏng quấn quanh. Tôi nghĩ rằng còn quá sớm để từ bỏ việc giả vờ đóng góp vào
tiến bộ của y khoa. Watson - hoặc Paul theo tên bây giờ tôi gọi anh - tiến hành các nghiên
cứu theo ý anh thích, đôi lúc tỏ vẻ như có lỗi, mắt chớp chớp quay đi để tránh ánh mắt tôi
như thể anh bối rối khi yêu cầu tôi làm những việc như thế.


Anh tỏ ra tử tế và chín chắn, quan tâm đến ý kiến của tôi, trong khi nhiều người đàn
anh quen biết tôi bên ngoài bệnh viện tâm thần đã không quan tâm như thế. Tôi mến anh,
rồi một ngày lúc dùng bữa xong, tôi cảm thấy hạnh phúc khi anh nắm lấy bàn tay tôi, run
rẩy. Anh dịu dàng, khát khao, tỏ ra sợ hãi vì sai trái, và mỗi lần chúng tôi gặp nhau anh
đều ngỏ ý xin lỗi vì đã tuân theo bản năng của anh mà lợi dụng tôi. Tôi không hề bận tâm.
Đối với tôi, đấy là một bí mật tràn đầy xúc cảm, một nỗi khao khát ngọt ngào, cho dù anh
luôn bồn chồn và hoảng hốt khi chúng tôi thành thân với nhau, một cách vội vã, sau một
bữa ăn trưa thịnh soạn, trong văn phòng khóa kín cửa.


Và anh tỏa mùi nhà kính, mùi lá cà chua và đất ẩm, mà tôi thấy nồng nồng và thỏa
mãn. Cho đến bây giờ, mỗi khi nhớ về mùi hương ấy là tôi nghĩ đến bánh nhân trái cây
với kem hoặc bít tết trong rượu cô-nhắc. Thậm chí một đêm nọ, nhiều năm sau, trong căn

lều lạnh lẽo giữa rừng, khi tôi ngửi mùi hương ấy từ Parker tôi lại nhớ đến món bánh sô cô
la đăng đắng.


Tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ biết được chuyện gì đã xảy ra. Vì lý do nào đấy,
Watson bị thất thế. Theo tôi được biết thì không phải là do tôi, chắc chắn là không ai nói
ra gì cả, nhưng một buổi sáng y tá trưởng thông báo Bác sĩ Watson phải ra đi thình lình, và
trong vòng ít ngày sẽ có người thay thế. Một ngày anh còn ở đấy, ngày kế đã ra đi. Hẳn
anh đã mang theo chiếc máy cùng các tấm hình. Một vài tấm trông đẹp; những bóng màu
tối trên nền kính, tỏa ánh lung linh như bạc khi tôi nghiêng ra phía có ánh sáng. Khi cảm
thấy u uất - thường khi như thế bây giờ - tôi tự nhắc nhở rằng anh đã run rẩy khi chạm đến
tôi; rằng có thời tôi đã là niềm hứng khởi cho ai đó.






Chúng tôi đã đi băng qua vùng bình nguyên trong ba ngày mà không thấy quang
cảnh thay đổi gì cả. Cơn mưa kéo dài trong hai ngày làm lớp tuyết tan chảy, khiến cho
bước đi trở nên khó khăn. Bùn ngập đến mắt cá chân, và nếu nói như thế nghe ra chẳng có
gì nhiều thì tôi phải nhấn mạnh là khá tồi tệ. Mỗi bước chân bị dính theo hàng cân bùn đất,
còn chiếc váy của tôi trĩu nặng vì thấm nước. Vì không bị nặng nề với váy như phụ nữ
Parker và Moody đi trước cùng với chiếc xe trượt tuyết.


Mưa tạnh vào cuối ngày thứ hai, và khi tôi vừa thầm cảm ơn bất kỳ đấng linh thiêng
nào còn phù hộ cho mình, thì một đợt gió bắt đầu và vẫn thổi mãi từ lúc ấy. Gió làm cho
mặt đất khô lại và việc đi đứng được dễ dàng hơn, nhưng nó thổi từ hướng đông-bắc nên
rất lạnh, đến nỗi tôi kinh qua một hiện tượng mà trước đây mình chỉ nghe nói, đấy là nước
mắt đóng băng ở khóe mắt. Sau một tiếng đồng hồ, mắt tôi đã đỏ nhừ.


Bây giờ Parker và hai con chó dừng lại để chờ cho tôi theo kịp. Ông đứng trên một
gò nhô lên một tí, và khi chúng tôi loạng choạng bước đến bên ông, tôi thấy tại sao ông
đứng đợi: cách vài trăm mét phía trước là cụm tòa nhà - vật thể đầu tiên do con người xây
nên mà chúng tôi trông thấy kể từ lúc rời Himmelvanger.


“Chúng ta đi theo đúng con đường,” Parker nói, tuy rằng “con đường” là từ ngữ mà
tôi thấy không đúng.


Moody đang nhìn qua đôi tròng kính: “Đó là nơi chốn nào vậy?” Thị lực của anh
kém cỏi, càng kém thêm vì ánh sáng xám lờ mờ xuyên qua trần mây.



“Đó là một thương điếm trước kia.”

Từ đây, tôi nhìn thấy có điều gì đấy không ổn; nó có tính sát khí của một tòa nhà
trong cơn ác mộng.

nguon tai.lieu . vn