Xem mẫu

CHƯƠNG 20

Bản Tuyên ngôn Độc lập được đóng đinh ở bức tường phía sau ông ta.
Saddam tiếp tục hút xì gà trong lúc ông ngửa người vào lưng ghế. Tất cả mọi
người ngồi chung quanh bàn, chờ ông ta lên tiếng. Ông liếc mắt sang phải.
— Em trai của tôi, chúng tôi tự hào về cậu. Cậu đã phục vụ đất nước
chúng ta và đảng Baath với lòng danh dự, và khi tới lúc nhân dân ta được
thông báo về những hành động dũng cảm của cậu, tên tuổi cậu sẽ được ghi
vào lịch sử của đất nước chúng ta với tư cách một trong những vị anh hùng
vĩ đại.
Al Obaydi ngồi ở đầu bàn đằng kia, lắng nghe những lời nói của vị lãnh
tụ. Hai nắm tay của ông ta giấu bên dưới bàn, siết chặt lại để tự ngăn chặn
cơn run. Mấy lần trên đường trở về Baghdad, ông ta biết mình bị theo dõi.
Họ đã lục soát hành lý của ông ta hầu như ở từng chặng, nhưng họ đã không
tìm thấy gì, bởi vì không có gì để tìm. Ông em cùng mẹ khác cha của
Saddam đã bảo đảm điều đó. Sau khi Bản tuyên ngôn đã đến nơi an toàn ở
Geneva, ông ta vẫn không được phép chuyển nó đến tận tay vị Đại sứ. Con
đường được bảo đảm của nó theo lối ngoại giao khiến nó không thể bị ngăn
cản ngay cả với những cố gắng kết hợp của người Mỹ và người Do Thái.
Người em trai cùng cha khác mẹ của Saddam lúc này ngồi phía bên phải
Tổng thống, tận hưởng lời khen ngợi của vị lãnh tụ.
Saddam từ từ xoay người lại và nhìn chằm chằm xuống đầu bàn đằng kia.
— Và tôi cũng chấp nhận. – Ông nói tiếp. – Vai trò đã do Hamid Al
Obaydi đóng, người mà tôi đã bổ nhiệm làm Đại sứ ở Paris. Tuy nhiên, tên
của ông ta không được kết hợp vào vụ này, để đừng gây tác hại cho những
khả năng đại diện cho chúng ta trên đất nước ngoài.
Và như vậy những lời nói đó đã trở thành sắc lệnh. Người em trai cùng
cha khác mẹ của Saddam phải được nhìn nhận là kiến trúc sư của chiến

thắng này; trong lúc Al Obaydi phải làm phần phụ chú trên một trang giấy,
được lật qua một cách nhanh chóng. Nếu Al Obaydi thất bại, người em trai
cùng cha khác mẹ của Saddam sẽ được xem là không hay biết gì về cả ý
niệm ban đầu, và đống xương của Al Obaydi thậm chí giờ đây đang mục rữa
trong một nấm mồ không ai biết đến. Từ khi Saddam cất tiếng, không một ai
quanh bàn, ngoại trừ vị Biện lý Chính phủ để mắt tới Al Obaydi. Mọi con
mắt khác và các nụ cười đều dán vào người em trai cùng cha khác mẹ của
Saddam.
Chính lúc đó, ngay giữa phiên họp của Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng,
Al Obaydi đã đi đến một quyết định.
***

Dollar Bill ngồi uể oải trên một chiếc ghế đẩu, tựa người vào quầy rượu
trong giờ không thích hợp, sung sướng nhấm nháp chất nước y thích nhất. Y
là người khách hàng duy nhất của tiệm rượu, không kể một người đàn bà
ngồi im lặng ở trong góc. Nhân viên phục vụ phỏng đoán cô ta say rượu,
trong lúc cô ta không hề có một cử động nhỏ suốt tiếng đồng hồ vừa qua.
Thoạt tiên Dollar Bill không hay biết gì về người đàn ông chệnh choạng
bước qua cánh cửa xoay, và chắc đã không để mắt đến gã, nếu gã không tự
đến ngồi bên cạnh y. Người khách mới gọi một ly gin pha tonic. Dollar Bill
vốn có ác cảm với bất cứ ai uống gin pha tonic, nhất là nếu kẻ đó ngồi bên
cạnh y trong khi phần còn lại của quầy rượu vẫn còn trống. Y nghĩ đến việc
bỏ đi nhưng lại quyết định không cần phải làm việc đó.
— Thế nào, ông bạn kỳ cựu? – giọng nói bên cạnh hỏi.
Dollar Bill không hề nghĩ mình là một dân “kỳ cựu” và không thèm trả
lời người khách lạ.
— Làm sao thế, không có lưỡi trong đầu hay sao? – Người đàn ông lại
hỏi, giọng líu lại.
Nhân viên phục vụ quay lại nhìn thẳng vào họ khi anh ta nghe giọng nói

cất cao, rồi quay lại với việc lau khô những chiếc ly còn lại sau bữa trưa
đông đúc.
— Có chứ, thưa ông, loại lịch sự đấy. – Dollar Bill trả lời nhưng vẫn
không hề liếc nhìn người hỏi.
— Loại Ireland. Tôi đã biết ngay từ đầu. Một đất, nước đầy những kẻ say
sưa, ngu đần, dốt nát.
— Tôi xin nhắc cho ông biết, – Dollar Bill nói, – rằng Ireland là đất nước
của Yeats, Shaw, Wilde, O’Casey và Joyce.[42]
Rồi y nâng ly lên để tưởng nhớ tới họ.
— Tôi chưa bao giờ nghe bất cứ một cái tên nào trong số đó! Bạn nhậu
của ông, phải không?
Lúc này thì nhân viên phục vụ bỏ khăn lau xuống và bắt đầu chú ý hơn.
— Tôi chưa bao giờ được cái vinh dự đó, – Dollar Bill trả lời, – nhưng
này ông bạn, sự việc ông đã không nghe nói về họ, chưa kể tới việc đọc các
tác phẩm của họ, là phần mất mát của ông, chớ không phải của tôi.
— Ông đang buộc tội tôi ngu dốt phải không? – Gã khách lạ vừa nói vừa
đặt một bàn tay thô bạo lên vai Dollar Bill.
Dollar Bill liền quay lại để nhìn thẳng vào mặt gã, nhưng ngay cả ở
khoảng cách gần như thế, y vẫn không thể điều tiết một cách rõ ràng qua
màn sương mù tạo nên bởi số rượu y đã uống suốt hai tuần lễ vừa qua. Tuy
nhiên, y vẫn nhận thấy được rằng, mặc dầu gã hiện ra như là một phần của
màn sương rượu đó, gã khách lạ hơi lớn con hơn chính y. Một sự xem xét
như thế không bao giờ làm cho Dollar Bill lo ngại trong quá khứ.
— Không, thưa ông. Không cần phải buộc tội ông ngu dốt. Bởi vì ông đã
bị kết tội bởi chính lời phát biểu của ông.
— Không ai được nói với tao bằng cái giọng đó, đồ Ireland say xỉn.
Vẫn để tay tên vai Dollar Bill, gã xoay người y lại và giáng một quả đấm
vào hàm y. Dollar Bill lảo đảo người ra phía sau khỏi chiếc ghế đẩu cao, té
xuống sàn nhà thành một đống.

Gã khách lạ chờ một lúc cho Dollar Bill đứng lên, mới tống một quả thứ
hai vào bụng. Một lần nữa, Dollar Bill ngã quỵ lên sàn nhà.
Nhân viên phục vụ sau quầy đã bắt đầu quay số điện thoại mà chủ tiệm đã
căn dặn anh ta phải gọi nếu một tình huống tương tự như thế xảy đến. Anh ta
chỉ hy vọng người ta sẽ đến nhanh trong lúc anh ta quan sát người đàn ông
Ireland không hiểu sao vẫn đứng dậy được. Lần này đến phiên y nhắm một
quả đấm vào mũi người khách lạ, một quả đấm làm bật tung vai bên phải của
kẻ tấn công ông ta lên không. Một quả đấm khác bay vào cổ họng của Dollar
Bill. Ngã xuống một lần thứ ba, thời y còn là một võ sĩ quyền Anh nghiệp dư
thì sẽ bị xem là bị đo ván về mặt kỹ thuật; nhưng bởi vì lúc này không có
trọng tài nào để chủ toạ, y lại đứng lên một lần nữa.
Nhân viên phục vụ cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe tiếng còi ở đằng xa, và
đang ước mong cho họ không phải trên đường chạy đến một nơi gọi khác thì
bỗng hiện bốn cảnh sát viên phóng mình qua cánh cửa xoay.
Người thứ nhất chộp lấy Dollar Bill, ngay trước khi y chạm đất lần thứ
tư; trong lúc hai người kia tóm chặt gã khách lạ, vặn tréo hai cánh ta gã ra
phía sau và còng tay gã lại. Cả hai người đàn ông bị đẩy ra khỏi tiệm rượu và
ném vào bên trong phía sau chiếc xe thùng của cảnh sát đang chờ sẵn. Tiếng
còi vẫn tiếp tục lanh lảnh vang lên trong lúc hai kẻ say rượu được đưa đi.
Nhân viên phục vụ vui mừng vì sự nhanh nhẹn mà Sở cảnh sát San
Francisco đã đến giúp anh ta. Chỉ sau đêm hôm ấy, anh ta mới sực nhớ anh
ta đã không cho họ địa chỉ khi gọi.
***

Cả hai người vẫn im lặng cho tới khi David Kratz kết thúc kế hoạch phác
thảo của ông.
Dexter là người đầu tiên mở lời:.
— Tôi phải nhìn nhận ông Đại tá hết sức có lý. Việc có thể tiến hành
ngay.

Scott gật đầu đồng ý, rồi quay sang người lãnh đạo Mossad chỉ mấy tuần
trước đã ra lệnh cho Hannah rằng anh cần phải bị giết chết. Một phần tội lỗi
đã tan biến từ khi họ làm việc hết sức kề cận với nhau, nhưng những nếp
nhăn trên trán và mái tóc hoa râm sớm của nhà lãnh dạo Do Thái vẫn còn
mãi mãi nhắc nhở anh về những gì anh đã trải qua. Trong thời gian họ ở bên
cạnh nhau, Scott đã phải khâm phục kỹ năng chuyên môn hoàn thiện của con
người đã bổ nhiệm phụ trách chiến dịch.
— Tôi còn cần được trả lời cho một vài câu hỏi, – Scott nói, – và cần
được giải thích mấy việc khác.
Vị Ủy viên Do Thái về các Vấn đề Văn hoá trong Court of St. James[43]
gật đầu.
— Ông có chắc chắn rằng họ dự kiến đặt tủ sắt trong trụ sở chính của
đảng Baath?
— Chắc chắn thì không. Tự tin thì có. – Kratz nói. – Một công ty Hà Lan
đã hoàn tất một công trình xây dựng dưới tầng hầm của trụ sở chính cách
đây gần ba năm và trong số các hoạ đồ cuối cùng của họ có một cấu trúc
bằng gạch mà kích thước vừa khớp chiếc tủ sắt.
— Và chiếc tủ sắt này có phải vẫn còn ở Karmal?[44]
— Nó đã ở đó cách đây ba tuần, – Kratz trả lời, – khi một nhân viên của
tôi thực hiện một cuộc kiểm tra thường lệ.
— Và nó thuộc quyền chính phủ Iraq phải không? – Dexter Hutchins hỏi.
— Phải, nó đã được trả đủ tiền, và giờ đây một cách hợp pháp nó là tài
sản của người Iraq.
— Một cách hợp pháp đó có lẽ là tư thế, nhưng kể tử cuộc chiến tranh
vùng Vịnh. Liên Hiệp Quốc đã áp đặt một loại trừng phạt mới, – Scott lưu ý
ông.
— Làm sao một chiếc tủ sắt có thể được xem là một thiết bị quân sự? –
Dexter hỏi.
— Chính là luận điệu của người Iraq, – Kratz trả lời. – Nhưng không may

nguon tai.lieu . vn