Xem mẫu

  1. IM LẶNG: Sức mạnh của người hướng nội, trong một thế giới không bao giờ có thể lặng im
  2. Copyright © 2012 by Susan Cain Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ. Dịch từ bản gốc tiếng Anh “Quiet: The Power of Introverts in a World That Can't Stop Talking”, được xuất bản tại Hoa Kỳ bởi Crown Publishers. Bản dịch được thực hiện bởi Nguyễn Tiến Đạt (sutucon). Bản dịch này không phải là bản dịch chính thức của cuốn sách, đ ược th ực hiện ch ỉ đ ơn thu ần v ới m ục đích để chia sẻ. Người dịch không được hưởng bất kỳ lợi ích nào về tiền b ạc thông qua vi ệc th ực hi ện và công bố bản dịch này, cũng không khuyến khích các hành vi đ ọc, t ải sách vi ph ạm b ản quy ền. Hãy mua cuốn sách này khi nó được dịch hoặc phát hành chính thức t ại nơi bạn s ống đ ể ủng h ộ tác gi ả.
  3. Lời người dịch Xin chào, tôi là Nguyễn Tiến Đạt. Bản dịch mà bạn đang đ ọc là d ự án cá nhân l ớn đ ầu tiên sau năm 20 tuổi của tôi. Cám ơn bạn vì đã đọc, hoặc thậm chí dẫu có thể chỉ là đang cân nhắc đến việc s ẽ đ ọc nó. Tôi có may mắn được biết đến cuốn sách này từ khá sớm, vào cuối mùa hè năm 2012, không lâu sau th ời điểm nó được ra mắt tại Mỹ. Và tôi đã lập tức bị hút vào nó. Đôi lúc trong đ ời b ạn, s ẽ có nh ững cu ốn sách xuất hiện và tác động rất mạnh đến cách nhìn cu ộc s ống của b ạn, c ấy vào trong đ ầu b ạn m ột ý tưởng, cho bạn một lăng kính hoàn toàn mới để nhìn nhận cu ộc s ống và để nhìn nh ận chính b ản thân bạn. “Quiet” của Susan Cain đối với tôi là một cuốn sách như vậy. Và tôi không hề h ối h ận về việc mình đã bỏ ra hơn 6 tháng trời để dịch nó. Nó đã giúp thay đ ổi cu ộc s ống c ủa tôi theo h ướng t ốt đ ẹp h ơn nhiều, đến mức tôi nhận ra việc những người khác cũng được đọc nó sẽ có ý nghĩa lớn đến thế nào. Và tôi nhảy vào làm, mặc dù không phải tôi không nhận được những lời khuyên không nên. M ột ng ười anh tôi rất kính trọng cũng đã khuyên tôi như vậy. Nhưng tôi còn trẻ, tôi nghĩ mình có quyền ph ạm sai l ầm và có quyền làm một thứ gì đó điên rồ một chút khi tôi còn đủ thời gian và nhiệt huyết. Vậy nên tôi làm. Cuốn sách này là một dự án cá nhân của tôi. Tôi nghĩ mình c ần gi ải thích m ột chút c ụm t ừ “d ự án cá nhân”. Thứ nhất, nó có nghĩa là: Cuốn sách này là của tôi. Từ ch ữ cái đ ầu tiên đ ến cái d ấu ch ấm cu ối cùng, từ cách dịch, cách chọn từ, đến cách làm chú thích; t ừ cách trình bày bìa, đ ến màu bìa, th ậm chí là việc thiết kế bìa. Tất cả những thao tác bạn có thể nghĩ ra để có thể làm ra đ ược b ản d ịch này, tôi đã t ự tay làm một mình hoàn toàn. Tất nhiên, việc dịch của tôi đứng trên đôi vai của rất nhiều kiến thức d ịch và ngôn ngữ dịch của bao dịch giả tôi đã từng được đọc, được theo học, và tôi cũng đã cầu vi ện đ ến s ự tr ợ giúp của rất nhiều các từ điển và các nguồn thông tin tham khảo khác nhau t ừ m ạng Internet, nh ưng người làm nhiệm vụ sử dụng tất cả những thứ nguyên liệu nguồn đó để t ạo ra những dòng văn b ản này là tôi, và chỉ mình tôi. Tôi chính là người chịu trách nhiệm, là người b ạn s ẽ mu ốn nh ắm đ ến đ ể khen ngợi, hoặc để ném đá. Thứ hai, nó có nghĩa là: Dự án này có ý nghĩa đ ặc biệt quan tr ọng v ới riêng cá nhân tôi. Với tôi, việc phải đưa được những kiến thức trong cuốn sách này đến v ới nhiều ng ười h ơn n ữa g ần như là một sứ mệnh tôi tự giao cho mình, nó là một mục đích tôi hoàn toàn tin t ưởng vào, và nó đã là đ ộng lực thúc đẩy tôi theo đuổi công việc này trong suốt quãng th ời gian h ơn 6 tháng v ừa qua. Tôi không d ịch cuốn sách này vì muốn nó được một nhà xuất bản nào để ý đến và trả tôi ti ền đ ể mua nó; tôi không làm
  4. nó để in ra và bán cho bất kỳ ai; và tôi cũng không làm nó để thể hiện gì trình đ ộ của mình cả. B ạn có th ể chọn tin lời tôi hoặc không, tôi không quan tâm, nhưng điều tôi mu ốn nói là: tôi ch ọn làm nó, vì tôi mu ốn bạn đọc nó. Tôi biết việc chỉ hết sức khen ngợi cuốn sách này trong một dòng “trạng thái” vu v ơ nào đó trên m ạng xã hội, hay liên tục bỏ bom trang mạng cá nhân của bạn v ới nh ững bình lu ận ki ểu “hãy đ ọc nó đi, nó hay lắm…” là không đủ. Dù cho trình độ tiếng Anh của bạn có đủ tốt để biết được cuốn sách viết gì, rào cản ngôn ngữ vẫn sẽ là một nhân tố cản trở (dù có thể chỉ là rất nh ỏ). Và dù nhân t ố c ản tr ở đó có th ể r ất nhỏ, nhưng nhân nó lên với dung lượng của cuốn sách này (b ản đi ện t ử mà tôi có là m ột b ản PDF ch ữ nhỏ li ti mà cũng đã 139 trang); cùng với chủ đề có vẻ thiếu h ấp d ẫn c ủa nó (“tâm lý h ọc”, “tính cách”, “người hướng nội”); lại nữa, hãy nghĩ đến cả thể loại của nó (“non-fiction” và “self-help”) v ốn là th ứ tôi không nghĩ được số đông trong các bạn ưa thích. Hãy thành thực mà nói đi, b ạn th ử nghĩ đ ến nh ững th ứ này mà xem, nếu nó không phải là một tài liệu học t ập bắt bu ộc ho ặc m ột cu ốn sách nghiên c ứu bu ộc- phải-có kinh điển cần thiết cho công việc, bao nhiêu trong s ố các b ạn s ẽ b ị h ấp d ẫn đ ến v ới m ột cu ốn sách với dung lượng, chủ đề và thể loại như thế? Tôi nghĩ là không nhiều. Tôi cũng ph ải thú th ật là k ể cả tôi có lẽ cũng sẽ không tìm đến với một thứ như thế đâu, nếu tôi đã được biết đến nó theo cách này. Nhưng tôi biết đây là một cuốn sách rất đáng đọc. Và TÔI MUỐN CÁC B ẠN Đ ỌC NÓ. Thành th ực mà nói, bạn có thể dùng việc này để đánh giá tôi đấy. Tôi đang làm cái vi ệc m ạo hi ểm là đem uy tín c ủa mình ra để đảm bảo cho cuốn sách này. Nếu bạn đọc thử và không thấy nó đáng đ ọc nh ư lời tôi tâng b ốc, vậy thì tôi coi như mất sạch sẽ uy tín với bạn nhỉ. Từ nay về sau m ọi l ời tôi nói s ẽ không còn m ấy s ức nặng với bạn nữa. Nhưng kể cả khi biết điều đó, tôi vẫn tin chắc và vẫn sẽ nói cho b ạn bi ết, r ằng: TÔI TIN ĐÂY LÀ MỘT CUỐN SÁCH ĐÁNG ĐỌC. Việc dịch cuốn sách này là cố gắng của tôi để đạp đổ rào cản ngôn ng ữ. Việc tôi sử d ụng trang cá nhân của mình và đăng tải những đoạn trích tôi thấy hay trong cu ốn sách này là nh ững n ỗ l ực nh ỏ c ủa tôi đ ể thu hút sự quan tâm của mọi người tới với chủ đề của cuốn sách. Và b ằng vi ệc th ực s ự tr ở nên t ự tin hơn, sống tốt hơn, thể hiện ra qua cuộc sống thực ngoài đời và qua những gì tôi giao ti ếp v ới m ọi ng ười xung quanh cả trên mạng lẫn trong đời thực, bất chấp việc là m ột ng ười h ướng n ội nhút nhát, tôi hy vọng rằng mình đã có thể chứng minh cho các b ạn—nh ững ai bi ết tôi—th ấy r ằng cu ốn sách này, dù là sách self-help, dù là sách non-fiction, nhưng nó vẫn thực sự đáng giá, vì nó có thể làm thay đ ổi cu ộc s ống của bạn theo những nghĩa tốt hơn. Tôi là một bằng chứng cho điều đó.
  5. BẢN DỊCH NÀY KHÔNG HỀ HOÀN HẢO. Bạn cần phải biết điều đó. Và bạn cũng cần ph ải bi ết r ằng tôi biết điều đó. Nó chi chít lỗi. Lỗi về cách dùng từ tiếng Việt. Lỗi về ngôn ngữ dịch. Lỗi cả v ề thao tác tham khảo nguồn để làm chú thích. Lỗi cả trong những khâu chế bản điện tử, t ạo file PDF, lỗi trong việc thiết kế bìa, chọn màu bìa. Lỗi trong cả cách chọn dịch tiêu đ ề. Chi chít l ỗi. Nh ưng tôi hy v ọng r ằng chúng sẽ không làm phiền bạn quá nhiều trong quá trình đọc, và, quan tr ọng h ơn, không làm ảnh h ưởng đến việc tiếp nhận những ý tưởng từ cuốn sách này của bạn. Tôi chỉ mong bản dịch này của mình có th ể giúp cho việc đọc của bạn trở nên dễ dàng hơn, và do đó, bạn sẽ đỡ vất v ả h ơn trong vi ệc hoàn t ất vi ệc đọc cuốn sách này, chứ tôi thực sự không dám mong nó trở thành một bản dịch hoàn hảo, có th ể khiến tên tuổi tôi nổi như cồn và được khen ngợi tới tấp. Không, không đâu ạ. CHẮC CHẮN BẠN SẼ THẤY BẢN DỊCH NÀY CHI CHÍT LỖI. Nhưng tôi vẫn hy vọng bạn s ẽ th ấy thích thú khi đ ọc nó, tôi nói đi ều này ra một cách hoàn toàn chân thành. Hy vọng đến đây, có lẽ bạn đã có câu trả lời của tôi cho hai câu h ỏi l ớn mà có th ể b ạn đang mu ốn h ỏi tôi: “Cuốn sách này có đáng đọc không, t ại sao?” và “Sao b ạn l ại mu ốn b ỏ công s ức ra th ực hi ện vi ệc dịch nó?”. Sau đây, tôi xin dành mấy lời cuối cùng này để trả lời n ốt m ấy câu h ỏi mà t ừ m ấy hôm nay tôi đã nhận được, kể từ khi tôi công bố trên trang cá nhân rằng “dự án cá nhân lớn nh ất sau năm 20 tu ổi” c ủa tôi đã chính thức kết thúc:  Tại sao tôi không gửi sách cho nhà xuất bản, mà lại ch ịu t ải công s ức d ịch c ủa mình lên m ạng một cách miễn phí thế này? Tôi có sợ vi phạm luật bản quyền gì đó không? Tôi không thể, không dám và cũng không biết cách để gửi bản dịch cho nhà xu ất b ản, n ếu b ạn mu ốn tin tôi. Tôi không thể chịu được những lời phê bình, bất kể chúng có tích cực và xác đáng thế nào, và m ột khi đã là một dịch giả xuất bản, người đòi hỏi các bạn đọc trả tiền cho tôi để được đ ọc th ứ tôi d ịch, tôi s ẽ phải chịu một trách nhiệm quá lớn cho bản dịch của mình. Các bạn sẽ có quyền phê bình tôi. Nh ưng tôi cực kỳ ghét bị phê bình, dù trên bất cứ phương diện gì, dù nó có nh ẹ nhàng và xác đáng đ ến th ế nào đi nữa. Hơn nữa, tự tôi biết trình độ của mình quá thấp. Tôi biết ch ắc rằng có đ ầy l ỗi v ề cách dùng t ừ và lỗi về cách viết trong bản dịch này, và tôi lại là m ột người theo ch ủ nghĩa hoàn h ảo n ữa, nên tôi không thể bán một sản phẩm mà tôi biết không đạt được chất lượng tốt nhất có thể nh ư v ậy. Cu ối cùng, tôi không có uy tín, thiếu kinh nghiệm và zê-rô quan h ệ v ới b ất cứ m ột nhà xu ất b ản nào, và tôi cũng quá nhút nhát rụt rè và thiếu tự tin để có thể dám đem thứ mình dịch này ra tr ước b ất c ứ h ội đ ồng th ẩm đ ịnh
  6. của bất cứ nhà xuất bản nào. Tôi sợ sự đánh giá. Và do vậy, tôi đã ch ọn không tìm cách xu ất b ản chính thống bản dịch này. Hãy để cho ai đó phù hợp hơn tôi làm thế khi nào h ọ có th ể đi. Tôi ch ỉ c ần b ản d ịch này đến với các bạn được là được rồi, dẫu chỉ là qua Internet thôi cũng không sao. M ột ngày nào đ ấy, s ẽ có một cuốn sách với tên Nguyễn Tiến Đạt, hoặc với tư cách là dịch gi ả, ho ặc (và tôi mong là) v ới t ư cách một tác giả. Còn hôm nay, mong các bạn hãy nhận lấy món quà này của tôi từ Internet. Về vấn đề đọc và tải sách bản quyền, bản thân tôi coi đây là m ột v ấn đ ề v ẫn còn ch ưa th ực s ự rõ ràng về mặt đạo đức. Liệu sao chép, phân phối hay tải sách hay bất cứ thứ gì t ừ trên m ạng v ề m ột cách mi ễn phí có được coi là ăn cắp không? Tôi không tin vào điều này, nh ưng tôi cũng không khuy ến khích nh ững hành vi bị coi là vi phạm luật bản quyền. Và tôi vẫn quyết đ ịnh sẽ chia s ẻ b ản d ịch này c ủa mình, b ởi theo chiếc la bàn đạo đức nội tại của tôi, tôi không tin rằng việc mình đang làm là sai. Và tôi cũng không quan tâm liệu bạn có ủng hộ tôi trong vấn đề này hay không. Ở đây, tôi ch ỉ xin d ừng l ại đ ể nói r ằng: tôi đang làm điều tôi tin là đúng đắn và nên làm, và với tôi, chỉ vậy là đủ.  Tại sao lại chọn thiết kế bìa như vậy? Tại sao lại chọn dịch tiêu đề “ Quiet” thành “Im lặng”? Bìa của “Im lặng” có hình ảnh chủ đạo là một trục phần tư mô phỏng m ột hệ trục t ọa đ ộ. Đây là tôi thiết kế dựa vào một ý tưởng xuất hiện trong cuốn sách, đó là: “ một đồ thị với một trục đứng và một trục nằm ngang, với trục ngang là khoảng dao động giữa hai thái c ực hướng n ội-h ướng ngo ại, và tr ục đứng tương ứng với khoảng bình thản-lo lắng. Với mô hình này, bạn có đ ược b ốn phân lo ại khác nhau của tính cách con người, tương ứng với bốn góc phần tư của đồ th ị: ng ười h ướng ngo ại bình th ản, người hướng ngoại lo lắng (hoặc bốc đồng), người hướng nội bình thản, và người hướng nội lo l ắng. Nói một cách khác, bạn có thể là một người hướng ngoại nhút nhát như Barbra Streisand, ng ười có m ột tính cách hết sức đặc sắc và thu hút, nhưng v ẫn s ợ đến tê li ệt c ả người đi m ỗi khi ph ải b ước lên sân khấu; hoặc một người hướng nội không-nhút-nhát, như Bill Gates, người mà v ề mọi ph ương diện đ ều tránh phải tiếp xúc với mọi người, nhưng chưa bao giờ phải lo l ắng vì áp l ực ý ki ến c ủa ng ười khác. ” Đây là chi tiết tâm đắc đầu tiên tôi bắt gặp trong cuốn sách khi lần đ ầu đ ọc nó, và do đây là m ột d ự án cá nhân của riêng tôi, tôi không nghĩ mình có gì phải ngại trong việc ch ọn m ột chi tiết mình thích làm c ảm hứng để thiết kế bìa. Nói luôn, bìa màu xanh lá cây cũng ch ỉ đ ơn gi ản là vì đây là màu s ắc ưa thích nh ất của tôi mà thôi. Dù sao cũng mong là nó hợp mắt các bạn, nhưng dẫu nó (nh ỡ) có không h ợp m ắt các b ạn
  7. thì tôi cũng đành chịu; đây là dự án cá nhân của tôi, tôi sẽ làm nó theo những cách mà tôi mu ốn, ch ứ không phải là theo ý thích của bất kể ai khác. Chữ “Quiet”, là tiêu đề chính của bản gốc, đã được tôi chọn dịch là “ Im lặng”. Tôi có lý do cho điều này. Bên cạnh sự tương hợp đến một mức độ nào đấy với nét nghĩa mà tôi hi ểu c ủa t ừ “Quiet” theo ý dùng của tác giả, tôi cố tình chọn chữ “Im lặng”, với chữ “I” chủ ý kéo dài ra và làm l ớn h ơn h ẳn các ch ữ còn lại khi in trên bìa, còn là vì tôi muốn đặc biệt dành t ặng cuốn sách này cho nh ững ng ười có tính cách “I”, viết tắt của “introverted”—hướng nội, theo phân loại của bài Trắc nghiệm tính cách Myers-Briggs (Myers-Briggs Type Indicator), thường được viết ngắn gọn là MBTI. Chữ “I” lớn đó chính là dành cho h ọ, những con người nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp, thích suy nghĩ sâu s ắc, ham đ ọc sách, khiêm t ốn, nh ạy cảm, thận trọng, nghiêm túc, sống nội tâm, hiền lành, điềm tĩnh, thích tìm s ự đ ơn đ ộc, ng ại m ạo hi ểm, dễ bị tổn thương bởi lời lên án hoặc xúc phạm. Những người như tôi. Cu ốn sách này đ ược Susan Cain viết trước hết là để cho họ. Bản dịch này được tôi thực hiện, trước hết là để cho họ. Những lời này nói ra, tôi hy vọng đã giúp bạn hiểu được tôi làm th ế này là đ ể làm gì, đ ể đ ạt đ ược gì, và để bạn hiểu rằng bạn nên trông mong những gì và không nên trông mong những gì t ừ b ản d ịch này. K ể t ừ giờ trở đi, tôi xin nhường lại công việc quyết định cho bạn. Nếu bạn tin tôi, tin vào nh ững đi ều tôi nói, hoặc ít nhất là tin vào giá trị của cuốn sách này, và muốn s ử dụng đến b ản dịch (dù thi ếu hoàn h ảo) này của tôi, tôi xin được nói: Cảm ơn bạn. Chúc bạn tất cả những gì tốt đẹp nhất. Bản dịch này xin đ ược g ửi tặng đến tất cả những người hướng nội ở ngoài kia, cũng như những người hướng ngo ại yêu quý, g ắn bó hoặc cộng tác với những người hướng nội nữa. Cảm ơn các bạn đã đ ọc đ ến đây. C ảm ơn các b ạn, và chúc các bạn cũng sẽ tìm được những hiểu biết và ý tưởng thật sâu s ắc, m ới m ẻ t ừ cu ốn sách này, nh ư tôi đã tìm thấy được vậy. Hà Nội, ngày 10 tháng Năm, năm 2014. Nguyễn Tiến Đạt (sutucon)
  8. THÊM MỘT VÀI TIẾNG ỒN CHO ‘IM LẶNG’ “Một khảo nghiệm về tâm lý con người hấp dẫn, có thể làm thay-đ ổi-cu ộc-đ ời mà ch ắc ch ắn s ẽ đem lại lợi ích lớn cho cả người hướng nội cũng như người hướng ngoại”. —Kirkus Reviews (starred review) “Hiền lành là mạnh mẽ… Đơn độc chính là đạt hiệu quả cao nhất về giao tiếp… những ý t ưởng d ường như rất ngược đời này là một vài trong rất nhiều lý do để đem Im lặng vào một góc khuất tĩnh lặng nào đó và hấp thụ toàn bộ những thông điệp tuyệt vời, kích-thích-suy-nghĩ vô cùng của nó.” —ROSABETH MOSS KANTER, giáo sư tại Đại học Kinh tế Harvard, tác giả của cuốn sách “Confidence and SuperCorp”. “Một cuốn sách rất có giá trị về mặt hiểu biết, được tiến hành nghiên cứu k ỹ càng, v ề s ức m ạnh c ủa s ự lặng im và đức hạnh của việc có một đời sống nội tâm phong phú. Nó phá đổ quan điểm xã h ội ph ổ biến rằng bạn cần phải hướng ngoại thì mới có thể hạnh phúc và thành công trong cuộc s ống”. —JUDITH ORLOFF, tiến sĩ y khoa, tác giả của cuốn sách “ Emotional Freedom” “Trong cuốn sách đề cập hết sức kỹ lưỡng và được viết m ột cách rất tuyệt v ời này, Susan Cain đã th ể hiện một cuộc biện hộ mạnh mẽ cho sự hướng nội. Cô cũng khéo léo cảnh báo v ề nh ững nh ược đi ểm của sự ồn ào trong nền văn hóa của chúng ta, trong đó có cả nguy cơ nó làm át đi nh ững ti ếng nói có giá trị khác. Vượt lên trên tất cả những ồn ào, giọng nói của chính Susan v ẫn hi ện lên đ ầy h ấp d ẫn—sâu sắc, hiền từ, bình tĩnh và hùng hồn. Im lặng xứng đáng có được một lượng độc giả rất lớn”. —CHRISTOPHER LANE, tác giả của cuốn sách “Shyness: How Normal Behavior Became a Sickness” “Hành trình của Susan Cain để thấu hiểu sự hướng n ội, m ột hành trình tuyệt v ời đã đi t ừ phòng thí nghiệm tới bục sân khấu của người diễn giả, cho chúng ta những bằng ch ứng đ ầy s ức thuy ết ph ục đ ể trân trọng vào chất lượng hơn là phong cách, vào n ội dung h ơn là diện m ạo, và vào nh ững ph ẩm ch ất mà ở Mỹ thường bị coi nhẹ. Cuốn sách này xuất chúng, sâu sắc, chứa đ ầy cảm xúc và đ ầy tràn nh ững hi ểu biết”. —SHERI FINK, tiến sĩ y khoa, tác giả của cuốn sách “ War Hospital”.
  9. “Xuất sắc, khai sáng, giải phóng con người! Im lặng đem đến không chỉ một tiếng nói, mà còn cả một con đường về nhà cho rất nhiều người đã bước qua cuộc đời mà vẫn luôn nghĩ cách họ tương tác v ới thế giới là có gì đó cần phải sửa chữa”. —JONATHAN FIELDS, tác giả của cuốn sách “Uncertainty: Turning Fear and Doubt into Fuel for Brilliance” “Thi thoảng, lâu lâu một cuốn sách lại xuất hiện và cho chúng ta những hi ểu bi ết m ới đ ến b ất ng ờ. Im lặng là một cuốn sách như vậy: nó vừa kể những câu chuyện h ấp d ẫn, v ừa truy ền t ải nh ững tri th ức khoa học hàng đầu. Lời gợi ý dành cho kinh doanh là đặc biệt có giá trị nhất: Im lặng mang đến những lời khuyên để người hướng nội có thể lãnh đạo một cách hiệu quả, thực hiện nh ững bài nói m ột cách thành công, tránh bị kiệt sức, và chọn lấy vai trò phù h ợp. Cu ốn sách h ấp d ẫn, vi ết hay đ ến tuy ệt v ời, đ ược nghiên cứu kỹ càng này chỉ đơn giản là tuyệt hảo”. —ADAM M. GRANT, tiến sĩ, phó giáo sư bộ môn quản lý, Đại học kinh tế Wharton THÊM NHIỀU TIẾNG ỒN HƠN NỮA CHO ‘IM LẶNG’ “Phá tan những hiểu lầm… Cain liên tục thu hút sự chú tâm của đ ộc gi ả b ằng cách đ ưa ra nh ững câu chuyện cụ thể về các cá nhân… cũng như các báo cáo về những nghiên cứu m ới nh ất. S ự chuyên tâm, các nghiên cứu, và đặc biệt là niềm đam mê về chủ đề quan trọng này của cô đã đ ược đ ền đáp x ứng đáng”. —Tạp chí “Publishers Weekly” “Im lặng đưa những cuộc trò chuyện về người hướng nội trong xã hội định-h ướng-h ướng-ngo ại của chúng ta lên một tầm cao mới. Tôi tin rằng có rất nhiều ng ười h ướng n ội s ẽ nh ận ra, m ặc dù có th ể h ọ không biết, rằng họ đã đợi cuốn sách này cả đời mình rồi”. —ADAM S. MCHUGH, tác giả của cuốn sách “Introverts in the Church” “Cuốn sách Im lặng của Susan Cain cung cấp tuyệt vời nhiều những thông tin về khuôn m ẫu h ướng ngoại lý tưởng và khía cạnh tâm lý học của một tính cách nh ạy cảm, và cô có nh ận th ức r ất rõ v ề vi ệc người hướng nội có thể làm thế nào để tận dụng được nhiều nhất thiên hướng tính cách c ủa mình trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Xã hội cần những người hướng n ội, vậy nên t ất cả m ọi ng ười đều có thể thu được lợi ích từ những hiểu biết có trong cuốn sách này”. —JONATHAN M. CHEEK, giáo sư tâm lý học tại Đại học Wellesley, đồng biên tập của cuốn sách “Shyness: Perspectives on Research and Treatment”
  10. “Một cuốn sách xuất sắc, quan trọng, và có sức ảnh hưởng cá nhân vô cùng l ớn. Cain đã cho th ấy r ằng, với tất cả những đức hạnh của nó, Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng của n ước Mỹ đang lấy đi quá nhiều dưỡng khí. Bản thân Cain là người hoàn hảo để đứng lên đấu tranh cho đi ều này—v ới thái đ ộ chiến thắng và sự rõ ràng, cô đã cho chúng ta thấy sẽ thế nào khi suy nghĩ bên ngoài nhóm ( think outside the group)”. —CHRISTINE KENNEALLY, tác giả của cuốn sách “The First Word” “Điều Susan Cain thấu hiểu—và người đọc của cuốn sách tuyệt vời này rồi s ẽ s ớm trân tr ọng—là m ột thứ mà tâm lý học và thế giới nói-nhanh-làm-nhanh của chúng ta đã quá ch ậm đ ể nh ận ra: Không ch ỉ không có gì sai trong việc tĩnh lặng, thích suy nghĩ, nhút nhát r ụt rè, và h ướng n ội, mà còn có nh ững l ợi thế rõ ràng khi là người như thế nữa”. —JAY BELSKY, Giáo sư Robert M. and Natalie Reid Dorn, chuyên ngành Phát triển Con người và Cộng đồng, Đại học California ( University of California, Davis) “Tác giả Susan Cain đã thể hiện sức mạnh tĩnh lặng của chính mình, trong cu ốn sách đ ược th ực hi ện vô cùng tuyệt vời và hết sức hấp dẫn, lôi cuốn này. Cô mang t ới những nghiên c ứu khoa h ọc và nh ững tr ải nghiệm của người hướng nội vô cùng quan trọng”. —JENNIFER B. KAHNWEILER, tiến sĩ, tác giả của cuốn sách “ The Introverted Leader” “Trên nhiều phương diện, Im lặng là một cuốn sách thực sự xuất sắc. Trước tiên, nó được trang bị chi tiết với những thông tin từ các nghiên cứu khoa học, nhưng không h ề bị sa vào nó. Th ứ hai, cu ốn sách được viết đặc biệt tốt, và rất “thân thiện với người đọc” ( ‘reader friendly’). Thứ ba, nó cung cấp nhiều hiểu biết mới quan trọng. Tôi chắc chắn rằng rất nhiều người thắc mắc t ại sao những hành vi t ự tin đ ến hung hăng, bốc đồng lại thường được tưởng thưởng; trong khi những hành vi giàu suy nghĩ, cẩn trọng lại thường bị bỏ qua. Cuốn sách này đi vượt xa hơn cả những sự hời hợt ở ấn t ượng b ề m ặt đ ể thâm nh ập và phân tích sâu hơn nhiều”. —WILLIAM GRAZIANO, giáo sư, Khoa Khoa học Tâm Lý, Đại học Purdue
  11. Dành tặng gia đình tuổi ấu thơ của tôi
  12. “Một giống loài nơi tất cả đều là Tướng Patton, sẽ không thể thành công hơn bất cứ, dù chỉ một chút nào, so với một chủng tộc nơi tất cả đều là Vincent Van Gogh 1. Tôi thích tin rằng thế giới này cần có những vận động viên thể thao, những nhà triết học, những biểu tượng sex, những họa sĩ, những nhà khoa học; nó cần những người nhân hậu, những người sắt đá, những người tàn nhẫn, và cả những người nhút nhát yếu mềm. Nó cần những người có thể cống hiến cả đời họ cho việc nghiên cứu có bao nhiêu gi ọt nước được tiết ra trong tuyến nước bọt của loài chó, trong mỗi điều kiện khác nhau; nó c ần nh ững ng ười có thể lưu giữ ấn tượng chớp nhoáng của trăm đóa hoa anh đào bung nở trong một bài thơ mười bốn chữ; hay cống hiến hai mươi lăm trang giấy để phân tích cảm giác của một cậu bé khi n ằm yên trên gi ường một mình buổi tối, chờ mẹ đến hôn vào má và chúc cậu ngủ ngon.... Quả thực vậy; sự hiện diện của sức mạnh vượt trội của mỗi người trong một lĩnh vực nhất định đã mặc định rằng, năng l ượng cần thi ết cho các hoạt động khác ở họ hẳn đều đã bị rút cạn đi, và thay vào đ ể dùng cho chỉ m ột lĩnh v ực v ượt tr ội kia mà thôi.” —ALLEN SHAWN 1 George Smith Patton Jr. (11/ 11/1885—21/ 12/1945), còn được gọi là George Patton III, là m ột t ướng lĩnh, nhà ch ỉ huy quân s ự n ổi ti ếng c ủa L ục quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới lần II trong các chi ến d ịch ở B ắc Phi, Sicilia, Pháp và Đ ức, 1943–1945. Trong Chi ến tranh th ế gi ới th ứ nh ất, ông tr ở thành một trong những chỉ huy đầu tiên của binh chủng xe tăng c ủa Hoa Kỳ. (Ngu ồn: Wikipedia) Vincent Willem van Gogh (30/3/1853—29/7/1890), thường được bi ết đến với tên Vincent Van Gogh, là m ột danh ho ạ Hà Lan thu ộc tr ường phái h ậu ấn tượng. Nhiều bức tranh của ông nằm trong số những tác ph ẩm n ổi ti ếng nh ất, đ ược yêu thích nh ất và cũng đ ắt nh ất trên th ế gi ới. Van Gogh là ngh ệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hi ện và có ảnh h ưởng r ất lớn t ới m ỹ thu ật hi ện đ ại, đ ặc bi ệt là t ới tr ường phái dã thú (Fauvism) và tr ường phái bi ểu hi ện tại Đức. (Nguồn: Wikipedia)
  13. NỘI DUNG Trang bìa Lời người dịch Đề từ Ghi chú của tác giả GIỚI THIỆU: Hai cực Bắc–Nam của tính cách con người PHẦN MỘT: KHUÔN MẪU HƯỚNG NGOẠI LÝ TƯỞNG 1. SỰ TRỖI DẬY CỦA HÌNH TƯỢNG “ANH BẠN VÔ CÙNG DỄ MẾN”: Làm Thế Nào Người Hướng Ngoại Trở Thành Hình Mẫu Lý Tưởng Của Xã Hội 2. NHỮNG LẦM TƯỞNG VỀ MỘT KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO THU HÚT: Nền Văn Hóa Của Tính Cách, 100 năm sau 3. KHI SỰ CỘNG TÁC GIẾT CHẾT TÍNH SÁNG TẠO: Sự Trỗi Dậy của Kiểu Tư Duy Nhóm Mới và S ức Mạnh Của Làm Việc Đơn Độc PHẦN HAI: BẢN CHẤT SINH HỌC CỦA BẠN, BẢN CHẤT THỰC SỰ CỦA BẠN? 4. LIỆU TÍNH CÁCH CÓ PHẢI LÀ SỐ PHẬN? : Bản Tính Tự nhiên, Nuôi dưỡng, Và Lý Thuyết Hoa Phong Lan 5. VƯỢT QUA CẢ TÍNH CÁCH: Vai Trò Của Ý Chí Tự Do (và Bí Quyết Để Nói trước đám đông dành cho Ng ười Hướng Nội 6. “FRANKLIN LÀ NHÀ CHÍNH TRỊ, NHƯNG ELEANOR NÓI RA TỪ LƯƠNG TÂM”: Tại Sao Sự Hấp Dẫn (Cool) Lại Được Đánh Giá Cao Tới Vậy 7. TẠI SAO PHỐ WALL SỤP ĐỔ VÀ WARREN BUFFETT THÀNH CÔNG? : Người Hướng Nội và Hướng Ngoại Suy Nghĩ (và Xử lý Dopamine) Khác Nhau Như Thế Nào PHẦN BA: CÓ PHẢI MỌI NỀN VĂN HÓA ĐỀU CÓ KHUÔN MẪU HƯỚNG NGOẠI LÝ TƯỞNG? 8. QUYỀN LỰC MỀM: Người Mỹ Gốc Châu Á và Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng
  14. PHẦN BỐN: LÀM THẾ NÀO ĐỂ YÊU, LÀM THẾ NÀO ĐỂ LÀM VIỆC 9. KHI NÀO THÌ BẠN NÊN TỎ RA HƯỚNG NGOẠI HƠN MỨC BẠN THỰC SỰ LÀ? 10. KHOẢNG CÁCH TRONG GIAO TIẾP (THE COMMUNICATION GAP): Làm Thế Nào Để Nói Chuyện Với Người Có Dạng Tính Cách Đối Ngược Với Bạn 11. VỀ NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM GIẦY VÀ NHỮNG VỊ TƯỚNG: Làm thế nào Để Nuôi Dạy Những Đứa Con Trầm Tính Của Bạn, trong một Thế Giới Không Thể Nghe Thấy Chúng KẾT LUẬN: Xứ sở Diệu Kỳ Lời đề tặng Vài ghi chú về các từ ngữ ‘Introvert’ và ‘Extrovert’ Lời ghi nhận Chú thích
  15. Ghi chú của tác giả Tôi đã viết cuốn sách này một cách chính thức từ năm 2005, và không chính thức trong su ốt c ả quãng đ ời trưởng thành của mình. Tôi đã nói và viết với hàng trăm, có lẽ là hàng nghìn người về những ch ủ đề bàn luận đến ở đây, và cũng đã đọc chừng ấy sách, các nghiên cứu h ọc thu ật, các bài báo và t ạp chí, nh ững cuộc thảo luận ở chat-room trên mạng, và những bài blog. Một vài trong s ố này tôi đã nh ắc đ ến trong cuốn sách; một số khác thì được nhắc đến trong hầu như mọi câu văn mà tôi vi ết. Im lặng đứng trên rất nhiều đôi vai, đặc biệt là các học giả và các nhà nghiên cứu mà công trình c ủa h ọ đã d ạy tôi r ất nhi ều. Trong một thế giới hoàn hảo, tôi sẽ đề tên tất cả mọi nguồn thông tin, t ất cả nh ững ng ười th ầy, và t ất cả những người mà tôi đã từng phỏng vấn. Nhưng để văn bản còn có thể đọc được, m ột số cái tên sẽ ch ỉ xuất hiện trong phần Chú thích hoặc Lời ghi nhận. Vì những lý do tương tự, tôi đã không dùng dấu ba chấm hay ngo ặc đ ơn trong m ột s ố câu trích d ẫn, nhưng đã đảm bảo rằng những từ thêm vào hoặc bị cắt đi không làm thay đ ổi d ụng ý c ủa ng ười nói hay người viết. Nếu bạn muốn trích dẫn lại những câu này t ừ ngu ồn nguyên b ản c ủa nó, các liên k ết đ ưa bạn tới văn bản gốc có trong phần Chú thích. Tôi đã thay đổi danh tính và một số chi tiết có th ể dùng để nh ận di ện nh ững ng ười có trong các câu chuyện mà họ kể cho tôi, cũng như trong các câu chuyện của chính tôi v ới t ư cách m ột lu ật s ư và m ột nhà tư vấn. Để bảo vệ sự riêng tư của các học viên tại lớp học kỹ năng nói tr ước đám đông c ủa Charles di Cagno, những người vốn không có ý định được nhắc đến trong cuốn sách này khi h ọ đăng ký l ớp h ọc, câu chuyện về buổi học đầu tiên của tôi ở lớp học đó thực ra là m ột t ổng h ợp của vài bu ổi h ọc khác nhau; cả câu chuyện về Greg and Emily cũng vậy, được xây d ựng t ừ nhi ều cu ộc ph ỏng v ấn v ới các c ặp đôi tương tự. Ngoài việc bị giới hạn bởi trí nhớ của tôi, tất cả các câu chuyện khác đ ều đã đ ược thu ật l ại như cách chúng đã diễn ra hoặc đã được kể lại cho tôi. Tôi không tiến hành kiểm tra lại tính xác th ực c ủa những câu chuyện mà người khác kể cho tôi về chính họ, nhưng chỉ bao g ồm vào đây nh ững câu chuy ện mà tôi tin là có thật.
  16. GIỚI THIỆU Hai cực Bắc–Nam của tính cách con người Montgomery, Alabama. Ngày 1 tháng Mười Hai, năm 1955. Trời vừa chập t ối. Một chiếc xe buýt d ừng l ại bên bến, và một người đàn bà phục sức giản dị, tuổi chừng bốn mươi bước lên xe. Bà đ ứng th ẳng người, bất chấp việc đã dành suốt cả ngày hôm đó cúi gập bên bàn ủi quần áo, trong căn ti ệm may ẩm th ấp, t ối tăm của mình tại khu bách hóa Montgomery Fair. Bàn chân bà s ưng t ấy vì m ệt m ỏi, hai b ả vai đau nh ức. Bà ngồi yên lặng trên hàng ghế đầu tiên của dãy ghế dành cho ng ười Da màu, ng ắm nhìn t ừng t ốp, t ừng tốp hành khách chậm chạp lấp đầy dần từng băng ghế trống trên chiếc xe. Cho đ ến khi ng ười tài x ế đ ột nhiên yêu cầu bà phải đứng dậy và nhường chỗ cho một hành khách người da trắng. Người phụ nữ bé nhỏ chỉ thốt ra một từ duy nhất, một từ ngữ đã châm ngòi cho m ột trong những phong trào dân quyền lớn nhất của thế kỷ 20, một từ ngữ đã giúp cho nước Mỹ tìm thấy b ản ngã khác t ốt h ơn cho chính mình. Bà đã nói: “Không.” Người tài xế đe dọa sẽ báo bắt bà nếu bà không chịu làm theo yêu cầu. “Ông có thể làm thế.” Rosa Parks trả lời. Một viên cảnh sát tới nơi. Ông ta hỏi Parks tại sao bà không chịu đứng dậy. “Tại sao tất cả các người cứ mãi o ép chúng tôi?” bà chỉ đơn giản hỏi lại. “Tôi không biết”, viên cảnh sát nói. “Nhưng luật là luật, và bà s ẽ bị bắt”. Trong buổi chiều ngày diễn ra phiên tòa tuyên án Parks t ội “gây r ối tr ật t ự công c ộng”; Hi ệp H ội Vì Montgomery Tiến Bộ (Montgomery Improvement Association) tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ Parks tại Giáo đường Baptist Phố Holt, trong khu nghèo nhất của cả thành phố. Năm nghìn người t ụ t ập để ủng hộ hành động dũng cảm đơn độc của Parks. Họ lấp đầy sảnh đường nhà thờ, đông đ ến n ỗi nh ững băng ghế của sảnh đường rút cục không thể chứa thêm được nữa. Những người còn lại lặng l ẽ ch ờ đ ợi bên
  17. ngoài, lắng nghe qua những chiếc loa. Vị linh mục Martin Luther King Jr. nói v ới đám đông: “S ẽ có m ột lúc con người không thể chịu đựng được việc tiếp tục bị giày xéo bởi gót chân s ắt c ủa s ự đàn áp”, ông nói. “Sẽ có một lúc con người không thể chịu đựng được việc tiếp t ục b ị đ ẩy ra kh ỏi ánh n ắng ấm áp của mặt trời tháng Bảy, và bị bỏ lại một mình trong cái lạnh cắt th ịt của tháng M ười M ột n ơi mi ền núi An-pơ.” Ông ngợi ca hành động dũng cảm của Parks, và ôm lấy bà. Bà đ ứng đó, l ặng yên, ch ỉ s ự có m ặt c ủa bà cũng đủ để khích động cả đám đông. Tổ chức đã phát động m ột phong trào t ẩy chay xe buýt kéo dài đ ến 381 ngày sau đó. Những người dân lê bước hàng nhiều d ặm đường để đ ến n ơi làm vi ệc. H ọ đi nh ờ xe với những người mới gặp. Họ thay đổi con đường lịch sử của cả Liên Bang Hoa Kỳ. Tôi đã luôn hình dung về Rosa Parks như là một kẻ rất hiên ngang, oai v ệ, m ột ng ười ph ụ n ữ m ạnh m ẽ, quyết đoán; có thể dễ dàng đối mặt với cả chiếc xe buýt chứa đầy các hành khách v ới nh ững ánh nhìn cay độc. Nhưng khi bà mất vào năm 2005 ở tuổi 92, cơn lũ ồ ạt các bài cáo phó đăng trên các trang báo đều miêu tả bà như một người rất nhỏ nhẹ, dịu dàng, và thậm chí vóc người của bà cũng rất th ấp bé. H ọ nói bà rất “rụt rè và nhút nhát”, nhưng có “lòng dũng cảm của m ột con s ư t ử”. Các t ờ báo vi ết v ề bà đ ều tràn ngập những lời ca ngợi như “sự khiêm tốn cấp tiến” và “s ự ngoan c ường tĩnh l ặng”. Nghĩa là th ế nào khi một người có thể ngoan cường một cách tĩnh lặng? - những lời này d ường nh ư mu ốn ng ầm h ỏi. Làm thế nào bạn có thể vừa rụt rè, lại vừa thật dũng cảm? Parks có vẻ nhận rõ nghịch lý này, gọi tên cuốn tự truyện của mình là “S ức m ạnh im l ặng” ( Quiet Strength)—một tiêu đề có vẻ như muốn thách thức những nhận định của chúng ta. T ại sao im l ặng l ại không thể có sức mạnh? Và im lặng thực sự còn làm được những gì n ữa, mà trước giờ chúng ta ch ưa bao giờ chịu nhìn nhận? Cuộc sống của chúng ta được định hình bởi tính cách cũng sâu sắc như nó bị ảnh hưởng b ởi gi ới tính hay chủng tộc vậy. Và phương diện quan trọng nhất trong tính cách của một con người—“Hai cực B ắc–Nam của tính cách”, như một nhà khoa học đã nói—là ở việc chúng ta rơi vào đâu trên tr ục n ối gi ữa hai thái cực Hướng Nội—Hướng Ngoại. Vị trí của chúng ta trên thang nối này tác đ ộng t ới cách chúng ta ch ọn bạn bè và người tình, cách chúng ta bắt đầu một cuộc trò chuyện, tìm giải pháp cho nh ững s ự khác bi ệt, và thể hiện tình yêu. Nó ảnh hưởng tới sự nghiệp mà chúng ta ch ọn, và góp ph ần quan tr ọng quy ết đ ịnh
  18. xem liệu chúng ta có thành công trong sự nghiệp đó hay không. Nó đi ều khiển vi ệc chúng ta th ực hi ện thường xuyên đến đâu các hoạt động như tập thể thao, ngoại tình, làm việc hiệu qu ả mà không c ần ng ủ, học từ những sai lầm trong quá khứ, đặt những canh bạc lớn trên thị trường chứng khoán, b ỏ qua món l ợi tức thời để có được lợi ích về lâu dài trong tương lai, làm m ột nhà lãnh đ ạo gi ỏi, và đ ặt nh ững câu h ỏi như : “Nếu trong trường hợp đó thì mọi việc sẽ ra sao?” 2. Nó được phản chiếu ngay trong trục thông tin trong não bộ của mỗi con người, trong từng n ơ-ron truyền d ẫn xung đi ện, và trong t ừng góc khu ất nh ỏ nhất trong hệ thần kinh của mỗi chúng ta. Ngày nay, sự hướng n ội và h ướng ngo ại là hai trong s ố nh ững chủ đề được nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học tính cách, làm khích đ ộng trí tò mò c ủa hàng trăm nhà khoa học khắp nơi trên toàn cầu. Các nhà nghiên cứu này đã có những khám phá vô cùng thú vị, với sự h ỗ trợ đ ắc l ực t ừ nh ững công ngh ệ mới nhất; nhưng chúng chỉ là một phần nhỏ trong một lịch sử lâu dài v ề nghiên c ứu tâm lý con ng ười. Các thi gia và các nhà triết học cổ đại đã có những suy nghĩ v ề người hướng n ội và h ướng ngo ại ngay t ừ những năm tháng đầu tiên của lịch sử có thể ghi chép được. Cả hai loại tính cách này đ ều xu ất hiện trong Kinh Thánh, cũng như trong ghi chép của các thầy thuốc từ thời Hy Lạp và La Mã c ổ đ ại; và m ột s ố nhà nghiên cứu tâm lý tiến hóa (evolutionary psychologists) đã khẳng định rằng lịch sử của hai loại tính cách này còn vươn xa hơn thế nữa: vương quốc của loài vật cũng có “h ướng n ội” và “h ướng ngo ại”, nh ư r ồi chúng ta sẽ thấy, từ ruồi giấm cho đến cá vược, đến động vật linh trưởng. Cũng như v ới t ất c ả các c ặp tương hỗ khác: nam tính và nữ tính; phương Đông và phương Tây; tự do và b ảo th ủ—nhân lo ại s ẽ khác đi đến mức không thể nhận ra, cũng như suy biến đến m ột cách vô cùng, n ếu không có đ ủ c ả hai dạng tính cách khác biệt này. Có thể thấy ngay điều đó trong mối quan hệ hợp tác giữa Rosa Parks và Martin Luther King Jr : M ột nhà diễn thuyết quả quyết, hùng hồn, dữ dội từ chối nhường ghế của mình trên m ột chuyến xe buýt phân biệt chủng tộc chắc chắn sẽ không thể có cùng một tác động như m ột ng ười ph ụ n ữ khiêm t ốn, rõ ràng là thích giữ im lặng hơn, trừ khi tình huống cực kỳ cần thiết như Rosa Parks. Và Parks ch ắc ch ắn cũng không có năng lực để thu hút đám đông, n ếu bà cố đứng lên và nói v ới t ất c ả r ằng bà có m ột gi ấc m ơ 3. 2 Câu trả lời: tập thể dục: hướng ngoại; ngoại tình: h ướng ngoại; ho ạt đ ộng t ốt mà không c ần ng ủ: h ướng n ội; h ọc t ừ nh ững sai l ầm trong quá kh ứ: hướng nội; mạo hiểm những canh bạc lớn: hướng ngoại; ưu tiên l ợi ích lâu dài h ơn là ph ần th ưởng tr ước m ắt: h ướng n ội; làm m ột nhà lãnh đ ạo gi ỏi: trong một số trường hợp là người hướng ngoại, trong các tr ường h ợp khác là ng ười h ướng n ội, tùy thu ộc vào nhu c ầu lãnh đ ạo c ủa t ừng tr ường h ợp c ụ thể; đặt câu hỏi “Nếu vậy thì sao?”: hướng n ội. 3 "Tôi có một giấc mơ" (tên gốc tiếng Anh: "I Have a Dream") là tên phổ bi ến của bài di ễn văn n ổi ti ếng nhất c ủa Martin Luther King, Jr., khi ông nói, v ới sức mạnh thuyết phục của tài hùng bi ện, về ước m ơ c ủa ông cho t ương lai c ủa n ước M ỹ, khi ng ười da tr ắng và ng ười da đen có th ể s ống chung hoà thuận như những con người bình đẳng. Ngày 28 tháng 8 năm 1963, King đ ọc bài di ễn văn này t ừ nh ững b ậc th ềm c ủa Đài T ưởng ni ệm Lincoln, trong cuộc Tuần hành đến Washington vì Việc làm và T ự do. Đó là th ời đi ểm quy ết đ ịnh cho Phong trào Dân quy ền M ỹ.
  19. Nhưng với sự giúp đỡ của King, bà đã không cần phải làm thế. Ấy vậy nhưng ngày nay, chúng ta chỉ dành chỗ cho m ột ph ạm vi tính cách r ất h ẹp. Chúng ta đ ược d ạy rằng người mạnh dạn sẽ là những người tuyệt vời, và k ẻ quảng giao sẽ là k ẻ h ạnh phúc h ơn. Chúng ta tự nhìn nhận bản thân như một quốc gia của những người hướng ngoại—một điều nói lên rằng chúng ta đã mất hẳn đi nhận thức về việc chúng ta thực sự là ai. Tùy thu ộc vào vi ệc b ạn tham kh ảo nghiên c ứu nào, một phần ba cho tới một phần hai dân số nước Mỹ là những người hướng n ội—nói m ột cách khác, cứ hai hoặc ba người mà bạn biết thì có một là người hướng nội. (Cứ xét đến việc Mỹ là một trong số những quốc gia hướng ngoại nhất trên thế giới, tỷ lệ người hướng nội ở các nước khác ch ắc ch ắn cũng phải cao ít nhất như vậy). Nếu chính bản thân bạn không ph ải là m ột ng ười h ướng n ội, v ậy thì ch ắc chắn con cái bạn, nhân viên của bạn, vợ/chồng của bạn, hay người tình c ủa b ạn ph ải là m ột ng ười nh ư vậy. Nếu những số liệu này làm bạn ngạc nhiên, thì có lẽ là vì r ất nhi ều trong s ố đó luôn gi ả v ờ là nh ững người hướng ngoại. Những người hướng nội bí mật dễ dàng lướt qua bạn mà không h ề bị phát hi ện trong mỗi sân chơi, bên mỗi tủ để đồ trường học, và trong mỗi dãy hành lang của toàn thể Liên Bang Hoa Kỳ. Một số đánh lừa cả chính họ, cho tới khi một diễn biến thay đ ổi cu ộc đ ời nào đó x ảy ra—khi b ị sa thải, khi con cái lớn lên và bắt đầu rời xa, hoặc m ột món th ừa k ế kh ổng l ồ t ừ trên tr ời r ơi xu ống, m ột thứ giúp giải phóng và cho phép họ tự do phung phí thời gian để làm bất cứ thứ gì mà h ọ mu ốn—và x ốc họ trở về với đúng bản chất tự nhiên thực sự của mình. Bạn có th ể ch ỉ cần đ ưa ch ủ đ ề c ủa cu ốn sách này vào một cuộc nói chuyện với bạn bè và người quen của mình là đủ để phát hiện ra, nh ững ng ười b ạn ít ngờ đến nhất sẽ tự nhận họ là người hướng nội. Thực ra rất hợp lý khi nghĩ đến lý do tại sao nhiều người hướng n ội lại cố che gi ấu s ự r ụt rè c ủa mình đến vậy, thậm chí là ngay cả với chính bản thân họ. Chúng ta s ống trong m ột h ệ giá tr ị mà tôi g ọi là Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng ( the Extrovert Ideal)—một niềm tin có vẻ có mặt ở khắp mọi nơi rằng một con người lý tưởng với xã hội phải là một kẻ hoạt bát, xông xáo, năng n ổ, hăng hái giao du rộng rãi, và có thể hoàn toàn thoải mái khi là trung tâm của m ọi s ự chú ý. Ng ười h ướng ngo ại lý t ưởng ưa thích hành động chứ không phải tư duy; mạo hiểm chứ không phải xét đoán; và ch ắc ch ắn ch ứ không Khởi đầu với lời gợi nhắc đến bản Tuyên ngôn Gi ải phóng Nô l ệ, văn ki ện năm 1863 công b ố s ự t ự do cho hàng tri ệu nô l ệ, King đ ưa ra nh ận xét, "nh ưng một trăm năm sau, người da đen vẫn chưa được tự do." Khi s ắp k ết thúc bài di ễn văn, King r ời b ỏ b ản th ảo so ạn s ẵn đ ể trình bày m ột đi ệp ng ữ đ ầy tính ngẫu hứng, khi ông nhắc đi nhắc lại câu, "Tôi có một giấc m ơ", có lẽ theo yêu c ầu c ủa Mahalia Jackson, “Martin, hãy nói cho h ọ bi ết v ề gi ấc m ơ!”. Đây là thời khắc đẩy cảm xúc người nghe lên đỉnh đi ểm, và khi ến nó tr ở nên ph ần n ổi ti ếng nh ất c ủa bài di ễn văn: King k ể cho h ọ nghe gi ấc m ơ c ủa ông, phác họa những hình ảnh về sự tự do và bình đẳng đang tr ỗi d ậy từ vùng đất nô l ệ và đ ầy h ận thù. "Tôi có m ột gi ấc m ơ" đ ứng đ ầu danh sách 100 bài di ễn văn chính trị xuất sắc nhất nước Mỹ trong thế k ỷ 20, theo sự bình chọn năm 1999 c ủa gi ới học gi ả v ề di ễn thuy ết tr ước công chúng. (Ngu ồn: Wikipedia)
nguon tai.lieu . vn