Xem mẫu

  1. Hồi Bát Nhã Lỗi Nhịp T ừ chùa đi thẳng theo hướng về dưới phố sẽ gặp một đường xe lửa. Mỗi ngày có đến hơn hai chục lượt tàu chạy qua về. Tiếng bánh cọ vào đường ray, tiếng còi hú náo lên tận đến chùa, nhất là về buổi tối. Hồi mới vào chùa, liên tục nửa tháng điệu Sanh không được ngủ tròn giấc. Mỗi đêm thể nào cũng bị đánh thức hai ba lần khi có tàu chạy qua. Sư thầy nói phải tập cho quen đi, chứ còn ở đây là còn phải sống chung với những âm thanh náo động đó. Rồi thầy chỉ cho điệu Sanh một cách để dễ ngủ: Hãy tưởng tượng. Tiếng bánh ray nhịp xịch, xịch, xình xịch… giống như nhịp trống Bát Nhã. Còi tàu là một tiếng chuông ngân. Đêm đó Sanh làm theo cách thầy chỉ và quả thực đã ngủ được suôn giấc đến sáng. Thầy nói chùa cũng là cuộc đời ngoài kia mà thôi, mọi thứ đều có sự giống nhau. Lời nói ấy phần nào an ủi điệu Sanh những ngày đầu cạo tóc làm chú tiểu. Nhưng rồi cũng chính âm thanh ấy đã cuốn hút Sanh. Vài hôm sau điệu xin thầy cho đi coi tàu. Thầy đồng ý, cho phép điệu Sanh đi chơi vào lúc chiều, và chỉ cho đi coi một lần tàu chạy qua thôi. Sanh mừng rỡ, chạy vù ra cổng, cứ như sợ thầy đổi ý bắt ở nhà học luật. Thầy lắc đầu cười nhẹ, có thêm một đệ tử trẻ con cũng vui. Sanh được tự do, đi men theo lối mòn hướng về phía trạm gác chắn. Chỗ này giao nhau giữa đường sắt với đường bộ đông người qua lại nên phải có một trạm canh. Tiếng tàu
  2. xịch xịch đầu xa, hai nhân viên chắn gác đẩy hai barie (hàng rào sắt) ra chắn đường bộ, nhường quyền ưu tiên cho tàu hỏa sắp tới. Một chú khác cầm cán cờ nhỏ, tay nắm kẹp lá cờ vào không cho nó bay. Đấy là hiệu lệnh an toàn cho phép tàu “thông qua”. Điệu Sanh đứng sau cái barie, hồi hộp đợi chờ, chẳng khác nào đang mong ngóng một người thân ngồi đâu đó trong những khoang kia. Bây chừ thì Sanh còn chờ ai nữa chứ. Đã xuất gia đầu Phật nghĩa là đi tìm đạo, xa rời máu mủ ruột rà; cái đền đáp lại là chánh pháp giáo độ chứ không phải những vòng tay ôm rối rít. Mà hình như điệu Sanh cũng chưa hiểu được điều ấy, lúc này chỉ đơn giản là thói hiếu kỳ con trẻ và thỏa mãn ước mơ được nhìn rõ đoàn tàu lướt qua. Đoàn tàu vun vút lao đi. Thoáng chốc đã mất hút khỏi tầm mắt. Mải ngắm theo tàu, sanh lần từng bước về phía ray sắt và chạm phải chú gác chắn lúc nào chẳng hay. Người gác chắn quay lại, nhìn chú tiểu rồi cười khiến cho Sanh hết sợ. Thấy chú tiểu ngồ ngộ, người gác chắn dắt vào trong trạm canh. Sau phút ban đầu lạ lẫm, điệu Sanh đã nhanh chóng làm quen chú chỉ bằng một nụ cười hồn nhiên. Sanh hỏi chú làm gì. À, ban ngày chú cầm cờ chăn vịt. Ban đêm thì xách cái đèn kia bán trứng vịt lộn. Nói đến đấy người gác chắn trỏ tay về cây đèn hộp móc bên tường. Cả hai cùng cười to. Làm nghề của chú cần phải vui vẻ như thế mới được, chứ không là dễ ngủ gật lắm. Sanh biết chú nói đùa, trên đường về điệu cứ tủm tỉm cười. Cứ như chưa muốn về lại chùa nên Sanh tìm con đường vòng vèo chứ không đi theo lối mòn ấy nữa. Chỗ đường
  3. Sanh qua có một hồ nước nhỏ, bên cạnh là cây bồ đề cổ thụ. Dưới tán bồ đề, bốn người đàn ông đang ngồi uống rượu quanh một chiếc bàn con. Cuộc rượu xem chừng đã đến hồi vãn, nhưng tiếng chạm cốc vẫn kêu to. Mặt ai nấy đã ngà ngà, mắt díu cả lại nên chẳng để ý thấy điệu Sanh đi qua. Họ lại cụng, lại nói chuyện. * Buổi tối, như thường lệ là giờ học của điệu Sanh. Thầy hỏi điệu Sanh hồi chiều đi chơi có vui không mà về muộn thế. Sanh hớn hở kể chuyện “chăn vịt” và “bán trứng vịt lộn” của chú gác chắn. Sư thầy lặng đi, nghĩ bụng, vậy là điệu Sanh đã bắt đầu bị tập nhiễm những thú vui bậy bạ ở ngoài kia rồi. Đã thế từ nay không cho điệu ấy đi một mình nữa, những câu nói vô tình ở ngoài đời đôi khi lại là cái cớ để kéo người tu hành bỏ pháp. Thôi coi như lần đầu. Thầy lại tự dặn mình là bữa khác điệu Sanh muốn đi đâu đều phải có sư phụ đi cùng. - Mở vở ra con. Ta bắt đầu học thôi. Tiếp theo phần lịch sử đức Phật, đoạn ngài tham thiền. Sau khi uống bát sữa cúng dường của nàng Tu Xà Đề, Tất Đạt Đa xuống tắm gội ở sông Ni Liên Thuyền. Rồi Người vào xếp bằng ngồi dưới gốc cây bồ đề. Phát nguyện nếu không chứng đạo sẽ không rời khỏi cây bồ đề này. Nghe đến đấy tự dưng Sanh muốn cười, điệu mím chặt môi nhưng không được, bật cười ngay lúc thầy vừa dứt lời. Thầy nghiêm mặt, đặt cuốn sách xuống, hỏi sao cười? Sanh đáp tại hồi chiều, lúc đi về, con còn thấy một đám người ngồi uống rượu. Cũng dưới gốc bồ đề thầy ạ. Và họ cũng nói: “Không say không về!”.
  4. Thế là không ổn rồi, lại thêm một thói xấu thâm nhiễm vào trí óc trẻ thơ, trí hành của chú tiểu. Nhưng chính sư thầy lúc này cũng khựng lại. Nghe điệu Sanh nói đến rượu, bao nhiều chuyện thời niên thiếu của thầy lại hiện ra mồn một. Trước khi vào chùa, sư thầy hồi đó là một chàng thanh niên ở làng, cũng có rượu chè thù tạc với bạn bè. Mà còn uống nhiều nữa. Sau một biến cố năm hai mươi tuổi, thầy mới vào chùa và tu hành cho đến giờ. Mấy chục năm qua thầy không hề đụng đến một giọt rượu nào, thậm chí một ý nghĩ về rượu cũng không lảng vảng trong đầu thầy. Là tại chẳng có ai nhắc. Con người ta thường thế, yên lành không sao, đến lúc chạm phải quá khứ nào đấy là tất tần tật chạy ra. Sư thầy đã tu tập chừng ấy thời gian rồi, nhưng vẫn là người, còn hoài niệm vấn vương, còn nhớ nhung lưu luyến. Dĩ nhiên không ai cấm người ta nhớ thương, không ai cấm việc lục lọi lại ký ức. Nhưng, những chuyến du hành hoài niệm rất dễ níu kéo người tu hành đi ngược về phía đời thường. Mà đạo giải thoát thì không khuyến khích điều ấy. Đi tu là khó lắm chớ không phải dễ. Đâu phải cứ cạo đầu khoác áo cà sa là thành tu sĩ được. Cõi đạo nằm xen giữa cõi đời, nghĩa là lối đạo luôn song hành với đường đời thế tục, vụng về chút xíu thời những cám dỗ sẽ xen vào ngay. Vượt qua được những chướng ngại ấy sẽ đạt đến quả Lậu tận minh và chứng đạo giác ngộ. Thấy đơn giản nhưng không phải ai cũng đạt tới được. Sư thầy không có nhiều tham vọng trên đường đạo như thế, chỉ muốn làm người và vượt lên trên con người một chút thôi. Thế mà mấy chục năm rồi, thầy vẫn như cảm thấy mình còn quá nhiều sự vướng víu trần tục. Có khi đi suốt cuộc đời với áo cà sa mà
  5. chẳng tìm thấy đạo, thì có phí công không? Lẽ nào huề cả làng! Đêm đó điệu Sanh nằm bên thầy, mãi vẫn không ngủ được vì mấy chuyện vui vui hồi chiều. Sư thầy cũng xem chừng khó ngủ, dớ dẩn thế, toàn chuyện ký ức đẩu đâu. Sanh nghiêng qua hỏi: “Thầy cũng chưa ngủ à?” Sư thầy thở hắt ra một hơi thay cho gật đầu đáp lời. Chuyến tàu một giờ sáng chạy qua, nghe rõ mồn một tiếng xình xịch. Điệu Sanh nói nhỏ: - Tàu qua thầy ơi. Nhẩm theo hồi Bát Nhã cho dễ ngủ. Đấy là cách mới hôm bữa sư thầy bày cho điệu Sanh. Nhẩm theo hồi Bát Nhã. Bây giờ Sanh quay lại nhắc. Chuông trống là để thức tỉnh con người ta chớ đâu phải để ru ngủ. Phải chăng có một hồi Bát Nhã đã bị lỗi nhịp? Hai thầy trò đi vào giấc ngủ nhanh chóng ngay khi hồi tàu lắng dần và dứt xa.
  6. Nuôi Heo Trong Chùa “Chùa mà cũng nuôi heo”. Người ta nói thế không biết khen hay chê. Nhưng chắc chắn chuyện này lạ, và gây tò mò. Nhiều người đến chùa chẳng phải với mục đích viếng Phật mà chính là vì hiếu kỳ, muốn chứng thực coi cái điều đồn đại ấy có đúng không. Vớ vẩn thế! Con heo này thầy nuôi lâu lắm rồi, từ bữa mới về trụ trì đây cơ. Một buổi chiều tình cờ trong vườn chùa lạc vào một con heo, hình như nhà ai đó cúng tạ lăng mới phóng sanh. Đã phóng sanh thì chẳng lẽ bắt lại? Nhưng sao nó lại lạc vào đây. Chắc tại vườn chùa nhiều cây cối, mà ở đời cái sự trốn tránh luôn tìm nơi rậm rạp. Vậy người tu hành có phải trốn tránh không mà vườn chùa cũng rậm rạp? Lúc đầu sư thầy chẳng có ý định bắt giữ. Thầy nghĩ heo nó khôn lắm, thế nào rồi cũng tìm về cái nơi được sinh ra. Nhưng suốt hai ba hôm sau con heo vẫn đi long nhong quanh vườn, phóng uế lung tung, thi thoảng lúc thầy đang tụng kinh trong chánh điện lại nghe tiếng khịt khịt trái tai. Chẳng đặng đừng thầy phải đóng bốn cọc tre, nẹp mấy tấm ván bìa xung quanh làm thành cái chuồng. Ném vào trong ít ngọn rau khoai lang, thế là con heo chui ngay vào nhai ngon lành. Thầy khóa cửa chuồng lại, tạm thời cứ cho nó sống ở đây, mai mốt có ai đến xin thì thầy cho. Nhiều khi đấy cũng là một cái duyên, nó có mến chùa thì mới đến. Mà cũng có thể là nghiệp của con heo, trải qua mấy ngàn lần tích lũy công đức tiền kiếp mới được thế này. Và nhà Phật gọi cái đức ấy là căn tu.
  7. Nhiều người đến viếng chùa thấy lạ, rỉ tai nhau. Từ bữa đó chùa đông người đến thăm viếng hơn. Thầy nghĩ nơi này hẻo lánh, đạo Phật chưa ai biết. Nhờ con heo mà người ta đến chùa thì cũng là một điều hay. Chùa được giáo hội phong hiệu tự đàng hoàng, song, người ta quen gọi ngôi chùa heo, hơi thô thiển nhưng không thể trách. Gọi thế cũng như dân gian hay gọi tên quai nôi, mà tên quai nôi thì có đâu sang với đẹp. Cũng may heo là loài ăn chay được, chỉ cần rau ráng ngũ cốc thôi. Xong bữa cơm còn đồ thừa thầy đem đổ vào máng cho nó. Rồi thầy phát quang mảnh đất cỏ rậm sau nương chùa, trồng khoai lang. Người mới khó nuôi chứ heo thì dễ, cho gì nó ăn nấy. Ăn như heo. Thành ra có nuôi heo cũng hay, tận dụng được những thứ thừa thãi. Bậc tu hành vốn sống nhờ công đức của chúng sanh, mỗi miếng ăn phải biết quý trọng công sức lao động của người đời. Con heo lớn nhanh, thầy phải nới cái chuồng ra rộng thêm cho nó có chỗ đi lui đi tới. Nhờ chay tịnh mà con heo láng mịn, da lông mọc thưa. Chỉ có điều nó là con heo cái, dân mình hay gọi heo nái, nhưng nó có đẻ đâu mà gọi là nái. Người đến chùa vô tình buột miệng, con heo này phối đực được rồi đấy. Phỉ phui cái miệng, nhà chùa không ủng hộ chuyện đó. Trong mầm sinh có chủng tử khổ đau, có manh nha tử biệt. Sinh trụ hoại diệt là quy luật muôn đời của loài hữu tình, cũng là nghiệp chướng mà nhà Phật phải vượt qua để đạt giải thoát. Vào kỳ động dục, con heo cái cứ dũi mõm sủi đất nền, húc phá bốn bức thành, thức ăn đổ vào nó vớt vát qua quýt vài miếng rồi đẩy lật cái máng đi. Tham dục vốn là căn nguyên
  8. của mọi tội lỗi. Phá một hồi chán nó lại nằm ì ra giữa nền. Sư thầy đưa tay vuốt dọc từ đầu nó xuống tận đuôi, như an ủi động viên, như cầu mong thứ lỗi. Thầy không thể làm khác được. Có người nói như thế là ác. Trời sinh ra có đực có cái thì phải cho nó đến với nhau chớ. Nhờ sống cảnh thanh tịnh, ăn chay tịnh riết con heo cũng bớt dần cái tham đắm bản năng ấy. Cứ mùa dậy cái sau lại bớt quậy phá đi. Nhưng cội rễ si mê thì khó bỏ lắm. Nó nằm ì ra, chán ăn. Ngó đâm tội mà chẳng thể cho nó toại nguyện. Vào chùa là chấp nhận những nguyên tắc ràng buộc để về sau được giải thoát. Thôi coi như kiếp này nó chấp nhận tu hành hòng kiếp sau được đầu thai làm người. Mà kiếp người cũng khổ chớ sướng sung chi đâu. Ừ, nhưng đấy là sự đầu thai gần nhất để thăng lên cõi Phật. * Khi Sanh vào chùa cạo đầu làm chú tiểu thì con heo đã được mười tuổi rồi, ở chùa nên tuổi heo cũng gọi là tuổi đạo. Nó cũng tu mà, có khi còn tu nhiều hơn con người nữa là khác. Mỗi lần hai thầy trò tụng kinh thì con heo nằm oẹp xuống, hướng mũi vào trong chùa, tai vểnh lên như nghe kinh, mắt nhắm lại chẳng khác nào nhập pháp. Con heo được nuôi nấng và chăm sóc chu đáo. Quanh năm, ngày nào hai thầy trò cũng múc nước tắm cho nó. Mùa nóng thì tắm bằng nước giếng, mùa lạnh pha thêm nước sôi cho ấm. Điệu Sanh xắn tay áo lên, cầm một cục sỏi to cọ quanh mình con heo. Từ khi có chị bán vải, cái chị không sinh được con đã ly dị chồng ấy, đến chùa thì chị đỡ đần giúp. Dù sao có bàn tay phụ nữ mọi việc thu vén chăm bẵm cũng tốt hơn nhiều. Con
  9. heo coi chừng thích được chị chăm sóc, nó nhắm nghiền mắt lại vẻ thích thú mỗi lần được chị cọ xát lên da. Chị xoa tay vào chỗ bụng con heo, sờ mấy cái núm xám đen rồi chép miệng: “Thế này mà không đẻ đái được gì cũng buồn”. Điệu Sanh đứng bên ngoài buột miệng: “Tại thầy không cho nó đẻ đấy”. Trái ngoắc vậy đó, người muốn có con thì chẳng sinh được, kẻ sinh được lại không ai cho. Chị thèm khát mong mỏi có được cái diễm phúc làm mẹ mà chẳng được. Nhiều khi chị nghĩ nếu mình đổi phận với con heo thì có lẽ hay. Cho nó ra ngoài mặc sức sinh con, để chị vào chùa ở chay ở nể. Nhưng nghĩ là nghĩ vu vơ vậy, chớ có căn tu cả đấy. Lâu nay chị vốn là một đệ tử sùng đạo Bổn sư, một phật tử thân tín nhà chùa, năng lui tới thăm viếng và đóng góp công quả. Chỉ chừng ấy thôi thì tốt, còn cạo trọc đầu làm ni sư thì khó lắm. Con heo cái lớn hết cỡ, bụng phình xệ xuống chạm sát nền chuồng, đi lại khó khăn. Suốt ngày nó nằm một chỗ, mắt nhắm nghiền, thở nhẹ, thi thoảng co duỗi chân cựa quậy một chút cho đỡ tẻ. Những ngày chùa có lễ, bà con Phật tử đến đông, cứ vây quanh cái chuồng ngó con heo cái. Người tỏ vẻ thích thú khi ngắm lớp da dẻ trắng hồng của nó, heo nái ở ngoài nhăn nheo chớ làm sao được khuôn dung như thế. Người lại cảm thương cái phận nằm chờ vô thưởng vô phạt, lại tiếc khi ngó mấy cái núm ú tròn ở bụng heo, giống này mỗi lứa phải sinh được trên chục con bụ bẫm chứ chẳng phải chơi. Đa phần người ta mủi lòng thương, bảo thầy nhốt chi con heo, kìm giữ cái khát khao sinh nở của nó. Lạ một điều là người ta không bao giờ biết rằng cuộc sống trần tục
  10. vướng nhiều sự khổ não hơn. Chẳng thương lấy cái thân mình trong cõi cuồng mê, lại bận tâm trắc ẩn cho kẻ khác. Những ngày sóc vọng như thế chị bán vải ở miết trong chánh điện, phụ lo dầu đèn, lau quét tàn nhang, ai đưa hương hoa đến viếng thì chị nhận rồi sắp đặt. Nhất quyết chị không ra chỗ chuồng heo, cứ như thể sợ người ta nhắc đến chuyện sinh đẻ thêm buồn. Tiếng tăm ngôi chùa heo lan xa. Tiếng tốt tiếng xấu đều có. Thiên hạ đồn đại thêu dệt trăm chuyện như mộng. Người bảo con heo là hóa thân của vị Bồ Tát từ cung trời đâu suất giáng hạ nhập thế. Ai muốn cầu xin điều gì cứ đến vườn chùa, khấn thầm rồi sờ tay vào con heo là được. Kiểu như các sĩ tử đến mùa thi đổ xô vào Văn Miếu xoa đầu các cụ rùa đá để mong đỗ đạt. Thế là con heo cái lạc loài bỗng dưng được hóa thiêng. Người ta kiêng cữ, không gọi nó bằng cái tên heo phàm tục nữa mà xưng chung chung là Chú, như gọi một chú tiểu. Ai đến chùa đều nói ra vườn thăm Chú. Người ta càng sùng bái Chú chừng nào thì thầy thêm lo chừng nấy. Đạo Phật là chân tín, không chấp nhận những trò mê muội đó. Sư thầy bước ra chuồng, nhìn con heo cái nằm an nhiên, yên trí rằng nó đang thiền định. Tâm nó từng ngày lãnh nhận dần những quả đắc lợi. Chẳng có thần thánh thiêng liêng gì đâu, sư thầy chỉ nghĩ đơn giản là con heo có căn tu. Chị bán vải đến chùa thường xuyên. Cái tâm chị tốt, muốn nương tựa vào tam bảo như một bến bờ vững chắc, và chị làm thiện nguyện chỉ mong phần đời còn lại được sống an lạc, chẳng đòi hỏi gì hơn. Thế nhưng đàn bà thường nhẹ dạ cả tin. Nghe người ta bảo bữa nhờ sờ vào tai Chú mà làm ăn
  11. khấm khá lên, một cô mãn kinh nói xoa đầu Chú thì hết bệnh nhức óc… Lúc đầu chị không tin lắm. Rồi nghe thêm mấy người khác nữa kể, chị đâm hoang mang, và tin. Ở đời đôi khi điều giả nhưng nhờ người ta nói hoài mà thành sự thật. Lần thấy chị tắm cho heo, điệu Sanh hỏi: “Cô có xin Chú điều gì không? Cô tắm cho Chú hoài thể nào xin cũng được”. Vừa lúc ấy chị lần tay xoa vào phần bụng con heo. Chị nghĩ, giờ có xin cũng đã muộn. Rồi chị ngẩn ra cười méo mó, chắc mình có xin Chú cũng không thể cho, vì Chú cũng đâu có sinh được nhiệm mầu công lực ấy. Buổi chiều chị xách làn từ chùa trở về nhà. Nước mắt tự dưng chảy. Không rõ đang thương heo hay thương mình.
  12. Trò Chơi Của Khói M ỗi lần hành lễ, điệu Sanh được giao nhiệm vụ đốt nhang. Cầm bó nhang chúc xuống, bung tay cho các đầu nhang lơi khỏi nhau, điệu châm lửa. Khói trắng bay lên xông thẳng vào mặt khiến Sanh chảy nước mắt, đôi lúc lấm lem như đang khóc. Khi nhang đã cắm vào bát, điệu chắp tay lại chờ sư thầy niệm hồi mở đầu bài kinh, Sanh vẫn không ngớt nhìn lên bàn thờ, khói bay từ một chấm sáng đỏ và vòng vèo lên trên, tựa một trò chơi nhập nhằng nào đó. Qua mùa đông, sư thầy lại bận rộn hơn với những công việc bên ngoài chùa, chủ yếu vẫn là đi làm lễ cầu siêu cho các gia đình trong vùng. Ngày xưa, độ này trời lạnh, mùa giáp hạt, người chết nhiều. Vùng nghèo, chết thì chôn, dẫu có nghĩ đến việc tiếp dẫn đạo sư để linh hồn siêu thoát cũng chịu. Cái thời ấy sư thầy chưa về đây, ngôi chùa này chỉ là nơi đặt mấy lư hương lạnh tanh. Bây giờ có điều kiện hơn, người ta lại vời thầy về để làm việc hiếu, độ cho âm siêu dương thái. Nhớ những ngày đầu mới về trụ trì, thầy phải lo mọi việc, từ dọn dẹp khuôn viên, thiết trí lại chánh điện, sắp đặt bát nhang đèn dầu… Thế nhưng những việc ấy xem chừng vẫn đơn giản, khó nhất là làm cho người dân hiểu đúng đạo của thầy. Chùa có khang trang bao nhiêu, tượng Phật có rạng ngời chừng nào mà không có người tin tưởng thì cũng vô ích. Đạo Phật ra đời không phải để đặt đó, trưng ra cho người ta xem mà phải đưa đức tin vào con người để họ sống
  13. tốt hơn. Thầy hiểu điều đó, nên việc đầu tiên sau khi đã an ổn nơi ở và thờ tự, thầy bắt tay ngay vào công việc đi tìm hiểu cuộc sống dân làng. Mới đầu, người ta ngại giới tu hành, nghĩ sư thầy chắc cũng giống các ông bà lang băm chữa bệnh cùi hủi, hoặc tựa tựa mấy ông thầy đồng bóng nhảy nhảy rồi hét toáng lên như giẫm phải lửa. Dần dà, thấy bộ dạng thong dong, vẻ mặt an nhiên của sư thầy, người ta cũng tôn kính. Có khi người ta mời thầy về làm một cái lễ trong nhà, bảo thầy cúng cho cả gia đình con mạnh khỏe, làm ăn khấm khá. Thầy nhận lời, nghĩ, đừng làm mất lòng tin của người ta. Ở đời mất cái gì còn lấy lại được chứ mất lòng tin thì khó vực lại lắm. Cỗ vật giản đơn, chủ yếu bánh trái hoa quả cúng Phật, có trầm hương xông lên. Thầy tụng một bài kinh cầu an, xong ngồi lại nói chuyện với gia đình, đó mới là phần hành pháp chính. Thầy nói, đại ý, người ta muốn có sức khỏe thì bỏ bớt tham mê nhục dục, muốn giàu sang thì không gì ngoài lao động. Chứ dẫu có cầu trời khấn Phật mà tâm tánh vô minh, chân tay biếng lười thời cũng chẳng mang lại ích gì. Giảng thì giảng vậy, chứ thầy cũng không mong người ta hiểu hết, chỉ cần họ thấu được một ít thôi là được rồi. Phá vỡ đi một thành trì mê tín cố hữu trong lòng người thật khó lắm thay. Trước khi sư thầy về đây, trong vùng người ta mu mu mê mê. Động một tí ốm đau lại kêu ông thầy lang cúng để đuổi con ma gây bệnh; trong nhà có người chết thì kêu ông thầy phù thủy về triệu hồn. Sư thầy biết vậy, nhưng đâu dám bài xích trò mê tín ấy ngay được một sớm một chiều, trong khi thầy mới chân ướt chân ráo về chùa và đạo Phật hầu như chưa bao giờ được người dân ở đây biết đến. Song, thầy vẫn giữ một niềm tin chắc chắn, rằng người ta ai
  14. cũng có nhận thức, biết phân biệt đúng sai, nhận chân phải trái để mà làm theo. Ngày xưa, con đường gây dựng đạo pháp của đức Bổn sư còn khó hơn thế nhiều, trải qua hai ngàn năm trăm năm nay đạo Phật vẫn tồn tại và phát triển, há chẳng phải đấy là một căn lành? Thầy nghĩ thế để lấy cho mình động lực mà hoằng pháp. Có lần người ta thỉnh thầy về cồn Mai, bãi đất nghĩa trang chôn cất người làng, nhờ thầy tụng cho bài kinh địa mẫu. Kinh địa mẫu là kinh gì? Thầy đâu có biết. Là kinh cúng mẹ đất hay thổ địa, có người biết họ dùng để cầu cơ đó thầy. Ồ, đạo Phật không có tạng kinh đó. Tại người ta nghĩ kinh Phật ở đâu cũng tụng được, bệnh tật gì thuốc thang nấy, kiểu như mấy ông thầy phù thủy bịp bợm trước đây thường đặt ra một cách tùy tiện, hòng làm quáng gà mắt gia chủ mà thôi. Người làng không phân biệt được đâu là nghi lễ nhà chùa, đâu là nghi lễ cúng bái phong tục. Họ nghĩ đám ma có các đạo lộ để nhờ thổ thần dẫn đường linh cữu, thì nhà Phật có kinh địa mẫu. * Trong khuôn viên chùa, nằm chệch về phía bên phải là một đài âm hồn. Đài âm hồn có chuông vuông chừng mười mét vuông, xung quanh là tường xây năm lối gạch, trong đó đặt bát nhang. Tất cả nay đã cũ lắm rồi, rêu xanh bám lên trên nước xỉ xám. Ngày trước người ta xây đài âm hồn cạnh chùa là để thờ các vị thần, và dân trong vùng mỗi lần có chuyện chẳng lành, hoặc ai đi xa đều đến đây thắp hương cầu khấn. Hằng năm, cứ đến rằm tháng tám làng lại mổ heo, hong xôi đội lên cúng. Thế thì luôn thể đặt lên bàn thờ trong chùa một phần xôi thịt. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành.
  15. Người ta nghĩ chỗ nào có bát nhang thì cứ đặt cỗ mà cúng. May thay khi đó chưa có tượng Phật, hoặc do chiến tranh loạn lạc, người ta chưa kịp an vị lên trên đó một bức tượng. Từ khi sư thầy về chùa, tượng Phật đã có. Dân làng muốn làm gì trên chùa cũng đến hỏi ý kiến thầy. Thầy bảo trước mắt nên bỏ tục oản xôi thịt đối với bàn thờ Phật, cúng cỗ như thế là thiếu tôn kính Phật. Nếu có lòng thành, xin làng dâng hoa trái thôi là được rồi. Còn ngoài đài âm hồn, thì tùy quý vị, vì đấy là phần lễ của hương thôn. Vị đại bái làng vừa nghe sư thầy giảng, vừa gật nhẹ đầu, tỏ ra tâm đắc. Bữa sau họp làng, quyết như ý kiến của sư thầy. Cách đi vào lòng dân của thầy nhẹ nhàng cẩn trọng như vậy. Trước nay mỗi lần lễ ở đài âm hồn, ban hương sự của làng tự cúng, vị đại bái làm chủ lễ. Lần này có sư thầy về, người ta thỉnh thầy ra cúng cho, dù sao có thầy vẫn linh thiêng hơn. Thật khó xử cho thầy, vì cỗ vật làm mặn thì bậc tu hành đâu dám cúng. Hay thầy ra đứng chứng giám cho chúng tôi cũng được. Thú thật, kể từ ngày có thầy về, dân làng sống yên ổn hẳn, mùa màng bội thu, gió mùa thôi thốc mạnh. Lần này có thầy ra chứng lễ thì càng hay. Niềm tin nhiều khi là động lực cho con người, nhưng có lúc lại làm con người bị chèo kéo khỏi quỹ đạo vốn dĩ của mình. Bữa nay xem ra người làng đã tin cẩn thầy lắm rồi đấy. Cơ hội càng rộng mở để thầy giáo độ chúng sanh. Không ra dự lễ có khi đánh mất một lần củng cố niềm tin, lại dễ khiến dân họ nghĩ thầy làm cao. Thầy miễn cưỡng đi ra đài âm hồn, điệu Sanh cũng chạy theo.
  16. Vị đại bái nhập lễ, đọc cáo văn, rồi ban hương sự của làng thứ tự theo tuổi tác lớn đến nhỏ vào lạy. Sư thầy đứng bên nhắm mắt, tay lần tràng hạt cố gắng giữ tâm thật an nhiên, dặn lòng đừng tỏ ra bất cứ sự nao núng nào. Điệu Sanh liếc sang cái đầu heo, chỉ thấy vui vui chứ không thèm. Nhưng ngó tới mâm xôi đầy, thì… nuốt nước miếng như thằng Bờm khi xưa thấy cục xôi của phú ông. Người ta cắm thêm nhang vào quanh đài âm hồn, cho các vong linh vất vưởng thêm chút hơi ấm. Khói xông lên, điệu Sanh lại chảy nước mắt. Xem chừng điệu ấy sắp khóc đến nơi rồi. Khi xong lễ, sư thầy vái chào các cụ rồi đi lẹ vào tịnh thất, mắt cũng rơm rớm. * Nhà người ta có con chết nước mùa lũ, cũng nhờ thầy về làm lễ triệu hồn, gọi hồn về nhập với xác. Thầy bảo không được đâu, nên tụng kinh cầu siêu chứ sao lại gọi hồn về chi nữa. Cầu siêu là sao? Là để cho linh hồn được siêu thăng về miền tịnh độ, cho họ thoát khỏi khổ đau cõi người, chứ triệu hồn về nhập với xác rồi giữ họ dưới đất ấy à. Gia chủ nghe thấy phải, chấp thuận. Phần nhạc lễ trong cúng cầu siêu phải có thêm một chiếc tang (vật nhỏ như cái đĩa con dẹt, bằng đồng, cán trúc). Hồi năm ngoái thầy kiếm được một miếng đồng ở quầy phế liệu, đem về dùng đá tán một buổi chiều mới được. Rồi thầy dạy cho điệu Sanh cầm một nan tre cong để gõ tang. Nhịp gõ khi mạnh khi nhẹ, sao cho âm đồng vừa đi đúng mạch bài kinh, vừa có tác dụng làm vơi khổ đau của quý thân chủ. Khi người sống an tâm, không còn lưu luyến nuối tiếc nữa
  17. thì linh hồn mới đặng siêu thoát. Ý nghĩa tiếng gõ tang là thế. Điệu Sanh đứng bên thầy gõ tang. Trong nhà gia chủ cứ thắp nhang từng bó, cho rằng đốt càng lắm nhang thì lời nguyện cầu càng linh. Khói bay lên nghi ngút, thi thoảng gió vợt qua, bao nhiêu khói cứ vỗ vào mắt chú tiểu. Sanh nhắm mắt lại, cố gắng đừng để nan tre trong tay không lạc nhịp tang. Thế mà đôi khi vì quá cay mắt, điệu phải dừng lại đưa tay quệt dưới chân mày thật nhanh rồi mới gõ tiếp được. Hai bên bàn thờ treo rất nhiều đồ vàng mã: áo quần, mũ mão, giày dép, gương lược, hòm rương… tất cả đều bằng giấy màu, làm y như thật. Mỗi thứ như thế có đến năm sáu bộ, nghe nói về dưới ấy, còn phải chia chác cho các quan giữ cửa âm ty nữa nên mới dâng cúng nhiều thế. Không rõ ai chết rồi quay về báo mộng cái trò mua chuộc này, hay là thấy chốn người sống có sao thì cõi người chết y vậy. Trần đời đang rỉ tai nhau chuyện bây giờ cứ là phải quà cáp đút lót thì việc mới xong. Sư thầy không cấm đoán được việc đó, âu cũng bởi cõi người còn chìm ngập trong cảnh tranh tối tranh sáng, mình thầy ở chốn vắng đạo này thật khó lòng lôi người ta ra khỏi mê tín và cám dỗ ngay được. Cuối lễ, gia chủ đem hóa vàng tất cả mớ lủng lỉnh đồ giấy. Cứ chọc que vào mà cời cho lửa bén, tàn đen bay lên mù mịt, khói xám lôm côm đè nhau bươn lên trời. Khói xoáy vào mắt đầm đìa. Con ơi con, nhận đi mà mặc, dưới kia lạnh lắm phải không? Thầy bảo, đốt thế không sợ con nó cảm thấy đủ đầy quá mà ở mãi dưới địa ngục âm ty à? Chi bằng tĩnh tâm nguyện cầu mười phương hộ trì sáu căn, cải nghiệp cho hồn được lên cõi
  18. cực lạc. Gia chủ nín thinh, nghe chừng cũng lọt tai, nhưng lần sau đâu lại vào đấy, vẫn cứ sắm sửa cho nhiều rồi đốt thành tro. Càng ngày người ta càng làm ra nhiều thứ hàng mã y như thật, đến cả ô tô xế hộp cũng có. Mỗi lần thầy làm lễ tại gia xong, ra về, thể nào người ta cũng đùm một túi hoa quả cho điệu Sanh. Chú tiểu xách túi quà lủng lẳng, ngồ ngộ, hai con mắt đỏ hoe vì khói. Hai thầy trò quảy túi nải, trở về chùa, phía sau khói vẫn chưa ngơi, phía trước cánh đồng vừa xong mùa gặt, ai đó đốt rơm cho khói bay lên trời kết mây xám. Buổi trời râm râm ủ ê. Điệu Sanh đưa cái túi quà lên ngắm nghía. Nhiều quá thầy ơi! Ăn sao hết đây? Thầy trả lời vu vơ, cứ như là đang nói với chính mình: của chúng sanh trả ơn, ăn thì cũng hết, chỉ có điều sợ không làm sao thỏa lòng người thì khó mà nuốt cho trôi.
  19. Lạc C ứ ra Giêng sư thầy lại vào thất như một nguyên tắc thiền định để bắt đầu kế hoạch tu hành của một năm. Thường thì sau nguyên tiêu, vào một ngày sương phớt nhẹ và nắng ửng hồng, thầy gói ghém ít tư trang rồi khởi thân từ sáng sớm. Mỗi lần nhập thất thầy lại hoàn thành một bộ pháp thoại để truyền giảng trong mùa an cư kiết hạ sắp tới. Riêng mùa thất năm nay thầy còn thêm ý định là muốn lánh đi đâu đó một thời gian. Điều này chỉ thầy biết mà thôi. Thầy không nói ra với ai, kể cả với người mà thầy muốn họ hiểu. Đấy là chị bán vải. Nói với chị điều ấy chắc chị buồn lắm. Chị luôn coi thầy là chỗ dựa tinh thần, một nơi an toàn để trút ra những tâm tư thế thái và nhận về niềm an ủi để thong dong đi hết cuộc đời cô đơn còn lại. Nhưng sự đời vốn không đơn giản thế. Một khi con ong đã tìm thấy hoa thơm thì ắt hẳn nó muốn lấy mật. Mà hoa ấy sinh ra không phải để rủ rê loài ong, lại càng không phải chỉ để ứa ra chất ngọt quyến rũ. Thầy từng giảng về thuyết vô thường cho chị nghe. Rằng ở đời mọi sự biến hóa khôn lường. Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Đừng quá tin vào bản thân mình, khi mà người ta chưa vượt qua tự ngã thì lý trí khó điều hành nổi ham muốn. Nói điều ấy là lời răn cho cả thầy và chị. Phía bên ngoài thất, sư thầy kê ba hòn đá vững chắc làm cái đầu rau đun lửa. Buổi sáng thầy dậy sớm nấu nước sôi và thực hành nghi thức thiền trà thay cho điểm tâm sáng.
  20. Cơm trưa thì điệu Sanh đưa từ dưới chùa lên. Buổi chiều thầy tự nấu cơm, ăn với muối mè hoặc nước tương đậu. Nghe kế hoạch vào thất của thầy, chị bán vải có vẻ áy náy, bảo thầy ăn uống như thế chắc không đủ sức khỏe để ngồi thất và làm việc đâu. Thầy cười, hành đạo ở trong tâm mình thì câu nệ gì chuyện ăn uống. Người ta đói đôi khi là do cứ mải nghĩ đến miếng ăn, chị ạ, nhiều lúc cái ruột rỗng mà trí tuệ thông suốt thì cũng chẳng thấy đói. - Con xin phép thỉnh thoảng được cúng dường thầy một bữa cơm chiều. Coi như chút công quả trong mùa nhập thất. Cũng là dịp để nghe thầy nói pháp. Được không thầy? Sư thầy cảm thấy hơi choáng trước ý nguyện của chị. Cho chị lên thất chẳng khác nào mượn chỗ cho hổ gầm gào. Ai biết được ở nơi tĩnh mịch chuyện gì sẽ xảy ra. Dễ cầm lòng được chăng khi mà trời ở trên cao đất ở dưới thấp rừng cây che khuất. - Thế phiền chị quá! Mà chị chưa quen đường khó đi lắm – Thầy nói, có ý thoái thác công đức phò trì của chị. - Con cứ đi theo đường mòn là tới thôi chứ gì? - Thì một đúng vậy. Từ chùa dẫn lên thất chỉ có một lối mòn, nhưng không phải cứ cắm đầu đi thẳng là tới được. Coi chừng lạc lối lúc nào chẳng hay. Ý thầy không phải nói tới cái sự lạc của bước chân. Bàn chân đi theo sự điều hành của lý trí. Mà lý trí liệu nếu không sáng suốt thì tư tưởng dễ lệch lạc. Chị vẫn cứ nằng nặc đòi lên thất gặp thầy. Nghĩ cũng cam go đây. Thật khó lòng từ chối. Không có lý do nào ngăn cản được chị. Nếu thầy nói thật lòng mình là muốn tránh chị một thời gian thì phũ
nguon tai.lieu . vn