Xem mẫu

phần thứ ba

24
S au lần đó, McMurphy làm chủ được tình thế khá lâu. Mụ y tá đang

chịu đựng trong lúc tìm cách lấy lại quyền lực. Mụ biế ́t là vòng một đã bị
phơi áo và vòng hai cũng đang bị dẫn điểm, nhưng mụ không vội. Ðiều cốt
yếu nhất là quyết định xuất viện cho hắn thì mụ không có ý định làm; cuộc
đọ sức này có thể kéo dài bao nhiêu cũng được, chừng nào hắn chưa phạm
sai lầm, chưa đầu hàng, hay mụ chưa tìm ra chiến thuật mới để giành lại ưu
thế đã mất.
Trong lúc mụ mày mò với chiến thuật của mình thì nhiều sự kiện đã xảy
ra. Sau thời gian có thể tạm gọi là lùi vào hậu trường nghỉ ngơi và
McMurphy lại bước ra, tuyên bố sự quay lại võ đài của mình bằng việc đập
vỡ kính, cuộc sống trong khoa sinh động hẳn lên. McMurphy tham gia vào
mọi cuộc họp, mọi cuộc tranh luận, kéo dài giọng nói, nháy mắt, đùa cợt thả
cửa, cố gây cho được một tiếng cười héo hon ở tụi Cấp tính, kể cả những gã
đã khiếp nhược tới độ không dám nhếch mép từ năm mười hai tuổi. Hắn lôi
kéo đủ người cho một đội bóng rổ và tìm được cách thuyết phục gã bác sĩ để
mình lấy một quả bóng ở cung thể thao cho tụi Cấp tính tập chơi. Mụ y tá
phản đối, mụ bảo ngày mai chúng sẽ đá bóng ở ngay trong phòng chung hay
chơi polo ngoài hành lang, nhưng lần này bác sĩ không chịu nhường và bảo
cứ để họ chơi. “Bà Ratched, từ ngày có đội bóng rổ, nhiều bệnh nhân có tiến
triển hơn. Tôi cho rằng môn thể thao này đã chứng tỏ giá trị về mặt trị liệu.”
Mụ nhìn gã kinh ngạc hồi lâu. À, gã cũng muốn biểu dương sức mạnh với
mụ đây. Mụ sẽ nhớ lấy giọng điệu này và sẽ có ngày gã biết tay mụ. Nhưng
lúc này mụ chỉ gật đầu rồi quay về buồng kính với những núm điều khiển của
mình. Đám lao công đã đặt một miếng các tông thay vào ô kính vỡ trong lúc
chưa cắt được mảnh cửa kính nào vừa cỡ, và ngày nào mụ cũng ngồi đó cứ
như nó không hễ làm vướng tâm mắt của mụ, như mụ dễ dàng nhìn xuyên
qua nó và vẫn thấy rõ cả phòng chung. Đằng sau tấm các tông hình chữ nhật
mụ y tá trông như một bức tranh quay mặt vào tường.
Mụ chờ đợi và im lặng, còn McMurphy sáng sáng vẫn mặc quần đùi với
những chú cá voi màu trắng lông nhông ngoài hành lang, tung đồng xu
trong phòng ngủ hay ngậm chiế ́c còi trọng tài mạ kền dạy cho tụi Cấp tính
thực hiện những đường phản công dài từ của phòng ngủ đầu này đến tận của

Buồng Cách ly đầu kia hành lang, những cú sút như những phát đạn đại bác
bắn quả bóng đi khắp hành lang trong khi McMurphy với phong cách chỉ
huy của một viên hạ sĩ hét vang: “Giữ nguyên cường độ, nào, các vận động
viện, giữ nguyên cường độ!”
Cả hai nói năng với nhau nhã nhặn không để đâu cho hết. Hắn rất lịch sự
hỏi mụ rằng có thể mạn phép mượn chiếc bút của mụ thảo lá đơn xin đi nghỉ
không có người kèm được chăng, rồi viết trên bàn ngày trước mặt mụ, rồi trả
lại chiếc bút, đưa luôn lá đơn và nói nhẹ nhàng: “Rất cảm ơn”, rồi mụ xem
qua và cũng nhã nhặn hứa sẽ “bàn với các nhân viên”, một việc mất khoảng
ba phút, rôi mụ quay về và nói với hắn rằng, rất tiếc nghỉ vào thời gian này
không được coi là có giá trị trị liệu. Hắn cảm ơn mụ và đi ra, thổi chiếc còi
ré lên tưởng làm nứt cả cửa kính mười dặm quanh đó: “Tập đi, tập đi, các
chàng trai ẻo lả, vận động lên!”
Hắn điều trị trong khoa đã một tháng và có quyền ghi tên, đăng ký đi
nghỉ có người kèm lên bảng thông báo treo ở hành lang để cuộc họp tiế ́p
đó sẽ quyết định được đi hay không. Hắn đứng trước bảng thông báo, tay
cầm chiếc bút của mụ y tá, tiếp theo dòng NGƯỜI ĐI KÈM, hắn ghi: “Một
cô nương ở Portland tên Candy Starr” và làm gãy ngòi bút ở dấu chấm cuối
cùng. Sau đó vài hôm, đúng vào ngày người ta thay cho Y tá Trưởng tấm
kính mới, vấn đề đi nghỉ của McMurphy mới được đem ra thảo luận, và sau
khi bị từ chối bởi lý do với tư cách người đi kèm, chắc gì cô Stan đã có thể
gây ảnh hưởng tốt đến bệnh nhân, McMurphy nhún vai nói đời là thế đấy,
rồi đứng dậy đi về buồng trực và lại thụi vỡ tấm kính còn nguyên nhãn ghi
tên hãng sản xuất, và trong khi máu còn đang chảy ra từ các ngón tay; hắn
giải thích cho mụ là tấm các tông đã bị tháo đi và hắn ngỡ đó là một khung
cửa trống. “Chúng kịp lắp tấm kính khốn nạn này vào từ bao giờ thế nhỉ?
Đây quả là một trò nguy hiểm.”
Mụ y tá ngồi trong hộp kính dùng băng dính băng bó cho McMurphy
trong khi Scanlon và Harding moi từ thùng rác ra tấm bìa các tông, lắp lại
vào khung bằng chính cuộn băng dính đang dùng dán lên ngón tay và cổ tay
McMurphy. McMurphy ngồi trên ghế đẩu, mặt nhăn nhó trong lúc vế ́t
thương đang được chăm sóc, nhưng qua đầu mụ y tá vẫn nháy mắt đùa
nghịch với chúng. Gương mặt mụ điềm tĩnh, cứng đờ như được tráng men,
tuy nhiên vẻ căng thẳng vẫn cứ lộ. Cứ nhìn động tác siết chặt miếng băng
hết mức có thể thì rõ sức chịu đựng, độ lì lợm của mụ không còn nguyên
vẹn.
Chúng tôi tập trung ở phòng thể thao để xem trận đấu giao hữu giữa đội
bệnh nhân - Harding, Billy Bibbit, Scanlon, Fredrickson, Martini và
McMurphy (máu đã cầm, hắn có thể ra sân được) - và đội nhân viên. Hai đứa

hộ lý đa đen cao lớn của khoa tôi chơi cho đội nhân viên. Chúng tỏ ra là
những cầu thủ xuất sắc nhất trên sân, cả hai đứa lên tham gia tấn công rồi lùi
về phòng ngự nhịp nhàng như đôi bóng gắn thân thể đỏ, ghi hết bàn này
đến bàn khác chính xác như những cỗ máy. Ðội nhà, ngoài McMurphy toàn
những đứa nhỏ con, yếu đuối và chậm chạp, còn Martini luôn chuyền bóng
cho những người mà ngoài hắn ra chẳng ai thấy cả, để cuối cùng đội nhân
viên thắng đậm, dẫn trước hai mươi điểm. Nhưng kết cục, chúng tôi ra khỏi
phòng thể thao với tậm trạng của kẻ chiên thắng: trong một pha tranh bóng,
hộ lý Washington ăn một cùi chỏ vào giữa mặt, khiến cả đội nhân viên phải
ghì chặt để hắn không lao vào McMurphy đang ngồi nguyên trên quả bóng,
không thèm để ý đến máu đang chảy thành dòng từ cái mũi to bè của
Washington xuống ngực như những giọt sơn lăn trên tấm bảng đen, hắn vừa
giãy giụa trong tay tụi hộ lý vừa la: “Hắn muốn khiêu khích mà, hắn muốn
khiêu khích mà, đồ đểu!”
McMurphy lại ngồi thảo thư dán vào bồn đái cho mụ y tá đọc qua gương.
Hắn viết những câu chuyện dài dòng nhẩm nhí về chính mình vào sổ trực rồi
ký tên Vô danh. Đôi lúc hắn ngủ đến tận tám giờ. Mụ sẽ nhẹ nhàng cảnh cáo
hắn, còn hắn đứng im lắng nghe tỏ vẻ hối lỗi, nhưng khi mụ vừa kết thúc bài
phê bình thì lập tức hắn hỏi mụ đeo nịt vú loại nào, cỡ bốn, cỡ năm hay nói
chung, không đeo?
Tụi Cấp tính lấy đó làm gương. Harding chọc ghẹo tất cả các nữ y tá
thực tập, còn Billy Bibbit thôi không viết vào sổ trực cái gọi là “những quan
sát” của hắn nữa, và khi tấm kính mới lại được lắp vào trước bàn của mụ y tá,
lần này có vôi vạch chéo một hình chữ thập lên đó để McMurphy thôi
không giả vờ nhầm lẫn mà đập vỡ nữa thì vệt vôi chưa khô Scanlon đã làm
vụn tấm kính bằng một cú đập bóng bay thẳng vào đó. Quả bóng xì hơi, và
Martini lượm lên như một chú chim trúng đạn và mang vào phòng kính nơi
mụ đang ngồi nhìn những mảnh vụn mới ngổn ngang trên bàn, hắn hỏi mụ
xem có thể dùng băng đính hay bằng cách nào đó chữa chạy cho quả bóng
sống lại được không? Không nói một lời, mụ giật quả bóng ném vào sọt rác.
Mùa bóng rổ thế là kết thúc, McMurphy quyết định chuyển sang câu cá.
Hắn giải thích với gã bác sĩ rằng tụi bạn hắn ở Florence bên bờ vịnh Siuslaw
bằng lòng dẫn tám, chín đứa ra biển câu cá. Rồi hắn viết lên bảng thông báo
là trong chuyến đi này hắn sẽ được “hai bà cô già dễ thương ở ngoại ô thành
phố Oregon” đi kèm. Phiên họp quyết định cho hắn nghỉ vào Chủ nhật tới.
Mụ y tá trịnh trọng đánh dấu chuyến đi vào sổ trực nhưng sau đó lại lôi khỏi
giỏ mảnh cắt của một tờ báo buổi sáng, đọc to lên cho tất cả cùng nghe rằng
dù năm nay số lượng người đánh cá đọc theo bờ biển Oregon nhiều chưa
từng có, cá hồi lại đẻ muộn và biển thời kỳ này thường có sóng dữ. Mụ

khuyên chúng tôi nên nghĩ kỹ trước khi quyết định. “Một lời khuyên bổ ích,”
McMurphy nói. Hắn nhắm mắt, hít một hơi dài qua kẽ răng. “Hay lắm!
Chúng ta sẽ được nếm vị mặn chát của muối khi biển động, sẽ thách thức với
bão tố, với những con sóng đánh vào mũi tàu. Ðó là nơi mà người đàn ông là
người đàn ông và con tàu là con tàu. Bà Ratched, bà đã hoàn toàn thuyết
phục được tôi. Tối nay tôi sẽ gọi điện thuê tàu ngay. Tôi ghi thêm tên bà
nhé.”
Thay cho trả lời, mụ đi dán mảnh báo lên tấm bảng thông báo.
Ngày hôm sau, McMurphy bắt đầu lập danh sách những kẻ muốn đi và
thu mỗi đứa mười đô la cho việc thuê tàu, còn mụ y tá cẩn thận thu góp
những mảnh báo về những vụ đắm tàu và những cơn bão bất ngờ trên vùng
biển chúng tôi. McMurphy nhổ toẹt vào những mảnh báo và nói rằng cả hai
bà cô hắn gần suốt cuộc đời lênh đênh trên sóng nước, đã qua không biết
bao nhiêu cảng, đã từng đi tàu với đủ loại thủy thủ, họ hứa là chuyến ra khơi
này sẽ thuận buồm xuôi gió, chẳng phải lo lắng gì. Nhưng mụ y tá biết rõ
các con bệnh của mình. Những mảnh báo làm chúng sợ hơn McMurphy
nghĩ. Những tưởng cả bọn sẽ tranh nhau đăng ký, nào ngờ hắn phải van lạy
dỗ dành từng đứa. Một ngày trước lúc khởi hành vẫn thiếu hai, ba đứa nữa
mới đủ tiền thuê tàu.
Tôi không có tiền nhưng cảm giác mình rất muốn nhập hội. Hắn càng
nhắc đến những chuyến đi săn cá hồi tôi càng thèm khát. Tôi rất hiểu rằng
đó là điều ngốc nghếch: đăng ký, nghĩa là tự khai với tất cả rằng tôi không
điếc. Nếu tôi nghe được chuyện về tàu, về chuyến đánh cá nghĩa là mười
năm qua tôi cũng nghe được những cuộc đàm thoại của các thầy lang và
những điều đó không còn bí mật của riêng chúng nữa. Nếu mụ y tá biết tôi
đã nghe tất cả những mưu mô phản trắc chúng tuôn ra trong lúc nghĩ không
ai ở gần, mụ sẽ lao vào tôi với chiếc cưa điện trong tay và biến tôi thành câm
điếc thật sự. Tôi thèm đi quá rồi, nhưng lại cười với chính mình: Muốn
không bị điếc thật thì tôi phải giả vờ điếc đến cùng.
Ðêm trước chuyến đi, tôi cố nhớ lại là mình đã bị điế ́c như thế nào, nhớ
lại bao năm nay không ai biết rằng tôi đã nghe hết chuyện của mọi người, và
tự hỏi không rõ liệu tôi có khác đi được không. Nhưng tôi vẫn nhớ đinh
ninh một điều: tôi đã không tự giả vờ điếc, mà chính người đời ngay từ đầu
đã coi tôi là một thằng đần, mất khả năng nghe, nhìn và nói.
Và cũng không phải từ khi tôi vào viện này mới thế: người ta đã quen coi
như tôi không biết nghe hoặc nói từ rất lâu trước đó rồi. Trong quân ngũ

nguon tai.lieu . vn