Xem mẫu

BẢY NGÀY TRONG ĐỒNG THÁP MƯỜI
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê
Nhà xuất bản: Văn hóa Thông tin
Năm xuất bản: 2002

Chia sẻ ebook : http://downloadsach.com/
Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/caphebuoitoi

MỤC LỤC
Vài lời thưa trước
Tựa
Chương I: Một dịp may
Chương II: Trên sông Vàm Cỏ
Chương III: Những dân vô định cư trên một cánh đồng hoang vu
Chương IV: Tháp Mười – Thiên Hộ Dương
Chương V: Vàng và máu
Chương VI: Tổng đốc Lộc và các kinh trong Đồng Tháp
Chương VII: Đường lên giồng
Chương VIII: Sông Cửu Long
Chương IX: Một miền phong phú
Chương X: Cao Lãnh – Kinh Tháp Mười – Kinh Tổng đốc Lộc
Đoạn kết: Tương lai cánh đồng Tháp Mười
Đọc thêm:
* Trích thư Quách Tấn ngày 28.10.1971
* Trích thư Nguyễn Hiến Lê ngày 6.11.1971
* Trích Hồi Ký Quách Tấn

Vài lời thưa trước
Trong bài Tựa viết năm 1954, tác giả đã cho chúng ta biết khá rõ “số phận” đặc biệt của tác
phẩm này. Hơn hai mươi lăm năm sau, trong Hồi kí (về sau viết tắt là HK)[1], tác giả còn cho
biết thêm một số chi tiết:
“(…) bác Ba tôi[2]từ năm 1913 hay 1914, phải lẻn về làng Tân Thạnh[3] ở ven Đồng Tháp Mười
để tránh bọn mật thám Sài Gòn, rồi lập nghiệp ở đó, nên biết được cảnh hoang vu của Đồng
Tháp hồi đầu thế kỉ, kể cho tôi nghe nhiều chuyện về dân tình, lối sống, thổ sản miền đó; sau
đó tôi lại đi đo trong Đồng Tháp trong một thời gian rồi đi kinh lí nhiều lần từ Hồng Ngự tới
Tân An; về Sài Gòn tôi đọc thêm được nhiều tài liệu của Sở Thủy lợi, mua được cuốn La Plaine
des Joncs của V. Delahaye, nhờ vậy tôi biết được khá nhiều về Đồng Tháp.
Sau khi nhận lời anh Vũ Đình Hòe viết giúp tờ Thanh Nghị, tôi khảo cứu thêm các cuốn sử,
địa phương chí, các số báo Courrier de Sài Gòn năm 1865-1866, đọc tất cả những gì liên quan
đến Đồng Tháp để viết cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, nhưng sau sáu bảy tháng viết
xong thì Sở Bưu điện Sài Gòn không còn nhận đồ bảo đảm ra Hà Nội nữa vì giao thông trắc
trở, tôi đành cất bản thảo đi, đợi một cơ hội khác. Cuốn đó tôi viết công phu, nhưng sau bản
thảo mất ngay trong Đồng Tháp Mười hồi tôi tản cư về đó, năm 1946. Tôi rất tiếc, và tám
năm sau tôi phải viết lại”. (HK, tr.185)
Năm 1947, cụ Nguyễn Hiến Lê qua Long Xuyên, tạm trú nhà bà Nguyễn Thị Liệp. Ở đó cụ
dạy học và viết sách. Cuối năm 1953, cụ thôi dạy học, quay về Sài Gòn để sống bằng cây bút.
Cụ lập nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê để tự xuất bản sách của mình. Sau khi xuất bản cuốn
Tự học, một nhu cầu của thời đại, cuốn sách đầu tiên của nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê, cụ
bắt tay vào việc viết lại cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Cụ cho biết:
“Đầu năm 1954, tôi lại Sở Thủy lợi Nam Việt, gặp lại các bạn cũ và họ cho tôi tra cứu về các
tài liệu của sở về Đồng Tháp, dùng các bản đồ của sở.
Tôi lại Thư Khố Nam Kì đường Gia Long, nhờ ông Lê Ngọc Trụ[4] tìm cho những tài liệu sử,
địa về Đồng Tháp, nhất là các số báo Courrier de Sài Gòn năm 1865-66, về cuộc chống Pháp
của Thiên Hộ Dương. Tất cả những tài liệu đó tôi ghi trong mục sách báo để tham khảo ở cuối
sách.
Đọc những tài liệu của Sở Thủy lợi, tôi nhớ lại rành mạch những lần tôi đo đất và đi kinh lí ở
Đồng Tháp, cho nên viết lại lần này tôi thấy dễ dàng và thích như lần trước, năm 1944.
Những đoạn trích có tính cách nên thơ, mà năm 1944 tôi đã say sưa viết, bây giờ lần lần hiện

lại trong óc, tôi chỉ việc chép lại, chắc chắn là không đúng hẳn, nhưng cũng không sai mấy.
Chẳng hạn đoạn về Tiếng nói sông Cửu Long mà sau vài sách Việt Văn cho Trung học đã
trích; đoạn tả các ghe đậu lại ở chỗ giáp nước Thủ Thừa; tả chỗ kinh Lạc Giăng (Largrange)
và kinh Cát Bích (4 bis) gặp nhau ở Gẫy[5]mà nhà văn Bình Nguyên Lộc bảo “không đi tới chỗ
thì không thể tả được như vậy”; rồi cảnh tìm vàng ở chung quanh Tháp Mười, cảnh một đầm
sen ở giữa Đồng Tháp mà thi sĩ Quách Tấn rất thích[6]; cảnh uống rượu dưới trăng trên Giồng
khiến tôi nhớ truyện Các vì sao (Les étoiles) của A.Daudet; cảnh sông Cửu Long, cảnh Chợ
Thủ, cảnh trăng và nước ở miền Cao Lãnh (Hàng Châu của Nam Việt) gợi cho tôi nhớ bài
“Xuân giang hoa nguyệt dạ” của Trương Nhược Hư, thi sĩ đời Sơ Đường; và truyện Ghen vì hò
mà một cô em đọc xong buồn rười rượi, thương thiếu phụ trong truyện trách tôi: “Anh thật
tàn nhẫn, truyện thương tâm như vậy mà anh kết một cách thản nhiên, chỉ tả công dụng của
cái phãng, không một lời than thở cho người vợ và trách người chồng”.
Tôi đáp: “Người viết chỉ cốt gợi lòng thương tâm của người đọc, chứ không kể nỗi thương
tâm của chính mình. Tôi đã đạt được rồi đấy và đã không nói thay cô, để cô suy nghĩ, như vậy
mới có dư âm trong lòng cô”.
Đồng Tháp chỉ dầy hơn một trăm trang, vừa du kí, vừa là biên khảo, tôi viết hai tháng xong,
gởi vào trong đó tất cả tấm lòng yêu cảnh, yêu người Nam của tôi. Viết xong tôi thấy khoan
khoái như làm trọn một bổn phận đối với quê hương thứ hai của tôi”. (HK, tr.349-350)
Cuốn đầu, tức cuốn Tự học một nhu cầu của thời đại, cụ giao cho nhà in Việt Hương (đường
Lê Lợi); cuốn thứ hai này, cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, cụ giao cho nhà Ban Mai
gần chợ Tân Định in ngay trong năm 1954. Tác phẩm này có thể xem là loại du kí viết về
quê hương đất nước mình đầu tiên và nó mở đầu cho loại địa phương chí xuất hiện khá
nhiều sau này. Cụ cho biết:
“Một thanh niên ở Nha Trang đọc cuốn đó rồi nảy ra ý dùng xe đạp đi thăm cao nguyên miền
Trung và viết bài đăng trên báo Tự do ngày 15-9-61. Tôi trích dưới đây một đoạn:
“Du ký viết về xứ người thì nước mình không hiếm. Nhưng viết về chính lòng đất thân yêu
thì vỏn vẹn chỉ có một cuốn: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê. Mà theo
tôi thấy, không có cuốn địa lí nào có thể hấp dẫn thanh niên và gây tác dụng mạnh bằng
những thiên du kí (…) Vì nó dễ kích thích tinh thần yêu nước của thanh niên hơn những bài
địa lí khô khan ở nhà trường (…)”.
Đa số các bạn văn của tôi cho cuốn đó tuy mỏng nhưng là một tác phẩm có giá trị, văn tươi
mà hấp dẫn, có chỗ nên thơ, gợi tình yêu quê hương đất nước trong lòng người đọc. Ông Đào
Duy Anh ở Hà Nội rất thích cuốn đó, bạn văn nào tới chơi ông cũng đem ra giới thiệu và cho
mượn đọc.
Có thể nói nó mở đầu cho loại địa phương chí xuất hiện khá nhiều trong khoảng 1960-1970”.
(HK, tr.352).

nguon tai.lieu . vn