Xem mẫu
- Đàm phán biên giới Việt - Trung và áp lực ngàn năm
công tội
Gặp gỡ và Đối thoại tuần này là cuộc trò chuyện với PGS - TS Nguyễn Hồng
Thao, Phó Chủ nhiệm UB Biên giới về cuộc đàm phán và phân giới cắm mốc
Việt - Trung kéo dài 19 năm, với những đồn đoán về công tội, và bài học tạo
dựng thế bình đẳng trong cuộc chơi với đối tác nước lớn.
Một tấc đất của đất nước không để mất
Trải qua 19 năm đàm phán, phân giới cắm mốc biên giới, năm 2010, Việt Nam và
Trung Quốc chính thức có được đường biên giới hòa bình, hữu nghị, với việc các
hiệp định về phân giới cắm mốc Việt-Trung chính thức có hiệu lực.
Nỗ lực để đi đến đàm phán thành công, thế nhưng, ngay khi kết thúc đàm phán
biên giới Việt - Trung, những nhà đàm phán Việt Nam lại phải đối mặt với những
đồn đoán trong dư luận rằng hình như Việt Nam đã nhượng bộ cho Trung Quốc
khá nhiều. Thay vì ghi công, có người đòi "hỏi tội" những người đàm phán. Là
người trong cuộc, ông có thể chia sẻ điều gì?
PGS.TS Nguyễn Hồng Thao: Vấn đề biên giới Việt-Trung đã được hai nước quan
tâm đặt vấn đề giải quyết ngay từ năm 1957. Đàm phán trực tiếp qua bốn giai
đoạn, 1974, 1977, 1978 và 1991-2010 khi các văn kiện biên giới chính thức có
- hiệu lực. Giai đoạn 1991-2010 là giai đoạn đàm phán dài nhất 19 năm liên tục.
Ngày 31/12/1999 ký Hiệp định hoạch định biên giới, ngày 31/12/2008 tuyên bố
hoàn thành phân giới cắm mốc, ngày 18/11/2009 ký Nghị định thư phân giới cắm
mốc, Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về Quy chế quản lý cửa
khẩu, ngày 14/7/2010 các văn kiện chính thức có hiệu lực.
Nói thế để thấy rằng hai bên đều đã rất nỗ lực, rất thận trọng, kiên trì, phấn đấu để
có kết quả công bằng, chính xác nhất.
Chúng tôi hiểu rằng biên giới là vấn đề thiêng liêng của mọi quốc gia, dân tộc. Đối
với dân tộc Việt Nam thì vấn đề chủ quyền lãnh thổ lại càng thiêng liêng cao cả.
Dân tộc ta từ nghìn xưa đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ và khát khao mong muốn được sống trong hòa bình, hợp tác và phát triển
với các nước láng giềng.
Sự chỉ đạo của lãnh đạo: một tấc đất của đất nước không để mất và một tấc đất của
nước bạn cũng không vi phạ m. Không phải với Trung Quốc, mà với cả Lào và
Campuchia, chúng ta đều có lập trường nhất quán, thủy chung như vậy.
Tôi rất tâm đắc lời dạy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Lịch sử chỉ xảy ra có một
lần, nhưng viết về lịch sử thì nhiều lần, bởi nhiều người để đi đến có cái hiểu thống
nhất về lịch sử. Khi đứng trước vấn đề phân chia lãnh thổ, động chạ m đến quyền
lợi dân tộc, rất nhiều người quan tâm, bày tỏ ý kiến, đó là điều đáng mừng khi
người dân thực hiện quyền công dân của mình. Nhưng cũng không thể không tránh
- khỏi có những ý kiến khác nhau nhất là khi thông tin chưa đầy đủ hay xem xét vấn
đề từ những góc nhìn khác nhau. Đã làm biên giới, thì không còn cách nào khác là
chấp nhận khó khăn thách thức, phải dám chịu trách nhiệm, đàm phán giải quyết
trên cơ sở pháp lý-chính trị, phù hợp luật pháp quốc tế.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Lịch sử chỉ xảy ra có một lần, nhưng viết về lịch sử thì nhiều lần, bởi nhiều người
để đi đến có cái hiểu thống nhất về lịch sử. TS Nguyễn Hồng Thao đứng ngoài
cùng, bên trái.
Trong công tác biên giới, chúng tôi nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của
Lãnh đạo, sự đồng thuận, đoàn kết cao, ủng hộ của các Bộ, ngành, địa phương,
nhân dân biên giới. Phó Thủ tướng Bộ trưởng Phạ m Gia Khiêm ra tận mốc 44 ở
Chi Ma, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi thị sát ở cửa sông Bắc Luân. Các lão
- thành cách mạng cũng quan tâm, đóng góp nhiều ý kiến quý báu như đồng chí Đỗ
Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn An, Trần Đức Lương.
Chỉ xin nhắc lại một kỷ niệm. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 98 tuổi còn tham gia
với chúng tôi, hỏi rất kỹ những địa danh mà Đại tướng đã đi qua trong những ngày
chỉ đạo chiến dịch biên giới, đóng góp vào phương án cuối cùng, dặn dò chúng tôi:
"Các cháu đã làm rất tốt, phải biết nắ m thời cơ, phải giữ vững chủ quyền lãnh thổ
nhưng cũng không làm gì tổn hại đến tình hữu nghị".
Kết quả cuối cùng đã được đa số đồng tình ủng hộ. Làm đúng cơ sở pháp lý, phù
hợp với luật pháp quốc tế, lợi ích của nhân dân, được sự đồng tình ủng hộ của đa
số dư luận trong và ngoài nước thì sao lại phải ngại. Quyết tâm của lãnh đạo hoàn
thành phân giới cắm mốc vào cuối năm 2008 là một quyết định sáng suốt, để tập
trung vào vấn đề trên biển.
Thời gian sẽ cho câu trả lời chính xác nhất, sẽ có sự đánh giá khách quan nhất.
Đã vì đất nước thì phải dấn thân
- Còn nhớ, ngay khi hai nước kết thúc đàm phán, trên nhiều trang mạng, đã có
những thông tin (không rõ cơ sở) nói rằng Việt Nam đã mất hàng ngàn cây số
vuông đất cho Trung Quốc. Thậm chí, Việt Nam đã "cắt đất" cho Trung Quốc...
Đúng là có những thông tin như vậy. Và thực tế chính là câu trả lời rõ ràng nhất
cho những đồn đoán ấy.
Không có chuyện "Việt Nam mất đất", "cắt đất" như họ nói. Chỉ có thể giải thích
- rằng những mạng này hoặc do thiếu thông tin hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì
những ý đồ khác nhau.
Là người trực tiếp đàm phán, chúng tôi biết rõ, toàn bộ khu vực tranh chấp Việt
Nam - Trung Quốc có trên 200 km2, Hiệp ước hoạch định biên giới 1999 đã quy
thuộc về Trung Quốc 117,2 km2, quy thuộc về Việt Nam là 114,9 km2. Như vậy
các khu vực tranh chấp đã được quy thuộc một cách tương đối công bằng, có thể
chấp nhận được. Quá trình Phân giới cắm mốc chỉ là đưa đường biên giới trên bản
đồ Hiệp ước 1999 ra thực địa.
Sau 1 năm phân giới cắm mốc và 6 tháng Nghị định thư về phân giới cắm mốc,
Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về Quy chế quản lý cửa khẩu
biên giới Việt-Trung có hiệu lực (từ ngày 14/7/2010), số vụ vi phạ m về biên giới
đã giảm đi rất nhiều, giao lưu phát triển, công tác quản lý đi vào chiều sâu, hợp tác
hiệu quả.
Nếu có dịp lên thăm các làng bản biên giới, bạn cũng sẽ thấy bà con hết sức phấn
khởi.
Như vậy, thực tế đã chứng minh việc làm của chúng ta là đúng đắn, được người
dân ủng hộ. Nếu dân không ủng hộ, thì hẳn nhiên là quyết sách có vấn đề; trường
hợp ngược lại tức là hợp với lợi ích của nhân dân.
Là người đàm phán, chúng tôi hiểu áp lực rất lớn. Chúng tôi cũng hiểu rằng, phải
dám chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước dân tộc. Các Vua Hùng đã có công dựng
- nước, Bác Hồ đã đi tìm hình của nước, thế hệ chúng ta lãnh trách nhiệm trước lịch
sử "dựng hình" của nước đánh dấu bằng các cột mốc hiện đại. Đã vì đất nước thì
phải dấn thân.
Đến lúc này, chúng tôi có quyền tự hào được báo cáo với đất nước, với Nhân dân
đã hoàn thành nhiệ m vụ được giao, góp phần bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của Đất nước, tạo môi trường thuận lợi cho đất nước phát triển và hội nhập,
xây dựng tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng. Không có
chuyện để xảy ra sơ sẩy, mất đất, bán nước ở đây.
- Ngay cả khi đang đàm phán, những thông tin trái chiều, không thuận đâu phải ít?
Có những vấn đề khi đang đàm phán thì chưa thể công bố ra ngoài; lúc đó, với dư
luận trong nước, cũng chỉ còn cách thuyết phục miệng, mà nếu không được thì
đành để thời gian và lịch sử trả lời.
Ví dụ, khi kí xong 1 Hiệp định, rất nhiều người sẽ nói phải công bố ngay số liệu,
không công bố tức là có dấu hiệu mờ ám, mất đất. Thực tế có phải như vậy không?
Trên thực tế, như đường biên giới với Trung Quốc có đến 1971 cột mốc, mỗi mốc
1 bộ hồ sơ riêng. Sau khi phân giới cắm mốc xong, lực lượng kĩ thuật còn phải
kiể m tra, rà soát từng li từng tí, đối chiếu, khi tất cả đã chuẩn, đã khớp mới có thể
ra Nghị định thư. Riêng việc in bản đồ kèm theo cũng phải hàng trăm lần. Chỉ một
sai sót về mầu sắc, về độ nét to nhỏ là phải bỏ hết in lại.
Như vậy, với những số liệu chưa được kiểm định, liệu có thể công bố được chưa?
- Thành quả của quá trình đàm phán nằm trong hơn 2.500 trang tài liệu, bao gồ m cả
bản đồ và những lời văn mô tả, chứ không đơn giản như một số người nghĩ cứ
tuyên bố hoàn thành Phân giới cắm mốc là xong, là đã có đường biên giới mới.
Đến nay, khi các văn kiện về đường biên giới mới đã được phê chuẩn và có hiệu
lực theo đúng thủ tục giữa hai nước, chúng đều đã được công bố chính thức trên
các mạng của Chính phủ, mọi người có thể tham khảo
(www.biengioilanhtho.gov.vn - PV).
Điều chỉnh trên cơ sở cân bằng nhưng không nhân nhượng
Tuy nhiên, không ít người vẫn băn khoăn, trong đàm phán luôn phải có những thỏa
hiệp, nhượng bộ lẫn nhau. Trong suốt 19 năm đàm phán, phân giới cắm mốc biên
giới Việt - Trung ấy, việc thỏa thuận, nhân nhượng và thỏa hiệp như thế nào, thưa
ông?
Phải nói rằng, biên giới lãnh thổ là thiêng liêng và người làm công tác đàm phán
không bao giờ hi sinh lợi ích thiêng liêng ấy. Đàm phán về biên giới, vì thế, chưa
bao giờ là việc dễ dàng, đơn giản, thường mất nhiều năm. Như biên giới Brazil -
Chile đã phải trải qua 45 năm đàm phán, hay biên giới Nga - Trung cũng mới hoàn
thành năm 2007.
Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc là phải đàm phán hòa bình
giải quyết các tranh chấp quốc tế. Đàm phán chỉ có kết quả khi hai bên đều có
thiện chí.
- Đàm phán giải quyết vấn đề biên giới phải trên cơ sở pháp lý - chính trị, không thể
chỉ dựa vào lý trí tình cảm hay suy đoán mà phải có hồ sơ, chứng cứ pháp lý rõ
ràng, đủ sức thuyết phục. Những gì thuộc về nguyên tắc thì không thể nhân
nhượng. Với những khu vực cơ sở pháp lý - quản lý của cả hai bên chưa đầy đủ,
chưa rõ ràng, chưa đủ sức thuyết phục, tạo thành tranh chấp thì phải kiên trì đàm
phán, tìm giải pháp giải quyết công bằng hợp lý, phù hợp với các quy định của luật
pháp quốc tế và hai bên có thể chấp nhận. Thông qua đàm phán, tranh luận các bên
hiểu rõ thêm lập trường của nhau, và hiểu rõ thêm cả chính mình. Điều cốt yếu là
phải tìm ra những điể m chung nhất.
Để đạt tới mục tiêu có được một đường biên giới hòa bình hữu nghị, ổn định, hợp
tác, rõ ràng, đánh dấu bằng những Hiệp định, những cột mốc, thì cần có thiện chí,
hợp tác với nhau. Trong đàm phán cũng có những sự điều chỉnh trên cơ sở cân
bằng về diện tích và lợi ích. Điều chỉnh chứ không phải nhân nhượng.
Nói thì dễ, nhưng làm không dễ. Trong điều kiện chịu áp lực trong và ngoài nước,
trên bàn đàm phán và trên thực địa, đòi hỏi phải có bản lĩnh dám chịu trách nhiệ m,
nắm vững cơ sở pháp lý - kĩ thuật, hiểu biết sâu sắc thực địa, đào sâu nghiên cứu
mới có thể có bước đi đúng.
- Trong đàm phán, việc có cách hiểu, cách giải thích khác nhau là khó tránh khỏi.
Có khi nào không khí đàm phán căng tới mức có nguy cơ đổ vỡ?
Chuyện đàm phán đông cứng, căng thẳng là có, nhất là khi các bên đều kiên quyết
- giữ lập trường, không chịu lắng nghe. Không phải là không có những trường hợp
có bên có thể hiểu quá đi do lợi ích của mình. Phải kiên trì, đấu tranh, thuyết phục
đối tác.
Lần đàm phán cuối cùng, hai bên đã tiến hành 13 vòng đàm phán chính thức cấp
Chính phủ về biên giới lãnh thổ, rất nhiều cuộc gặp hai Trưởng đoàn, 31 vòng đàm
phán cấp Chủ tịch Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc. Càng về cuối đàm phán
càng khó khăn, phức tạp. Riêng năm 2008, hai bên đã tiến hành 11 vòng đàm phán
cấp Chủ tịch, vòng ngắn nhất kéo dài 9 ngày, vòng dài nhất 23 ngày. Có những lần,
chúng tôi đã ngồi đàm phán liên tục đến 32 tiếng đồng hồ không nghỉ. Thậm chí,
có lúc, vài chục tiếng ngồi trong phòng không phải để thảo luận, mà để "cân não".
Ngày 31/12/2008, 19g Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, trưởng đoàn đàm phán
cấp Chính phủ, thay mặt hai đoàn Việt Nam, Trung Quốc đã ra tuyên bố chung về
việc hoàn thành phân giới cắm mốc, thế nhưng, cuộc đàm phán vẫn chưa đi đến
hồi kết. Hai bên đã thống nhất về văn bản đường biên giới đi qua thác Bản Giốc và
cửa sông Bắc Luân nhưng lại phát hiện ra việc thể hiện trên bản đồ đính kèm của
hai bên có sự khác biệt. Chúng tôi tiếp tục thảo luận.
Để khích lệ anh em chuyên viên chúng tôi, trưởng đoàn ta úy lạo anh em một chai
Nếp Mới. Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường góp chai Mao Đài. Nhân đó trưởng
đoàn ta vịnh bốn câu thơ:
"Phân giới xong rồi nhẹ đôi vai
- Đêm nay Nếp Mới với Mao Đài
Việt - Trung hữu nghị tình thắm mãi
Giữ trọn niềm tin hướng tương lai".
Chúng tôi hiểu Trưởng đoàn muốn mượn thơ để nhắn nhủ: gần đến thắng lợi
không thể tránh khỏi gian nan, Mao đài và Nếp mới là tượng trưng cho sự bình
đẳng giữa hai nước, cũng có nghĩa là đêm nay còn có khác biệt, còn có hai phương
án, nhưng hai bên đều có thiện chí, đều mong muốn vun đắp tình hữu nghị thì nhất
định phải đi đến thống nhất. Tới 2h5 phút sáng 1/1/2009, hai bên mới đặt bút kí
vào biên bản và tới 4h sáng cùng ngày, những thủ tục cuối cùng mới hoàn tất, thể
hiện kết quả đúng như những gì mà chúng ta dự kiến.
Không riêng gì đàm phán, mà ngay cả khi phân giới cắm mốc cũng có lúc gặp khó.
Năm 2007, tốc độ phân giới cắm mốc chậm hẳn lại do các khu vực tồn đọng đều là
các khu vực nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời, khó giải quyết. Có tháng, có
nhóm phân giới cắm mố c không cắm được cột mốc nào. ...
Nhưng nhờ thiện chí và nỗ lực của hai bên, Việt Nam - Trung Quốc đã giải quyết
hợp tình hợp lý những khu vực tranh chấp biên giới, kết thúc việc hoạch định, phân
giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung dài 1450 km.
Lấy dân làm gốc
- Như ông đã nói, không có chuyện nhân nhượng trong đàm phán biên giới Việt -
Trung, chỉ có những sự điều chỉnh trên cơ sở cân bằng về diện tích và lợi ích. Ông
- có thể làm rõ hơn ý này?
Ví dụ, qua hàng trăm năm lịch sử, có những làng bản của Việt Nam nằm sang phía
Trung Quốc, làng bản Trung Quốc nằm sang Việt Nam; nếu cứ áp dụng đúng pháp
lý sẽ tạo ra sự xáo trộn đời sống của người dân. Người dân khi nhà cửa, mồ mả,
ruộng vườn bị ảnh hưởng do đường biên giới pháp lý đi qua, tình cảm đầu tiên
nghĩ đến là một sự xáo trộn cuộc sống của họ rồi mới nghĩ đến đó là đường biên
giới quốc gia.
Biên giới xây dựng lên cũng là nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ
đời sống yên bình của người dân. Mọi quyết định đều không thể không tính đến
yếu tố lấy dân làm gốc, dựa trên tình hình thực địa.
Trên cơ sở đó, ví dụ bản Ma Lỳ Sán (xã Pà Vày Xủ, huyện Sín Mần, tỉnh Hà
Giang) của Việt Nam nằm quá đường biên giới được hoạch định và Phân giới cắm
mốc chính thức về phía Trung Quốc trong khi 13 nóc nhà của nhân dân Trung
Quốc gần biên giới Hang Dơi (Lạng Sơn) lại nằm quá sang đường biên giới được
hoạch định và Phân giới cắm mốc chính thức về phía Việt Nam, hai bên đã thống
nhất điều chỉnh cho nhau trên cơ sở giữ nguyên diện tích để bảo đảm đời sống dân
cư. Nhân dân hai khu vực này rất đồng tình. Đây cũng là việc thường xảy ra trong
thực tiễn quốc tế khi giải quyết các vấn đề biên giới.
nguon tai.lieu . vn