Xem mẫu
- thấy được thì ta có thể giải thích mô hình bằng lời. Ngay cả những sự vật tuy đã sờ thấy,
nghe được, nhưng chưa hẳn người mù đã thấu hiểu. Nếu được giải thích thêm (bằng ngôn
ngữ) sẽ giúp người mù hiểu rõ hơn, kĩ càng hơn. Vai trò của giáo viên dạy trẻ mù chính là ở
chỗ này. Ta cần tìm hiểu sự phát triển ngôn ngữ của người mù để có biện pháp giảng dạy
tốt. Nhìn chung, ngôn ngữ của người mù cũng như ngôn ngữ của người sáng. Ngôn ngữ
phát triển đều trải qua quá trình:
- Luyện phát âm
- Tích luỹ vốn từ
- Nắm vững luật chính tả, ngữ pháp
Bên cạnh ngôn ngữ nói (phát thành tiếng) còn có ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ (nét mặt,
ngôn ngữ kịch câm,…). Khi giảm thị lực (mù), ngôn ngữ ít nhiều mang sắc thái riêng, biểu
hiện trong quá trình biến đổi, phát triển, tích luỹ và đặc biệt là thiếu hài hoà giữa nội dung
và hình thức diễn đạt. Một trong những điều kiện quan trọng để phát âm đúng là biết bắt
chước khẩu hình. Trẻ mù khó bắt chước vì không nhìn thấy sự vận động của cơ quan phát
âm của người hướng dẫn mà chủ yếu thông qua tri giác nghe để luyện phát âm. Bởi vậy,
khi học phát âm những từ khó, trẻ mù thường khó nói gấp 2 lần so với trẻ bình thường.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ mù thường khó phát âm sai các âm s, gi, tr, d,…
Ngôn ngữ phát triển kém còn thể hiện chữ viết. Những âm khó phát âm cũng dẫn tới
viết sai. Đó cũng là đặc điểm trong ngôn ngữ viết của trẻ mù.
Quá trình tích luỹ vốn từ phụ thuộc khả năng tri giác nhìn. Vốn từ ngữ của trẻ mù
thường không phong phú bằng trẻ sáng. Vì vốn từ phụ thuộc vào mức độ giao tiếp với mọi
người xung quanh, vào năng lực hiểu rõ nội dung lời nói, vào kết quả đọc sách, xem phim,
du lịch,… So với trẻ sáng, trẻ mù rất ít có các cơ hội nói trên. Điều đó càng hạn chế vốn từ
của các em.
Như ta đã biết, hệ thống tín hiệu thứ hai hình thành và phát triển thông qua hệ thống
tín hiệu thứ nhất. Với trẻ mù, mối liên hệ giữa hai hệ thống tín hiệu này thường bị gián
đoạn. Bởi vậy, lời nói của trẻ mù thường mang tính hình thức, bắt chước máy móc câu nói
của người khác. Lượng thông tin của lời nói kém, thiếu logic. Quá trình nắm bắt ý nghĩa
của lời nói thường xuất phát từ cảm thụ đặc điểm đặc điểm đối tượng, nhận dạng rồi mới
gọi tên. Có hiểu rõ nội dung mới khái quát được tài liệu cảm nhận. Chỉ trên cơ sở ấy mới
tạo nên khả năng khái quát hoá ý nghĩa lời nói, không cần phụ thuộc tính chất cụ thể nữa. Ở
trẻ mù, quá trình này thường ngược lại; các em học lỏm cách nói trước, hiểu nội dung từ
ngữ sau. Lúc đầu nghe thoáng qua các em nói có vẻ logic, hợp lí với hoàn cảnh. Nhưng
thực tế là lời nói rỗng, thiếu mối quan hệ cụ thể.
Nhờ tri giác thính giác qua quá trình học tập, giao tiếp, bắt chước người xung
quanh, con người có khả năng nắm được quy luật chính tả, ngữ pháp. Ở trẻ mù, khả năng
này phát triển tốt nếu các em được chăm sóc, giáo dục. Hạn chế lớn nhất của trẻ mù là rất
khó hiểu được ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ. Trong giao tiếp, hàng loạt cử chỉ, điệu bộ như: gật,
-9-
- lắc đầu, cau mày,… hầu như không thấy ở trẻ mù. Vì vậy, khi nói chuyện, trẻ mù thường
biểu hiện rất yếu tình cảm, xúc cảm. Có không ít người mù, khi trò chuyện, họ nói quá to
hoặc ngược lại, do họ không xác định được khoảng cách đến người đối thoại. Khi nói, họ
cũng khó xác định mặt nên quay về hướng nào cho đúng phép xã giao.
Chương 2. PHÁT TRIỂN CÁC KỸ NĂNG CHO TRẺ KHIẾM THỊ
2.1. Dạy kỹ năng định hướng di chuyển cho trẻ khiếm thị
- 10 -
- Định hướng và di chuyển là khả năng sử dụng các giác quan còn lại để xách định vị
trí của mình ở một không gian nhất định. Tìm hiểu và quyết định hướng đi, từ vị trí cố định
hiện tại đến vị trí mong muốn khác một cách an toàn, chính xác và thoải mái.
2.2.1. Kỹ thuật đi với người dẫn đường
* Kỹ thuật
- Cách nắm đúng khi đi với người dẫn sáng.
- Dấu hiệu khi được hướng dẫn: người hướng dẫn sáng sẽ dùng khuỷu tay chạm nhẹ
vào tay người mù.
Cách nắm đúng: Người mù dùng tay phải hoặc tay trái nắm lấy cánh tay của người
hướng dẫn, tỳ theo cánh tay của họ chạm nhẹ vào tay người mù.
Trên cùi chỏ (khuỷu tay) người hướng dẫn.
Ngón tay cái để ngoài, các ngón tay còn lại khép vào phía trong.
Khuỷu tay kẹp sát hông, như vậy người mù đi sau người hướng dẫn 1/2 bước (1/2
cánh tay)
Để đọc được cử động người hướng dẫn (nhận được báo hiệu) người mù không nắm
chặt quá hoặc lỏng quá
Đi thoải mái tự nhiên, theo tốc độ người hướng dẫn.
Chú ý:
- Nếu người hướng dẫn là một em bé, thì người mù sẽ đặt tay lên vai em bé.
- Nếu người hướng dẫn là một người lớn, người mù là em bé người mù sẽ nắm vào
cườm tay người hướng dẫn (cổ tay).
* Kỹ thuật đi qua lối hẹp với người dẫn sáng:
- Người hướng dẫn đưa cánh tay ra phía sau lưng, ép tay vào giữa lưng, đi hơi
chậm lại để báo hiệu qua lối hẹp.
- Người mù duỗi thẳng cánh tay và đi thẳng hàng sau người hướng dẫn cách nhau
một bước
- Qua hết lối hẹp, cánh tay người hướng dẫn sẽ trở lại vị trí cũ (sát hông) và người
mù đi trở lại bình thường (cách 1/2 bước)
* Qua thế đất gồ ghề - bước qua rãnh nước:
Người hướng dẫn dừng bước báo cho người mù biết, người mù sẽ:
- Chân bước cao (ở thế đất gồ ghề).
- Chân bước xa (bước ngang qua hào rãnh). Trước khi bước qua hào rãnh, người
hướng dẫn nên để cho người mù đứng ngang hàng với mình rồi báo mức độ rộng của hào,
rãnh cho người mù ước lượng và sau đó cùng bước một lượt với người hướng dẫn. Qua hết
người hướng dẫn báo cho người mù biết và đi trở lại như cũ.
* Kỹ thuật đi qua cửa với người hướng dẫn sáng
- Đến cánh cửa người hướng dẫn bằng lời cho người mù biết cửa đóng mở về phía
tay nào.
- Người mù đứng sau lưng người hướng dẫn một bước (duỗi thẳng cánh tay)
- Người mù phải đổi tay nếu người hướng dẫn mở cửa bằng chính cánh tay đang bị
người nắm, bàn tay rảnh đỡ phụ cánh cửa mở.
Qua khỏi cửa người hướng dẫn dừng lại chờ cho người mù đóng cửa lại rồi mới đi.
Chú ý:
- Cửa có 2 cánh khép lại hoặc một cánh lớn.
- Phân biệt cửa có 4 hướng chính: đẩy ra và kéo vào về phía tay phải, đẩy ra và kéo
vào về phía tay trái.
- 11 -
- - Cánh cửa bật có gắn lò xo.
* Kỹ thuật lên cầu thang
- Người hướng dẫn báo cho người mù biết và tiến đến bậc cầu thang dừng lại, người
mù tiến đến đứng ngang hàng với người hướng dẫn, ngón chân sát mép cầu thang.
- Quang sát cầu thang có lan can hay không.
- Dùng chân đo chiều cao và chiều dài của bậc thang.
- Người hướng dẫn bước lên một bước rưỡi, cánh tay người mù duỗi thẳng, người
mù bước lên và hơi nghiêng người về phía trước.
- Hết thang người mù cách người hướng dẫn một bước rưỡi. Người hướng dẫn tiến
đến một bước, chờ người tiến lên hết nấc thang (tránh bước hụt) rồi lại đi như cũ.
* Kỹ thuật xuống cầu thang
- Người hướng dẫn đến mép bậc thang dừng lại, người mù tiến đến dùng chân tìm
mép cầu thang và đứng ngang hàng.
- Người hướng dẫn bước xuống một bước rưỡi cánh tay người mù duỗi thẳng và
bước xuống theo.
- Xuống hết cầu thang, người hướng dẫn tiến đến một bước dừng lại chờ người mù.
Sau đó tiếp tục đi như cũ, khi xuống thang phải đi thẳng người, tránh trường hợp bị chúi
người xuống dưới dễ bị té.
Chú ý:
- Lên xuống cầu thang nên đi bên phải.
- Trong trường hợp cầu thang có nấc thang đặc biệt (nấc đầu rộng hơn, cao hơn
hoặc thấp hơn nấc thang trên) thì người hướng dẫn phải cho người mù đứng hẳn lên nấc
thang đó rồi mới dò nấc thang kế tiếp.
- Cầu thang xoắn, người mù nên đi ở phía trước mặt nấc thang rộng, không nên đi
phía trước trục tròn cầu thang vì tiết diện nấc thang hẹp (nấc thang hình tam giác) sử dụng
lan can.
- Cầu thang gỗ lên gác thường hẹp, nấc thang khít hoặc quá thưa, người mù phải sử
dụng lan can, chân bước trọn hoặc nửa bàn chân tuỳ theo nấc thang.
- Tránh đừng để người mù bị té khi thực tập dễ mất tin tưởng vào bài học.
2.2.2. Kỹ thuật sử dụng các thế tay an toàn
* Thế tay an toàn trên
- Lòng bàn tay hướng ra ngoài, đầu ngón tay giữa chạm nhẹ chân tóc ở trán.
- Từ từ đưa tay ra trước mặt khoảng từ 20 đến 25 cm
- Các ngón tay khép lại và hướng lên trời
- Vừa đi vừa di chuyển nhẹ nhàng ra hai bên để bảo vệ toàn bộ khuôn mặt
Kỹ thuật này giúp cho người khiếm thị cảm thấy tự tin và an tâm khi đi lại trong
môi trường, tránh được những chướng ngại vật ở tầm ngang mặt
* Thế tay an toàn ngang
- Cánh tay và cổ tay song song với nền nhà, gập cánh tay lại sao cho các ngón tay
che chở bờ vai bên kia và cách vai khoảng 20 – 25 cm
- Các ngón tay khép lại, lòng bàn tay hướng ra ngoài.
- 12 -
- Kỹ thuật này giúp trẻ khiếm thị tránh được các chướng ngại vật ở tầm ngang người,
bảo vệ an toàn cho trẻ khi đi qua cửa, những nơi không quen thuộc. Tìm các vật dụng thông
thường có tầm cao ngang vai
* Thế tay an toàn dưới
- Cánh tay duỗi thẳng xuống giữa người
- Các ngón tay khép lại
- Bàn tay đưa nhẹ nhàng qua hai bên để bảo vệ toàn thân
Lợi ích: Kỹ thuật này giúp người khiếm thị che chở phần dưới cơ thể khi nghi ngờ có
chướng ngại vật ở tầm thấp. Đồng thời có thể dùng kĩ thuật này để tìm những mục tiêu
thấp ngang tầm cánh tay thõng xuống như đầu gường, bàn ghế…
2.2.3. Các kỹ thuật sử dụng gậy
Đặc điểm của gậy dò đường
Người mù thường sử dụng nhiều loại gậy làm phương tiện để di chuyển:
- Gậy mây.
- Gậy tre.
- Gậy nhôm.
- Gậy gỗ các loại.
Và kích thước các gậy này thường chỉ tuỳ thích. Đó là gậy của những người mù
đang sử dụng phương pháp “tự do”.
Với kỹ thuật định hướng di chuyển của Hoover, thì gậy sử dụng phải đúng kích
thước, tính chất của gậy phải tương đối bảo đảm theo yêu cầu.
Ông Russel. C. Williams ở Nha cựu chiến binh Hoa Kỳ, đã hoàn thành tính chất đặc
biệt của cây gậy dài cứng và không nối. Những cây gậy này đã được sử dụng tại trường đại
học Western Michigan, bệnh viện Nha cựu chiến binh Hines Illinois.
Đại cương thì hình dáng của cây gậy dài gồm có đầu ngoéo, tay cầm, thân gậy, đầu
gậy.
- Đầu ngoéo: uốn cong một vòng cung 1800 song song với thân cây gậy.
- Nắp đầu ngoéo: đậy đầu ngoéo bằng một nắp plasstic hay cao su để bọc những
phần sù sì của bờ ống.
- Thân gậy: phải thẳng từ khúc ngoéo đến nút vặn đầu gậy.
- Tay cầm: gắn vào cây gậy ở điểm nơi thân cây và khúc ngoéo. Cái tay nắm này
thường giống cái tay nắm gậy đánh gôn và phải làm thế nào để luồn qua khúc ngoéo. Cây
gậy nhôm Việt Nam thì người ta dùng nhựa đen quấn vào phần trên thân cây gậy để làm tay
nắm (cầm). Tay nắm chỉ dài hơn hai tấc.
- Đầu gậy: làm bằng nylon trắng đục, nylatron hay chất tương tự. Đầu gậy gắn vào
thân gậy hoặc vặn vào thân gậy. Phần này có thể rút ra thay cái khác khi bị mòn.
- Chiều dài: đo từ đỉnh khúc ngoéo đến cuối đầu gây, thường có 3 chiều dài cần
thiết: 1,1m; 1,2 m; 1,35 m, (cho trẻ em và những người cao thấp bất thường cần phải sửa
chữa lại).
Cây gậy nặng toàn thể trung bình từ : 228g --> 285 g... trọng lượng này có thể thay
đổi
Phần bọc ngoài gậy: Gồm hai đoạn băng dán mào vàng ngà và một băng dán đỏ sát
đầu gậy để bọc ngoài thân cây gậy. Loại băng này có đặc tính phản chiếu ánh sáng để đi
đêm.
Cách sử dụng gậy dài,cách nắm gậy đúng
- 13 -
nguon tai.lieu . vn