Xem mẫu
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc giáo dục di sản - đưa các loại hình di sản văn hóa vào giới thiệu, giảng
dạy trong nhà trường là một trong những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa thường được các nhà quản lý văn hóa đề cập đến trong nhiều
năm qua.
Theo các chuyên gia, di sản văn hóa là tài sản vô giá, góp phần làm nên bản
sắc riêng của từng địa phương, từng nước; là chất liệu gắn kết cộng đồng, dân tộc;
là cơ sở để sáng tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu, hội nhập giữa cộng
đồng dân tộc và các quốc gia. Trước nguy cơ một số di sản bị mai một, mất đi; có
trường hợp bị biến dạng, không giữ được các giá trị nguyên bản, đòi hỏi các nhà
hoạt động giáo dục, văn hóa phải tìm cách tháo gỡ. Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Đặng Thị Bích Liên khẳng định, việc đưa di sản văn hóa vào dạy
trong các nhà trường cũng là cách để người địa phương biết quý trọng và bảo vệ di
sản, phát huy giá trị của di sản, tạo ra nguồn lực cho địa phương.
Nhằm góp phần giáo dục toàn diện học sinh, gìn giữ và phát huy giá trị của
di sản văn hoá vì lợi ích của toàn xã hội và truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
ban hành văn bản số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16/1/2013 về việc Hướng
dẫn sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường
xuyên. Tài liệu này sẽ góp phần hiện thực hóa văn bản này của 2 Bộ, tạo điều kiện
cho giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình sau khi đã được tiếp thu trong các đợt
tập huấn mà Sở tổ chức trước đó.
1
- NỘI DUNG
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN VÀ SỬ DỤNG DI SẢN
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN
1. Nhận dạng di sản
a. Khái niệm về di sản
Di sản văn hóa Việt nam bao gồm di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
(bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần, vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được truyền từ đời này sang đời khác.
b. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam
- Di sản văn hóa Việt Nam là sự kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng 54
dân tộc anh em, trải qua 1 quá trình lịch sử lâu đời, kế thừa và tái tạo qua nhiều thế hệ.
- Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu
và kế thừa văn minh nhân loại.
- Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể có sức sống
mạnh mẽ, đang được bảo tồn và phát huy.
c. Phân loại di sản
- Di sản văn hóa Việt Nam được chia thành hai loại: Di sản văn hóa vật thể
và di sản văn hóa phi vật thể.
Di sản văn hóa vật thể: Là sản phẩm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao
gồm di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa phi vật thể: là sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng cá
nhân, vật thể và không gian có liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể
hiện bản sắc cộng đồng và truyền từ thế hệ này sang thế hệ sang thế hệ khác.
Di sản văn hóa vật thể bao gồm:
- Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, và các giá di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
2
- - Danh lam thắng cảnh còn gọi là di sản thiên nhiên là cảnh quan thiên nhiên
hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có
giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học.
- Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hóa, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên.
- Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý
hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm:
- Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam.
- Ngữ văn dân gian, bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò vè, câu đố,
truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt
khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép chữ viết.
- Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và
các hình thức trình diễn dân gian khác.
- Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ
và các phong tục khác.
- Lễ hội truyền thống
- Nghề thủ công truyền thống.
- Tri thức dân gian.
2. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục phổ thông
Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy
học nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng.
- Góp phần đẩy mạnh hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh.
- Giúp học sinh phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức.
3
- - Kích thích hứng thú học tập của học sinh.
- Phát triển trí tuệ của học sinh.
- Giáo dục nhân cách học sinh.
- Góp phần phát triển một số kĩ năng sống của học sinh.
+ Kĩ năng giao tiếp.
+Kĩ năng lắng nghe tích cực.
+ Kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng.
+ Kĩ năng hợp tác.
+ Kĩ năng tư duy phê phán.
+ Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.
+ Kĩ năng đặt mục tiêu.
+ Kĩ năng quản lý thời gian.
+ Kĩ năng tìm kiếm, xữ lý thông tin.
- Tạo điều kiện tổ chức quá trình hoạt động của giáo viên và học sinh một
cách hợp lý.
3. Một số vấn đề khi khai thác, sử dụng giá trị các di sản trong dạy học
lịch sử ở trƣờng phổ thông
+ Mọi di sản đều có giá trị.
+ Di sản luôn ở xung quanh chúng ta.
+ Cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cán bộ nghiên cứu, cơ quan quản lý di sản.
+ Nhà trường có trách nhiệm khuyến khích, tạo điều kiện cho việc sử dụng
di sản như nguồn học liệu để trau dồi hiểu biết về di sản và rèn luyện phương pháp
học tập và kỹ năng sống cho học sinh.
II. SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY HỌC TÍCH CỰC
1. Những yêu cầu về sử dụng di sản trong dạy học tích cực
4
- - Đảm bảo mục tiêu của CTGDPT và mục tiêu GD di sản.
- Xác định nội dung và thực hiện các bước chuẩn bị chu đáo.
+ Công việc chuẩn bị (Nội dung, phương tiện, thời gian, ...)
+ Tiến hành hoạt động với di sản (Ghi chép, quan sát,...)
+ Kết thúc hoạt động (Phát biểu cảm nghĩ, ..
+ Đánh giá hoạt động (Nhận xét chung, viết thu hoạch, hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm...).
- Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh
trải nghiệm.
- Kết hợp đa dạng các hình thức thực hiện.
2. Một số phƣơng pháp dạy học tích cực sử dụng di sản
2.1. Quan niệm
2.2. Một số phương pháp truyền thống theo tinh thần đổi mới.
- Trình bày miệng.
- Sử dụng đồ dùng trực quan.
2.3. Sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại
2.3.1. Dạy học nêu vấn đề
2.3.2. Dạy học theo dự án
2.3.3. Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
3. Các hình thức dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục với di sản
3.1. Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học ở trường phổ thông.
3.2. Tiến hành bài học tại nơi có di sản
3.2.1. Các quan điểm tiếp cận
3.2.2. Nghiên cứu, khai thác di sản.
3.2.3. Yêu cầu tiến hành bài học tại di sản
5
- - Thứ nhất: Đảm bảo tốt công tác chuẩn bị( nội dung, địa diểm, kế hoạch...
- Thứ hai: Nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, bám sát
nội dung mà di sản phản ánh.
- Thứ ba: Bài học tại địa điểm có di sản phải phải phát triển được các hoạt động
nhận thức tích cực, độc lập óc quan sát, đặc biệt là tư duy độc lập của học sinh.
- Thứ tư: Bài học tại di sản phải giúp học sinh “ trực quan sinh động” các
chứng tích, hiện vật, phản ánh các kiến thức của môn học mà các em đang tìm hiểu.
- Thứ năm: Phải tổ chức cho học sinh tự học trong và sau giờ học.
3.2.4. Các bước tiến hành bài học tại di sản
- GV giới thiệu những nét cơ bản về nội dung kiến thức có liên quan đến di sản.
- Có thể mời 1 cán bộ địa phương,.... trình bày nội dung phù hợp với bài học.
- GV chốt lại những vấn đề chủ yếu, nhất là những vấn đề chủ yếu trong
chương trình học.
3.3. Tổ chức tham quan học tập tại nơi có di sản phải được tổ chức chặt chẽ.
3.4. Tổ chức tham quan ngoại khóa - trải nghiệm di sản.
3.5. Sử dụng di sản để tổ chức các hoạt động ngoại khóa.
4. Kiểm tra đánh giá việc sử dụng di sản trong dạy học
- Có thể trình bày miệng, hoặc trình bày 1 sản phẩm trên giấy, một bài báo cáo...
- Trong các bài kiểm tra định kỳ, thường xuyên nên thiết kế 1 câu hỏi liên quan...
- Trong quá trình dạy học với di sản, GV có thể hướng dẫn học sinh tự đánh
giá kết quả học tập của mình. GV nên làm mẫu nhận xét. HS có thể bắt đầu bằng
cách viết những suy xét của mình ra giấy hoặc nói với những bạn khác. Sau đó có
thể giúp học sinh tiến tới những hình thức đánh giá phức tạp hơn bằng cách GV
đưa ra những câu hỏi như:
+ Có thể cho tôi biết em đã làm gì khi tiến hành bài học tại địa điểm có di sản?
+ Ấn tượng lớn nhất trong em là gì?...
6
- 5. Quy trình thực hiện một bài học tại di sản
Quy trình được xây dựng trên cơ sở các bước, nội dung và hoạt động của mỗi
bước này hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của giáo viên. Các hoạt động cần linh
hoạt, không rập khuôn, máy móc. Quy trình này đặc biệt nhấn mạnh vào việc tổ chức
cho học sinh học tập tại di sản, có thể ứng dụng cho các giờ học trên lớp trong điều
kiện giáo viên có sự chuẩn bị tốt về nội dung di sản mình định sử dụng trong tiết học.
5.1. Bước chuẩn bị cho bài học tại di sản
- Học sinh:
+ Tự sưu tầm các tư liệu thông tin liên quan đến chuyên đề dưới sự hướng
dẫn của giáo viên : Hiện vật, ảnh, bài báo, các đoạn văn trong sách.
+ Sưu tầm trên mạng có kiểm chứng.
+ Hỏi chuyện cha mẹ, anh chị, hàng xóm,...
+ Học sinh tự đánh giá, phân tích các tư liệu đó bằng cách chia sẽ các thông
tin theo nhóm, lớp .
- Giáo viên;
+ Đọc và nghiên cứu trước tài liệu về di sản.
+ Soát xét các kiến thức học sinh đã có liên quan đến bài học.
+ Xem xét học sinh mong muốn gì với bài học.
+ Liên hệ và phối hợp với các cán bộ phụ trách di sản.
5.2. Tổ chức hoạt động dạy học
- Không bắt học sinh nghe quá nhiều hoặc chỉ thụ động trả lời câu hỏi của
giáo viên.
- Hãy để học sinh xem, tiếp cận, trải nghiệm cùng di sản.
- Tổ chức các hoạt động cho học sinh làm việc nhóm, các hoạt động cần gắn
liền với chủ đề bài học, mục đích bài học và lứa tuổi học sinh.
- Các hoạt động cụ thể gồm:
7
- + Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài học thông qua các di sản đã
được lựa chọn để học sinh được trải nghiệm và hưởng thụ
+ Giao nhiệm vụ, bài tập thông qua các hoạt động cho từng học sinh hoặc
theo nhóm.
+ Giao nhiệm vụ cho học sinh xem, khảo sát,tìm hiểu, hiểu đúng ý nghĩa, giá
trị của di sản, tìm kiếm đúng các thông tin để điền vào phiếu học tập theo chủ đề
bài học đã được soạn sẵn
+ Học sinh có thể ghi lại cảm nhận riêng của mình trong quá trình xem với
từng hiện vật hoặc từng nhóm hiện vật một cách ngắn gọn vào sổ cảm tưởng hoặc
vở của mình.
+ Các nhóm học sinh thảo luận và chia sẽ với nhau thông tin, kiến thức mới
và cảm xúc của mình theo những vấn đề mà giáo viên hướng dẫn.
5.3. Báo cáo kết quả sau khi học tập
- Cho học sinh tự trình bày thu hoạch nhóm của mình
- Khuyến khích làm việc theo nhóm
- Các hoạt động cụ thể bao gồm:
+ Tổ chức thảo luận, chia sẻ giữa các nhóm trong lớp về những thông tin thu
được trước và trong quá trình đi thăm di sản.
+ So sánh, liên hệ, đánh giá các nguồn thông tin khác nhau...
+ Mỗi học sinh tự viết thu hoạch, cảm nhận riêng của mình...
+ Giáo viên chọn ra những bài hay nhất cho học sinh trình bày
+ Cho học sinh tự tổ chức trưng bày các sản phẩm làm ra trong cả hai hoạt
động như trên: Các tư liệu, hiện vật sưu tầm được, các sản phẩm thủ công, các bài
thu hoạch, gắn với nội dung trưng bày vừa được xem.
8
- CHƢƠNG II: SỬ DỤNG TƢ LIỆU VỀ CÁC DI SẢN Ở QUẢNG BÌNH
PHỤC VỤ GIẢNG DẠY LỊCH SỬ DÂN TỘC
I. CÁC DI SẢN CÓ THỂ ĐƢỢC GIỚI THIỆU TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢNG DẠY LỊCH SỬ DÂN TỘC
- Bài 13. Việt Nam thời nguyên thuỷ
- Di tích khảo cổ học Bàu Tró.
- Di tích khảo cổ học Cồn Nền
- Bài 14. Các quốc gia cổ đại trên đất nƣớc Việt Nam
+ Di tích thành nhà Ngo.
+ Di tích thành Lồi Cao Lao Hạ.
- Bài 15. Thời Bắc Thuộc và cuộc đấu tranh giành ĐLDT (từ thế kỉ II đến thế kỉ X)
- Bài 16. Thời Bắc Thuộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (tiếp theo)
- Bài 17. Quá trình hình thành và phát triển của nhà nƣớc phong kiến
(Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)
- Bài 18. Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong thế kỉ X - XV
+ Di tích lăng mộ Hồ Cưỡng
+ Di tích lăng mộ Hoàng Hối Khanh.
+ Di tích Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc.
- Bài 19. Những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm ở các thế kỉ X-XV
- Bài 20. Xây dựng và phát triển văn hoá các thế kỉ X - XV
- Bài 21. Những biến đổi của nhà nƣớc phong kiến trong các thế kỉ XVI - XVII
+ Di tích sông Gianh.
+ Di tích hệ thống lũy Đào Duy Từ.
- Bài 22. Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI - XVII
+ Di tích lò gốm Mĩ Cương
9
- + Đền Truy Viễn Đường
+ Làng Xuân Hồi
- Bài 23. Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nƣớc, bảo vệ
Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII
- Bài 24. Tình hình văn hoá ở các thế kỉ XVI - XVIII
+ Di tích đền mẫu Liễu Hạnh.
+ Đình làng Lũ Phong
+ Di tích Đình Lí Hòa
- Bài 25. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá dƣới triều Nguyễn (nửa đầu
thế kỉ XIX)
+ Di tích Quảng Bình Quan.
+ Di tích thành Đồng Hới.
II. TƢ LIỆU VỀ CÁC DI SẢN
1. Di chỉ khảo cổ học Bàu Tró
Bàu Tró là tên một hồ nước ngọt thuộc phường Hải Thành, nằm phía Bắc thành
phố Đồng Hới. Các nhà khảo cổ học đã nhiều lần tiến hành khai quật và đã phát hiện
rất nhiều hiện vật của người nguyên thủy còn lưu giữ trong lòng đất. Qua nghiên cứu,
người ta đã khẳng định văn hóa Bàu Tró xuất hiện khoảng cuối thời đại đá mới.
10
- Đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa Bàu Tró là sự phổ biến loại rìu, bôn có
vai xuôi bên cạnh loại rìu bôn hình thang, mặt cắt ngang, thân hình bầu dục hay hình
thấu kính. Loại hình bôn thân cong chiếm tỉ lệ cao hơn rìu. Các công cụ này được làm
từ hai loại nguyên liệu chính là đá trầm tích biến chất và đá silic, được mài toàn thân
nhưng chưa hết vết ghè đẽo. Đồ trang sức bằng đá đã xuất hiện nhưng vẫn còn hiếm.
Hiến mới phát hiện 34 tiêu bản gồm vòng tay, hạt chuỗi hình ống, hình khuyên tai và
nhẫn. Trong đó vòng tay là phổ biến nhất. Điều đáng lưu ý là có một số hạt chuỗi làm
bằng đá ngọc được cưa, khoan, mài và đánh bóng trau chuốt….
Đồ gốm văn hóa Bàu Tró hết sức phong phú về loại hình và hoa văn trang
trí. Có thể khái quát thành những đặc trưng nổi bật như: Phổ biến loại gốm thô,
thành phần cấu tạo xương gốm là đất sét pha nhiều hạt cát thô và vụn nhỏ nhuyễn
thể. Loại hình đồ gốm đa dạng, bao gồm các loại: nồi, bình, vò, bát, đĩa, cốc …
Loại hình gốm đặc trưng cho giai đoạn sớm là nồi có miệng gần thẳng, đáy
nhọn, nặn bằng phương pháp dải cuộn kết hợp với bàn đập và hòn kê … Hoa văn
điển hình trên đồ gốm văn hóa Bàu Tró là văn khắc vạch kiểu khuông nhạc được
trang trí trên nền văn thừng hay chải và được coi là có mặt sớm nhất trong nghệ
thuật trang trí gốm cổ ở Việt Nam. Một đặc trưng nổi bật nữa là đồ gốm tô màu.
Có hai loại gốm tô màu: đỏ và đen. Màu đen cũng có hai loại: đen bóng và đen ánh
chì. Đây chính là điểm khởi đầu cho truyền thống gốm tô màu ở Việt Nam…
(Khảo cổ học tiền sử - sơ sử miền Trung - Tây Nguyên của Lê
Đình Phúc và Nguyễn Khắc Sử, trang 77, 78; NXB Đại học Huế - 2006)
2. Di chỉ khảo cổ học Cồn Nền
Di chỉ Cồn Nền thuộc thôn Pháp Kệ, xã Quảng Phương, huyện Quảng
Trạch. Đây là một di chỉ khảo cổ học có hiện vật phong phú bao gồm cả đồ gốm,
đồ đá, đồ đồng. Đồ đá có cuốc, rìu, bôn, đục. Kĩ thuật đẽo đá, khoan, cưa đá đã
được phổ biến tạo nên những công cụ đá có kiểu dáng đẹp, chủ yếu được làm bằng
đá silic. Đồ gốm có nồi, niêu, vò, bát… được làm bằng tay là chủ yếu, có trang trí
hoa văn thừng thô, hoa văn thừng mịn, văn song nước, hoa văn chấm gãi … Các
hiện vật tìm thấy đã chứng minh cách đây 3500 năm đến 4000 năm cư dân Cồn
11
- Nền đã có cuộc sống định cư thành làng xã lâu dài. Họ có một nền nông nghiệp lúa
nước khá phát triển; đời sống vă hóa tinh thần phong phú. Cư dân Cồn Nền đã biết
làm đẹp bằng các vòng tay, vòng cổ bằng đá, trang trí các đồ vật bằng màu đỏ thổ
hoàng, màu đen ánh chì và các loại hoa văn.
Di chỉ Cồn Nền (thuộc văn hóa Bàu Tró) là một mắt xích trong mối liên hệ
giữa hai thời đại đồ đá và đồ đồng ở Quảng Bình nói riêng và miền Trung nói chung.
(Lược theo Quảng Bình di tích và danh thắng -
Ban quản lí di tích Quảng Bình - Năm 2002)
3. Di tích Thành Lồi Cao Lao Hạ
Di tích lịch sử thành Lồi Cao Lao Hạ còn gọi là thành khu Túc nằm ở bờ nam
sông Gianh, thuộc địa phận làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch. Theo sử
cũ, thành được xây khoảng cuối thế kỉ III, được củng cố, mở rộng hơn ở thế kỉ IV.
Người Chăm sau khi giành được độc lập đã cho xây dựng nhiều thành
quách, các công trình phòng thủ quân sự nhằm bảo vệ quốc gia. Quy tắc chung của
người Chăm pa trong quá trình xây thành là họ thường chọn những nơi xung yếu,
gần cửa sông, cận biển hoặc ngã ba sông, lấy sông làm trục chính và thường nằm ở
bờ nam sông. Địa hình tự nhiên (đắc địa) được lợi dụng tối đa nhằm tăng cường
tính phòng thủ của tường thành và hào lũy; thành thường có cấu trúc kép, vòng
thành phía ngoài có khuynh hướng dựa vào địa hình tự nhiên, vòng thành bên
trong được đắp khá quy chỉnh.
Thành Lồi Cao Lao Hạ cũng được xây dựng theo nguyên tắc đó. Thành nằm
ở vị trí khá hiểm yếu bên bờ nam sông Gianh, lấy sông làm trục chính, có núi bọc
phía tây - nam sang đông - nam. Nếu bỏ qua những ngọn núi phía Tây thì vị trí của
tòa thành nằm ở điểm cao nhất, xung quanh thành là đồng ruộng phì nhiêu với hệ
thống sông ngòi khá thuận lợi về mặt giao thông, giao thương - một đặc điểm dễ
nhận thấy ở các tòa thành, đền tháp Chămpa.
Theo Thủy kinh Chú, thành được “xây giữa hai con sông Lô Dung và Thọ
Linh, chu vi 6 dặm 170 bộ, xây gạch cao hai trượng, trên lại có tường cao một
trượng, có nhiều lỗ rỗng, trên tường gạch có lát ván, trên ván dựng năm tầng gác,
12
- trên gác có nóc, trên nóc có lầu. Lầu cao7,8 trượng, tháp cũng 5,6 trượng, thành
có 13 cửa, tất cả các cung điện đều hướng về phía Nam. Chung quanh thành có
21.000 ngôi nhà, dân chúng ở bao vây chung quanh”.
Một góc hào và bờ thành Lồi Cao Lao Hạ còn lại
Theo khảo sát thực địa của các nhà nghiên cứu thì thành Lồi Cao Lao Hạ có
dạng hình chữ nhật, chiều rộng bắc nam khoảng 200m, chiều dài đông tây khoảng
270m, cao khoảng 2m, chân thành rộng khoảng 10m, mặt thành rộng 5m. Thành có
3 cửa (cửa Nam, cửa Bắc và cửa Đông). Xung quanh tòa thành là thửa ruộng hẹp
chạy vòng theo bức tường thành và thấp hơn so với các thửa ruộng xung quanh đó.
Từ vị trí địa lý với những dấu tích bờ thành còn sót lại ở thành Cao Lao Hạ, chúng
ta thấy rằng, tuy không được xây dựng theo cấu trúc kép như thường thấy ở các
thành Chăm khác nhưng có sự bao bọc của dãy núi Trường Sơn và dòng sông Son
ở phía Tây, sông Gianh ở phía Bắc đã tạo nên hào lũy tự nhiên cho tòa thành,
khiến vị trí của nó trở nên hiểm yếu, đắc địa hơn.
Năm 2005, Viện khảo cổ học và Bảo tàng Tổng hợp Quảng Bình phối hợp
tiến hành khai quật, khảo sát thành Lồi Cao Lao Hạ và phát hiện được một số hiện
vật như gạch Chăm làm bằng đất nung, các mảnh gốm, hũ... và đặc biệt là những
mảnh đầu ngói ống trang trí hình thủy quái (kala), đặc trưng của vật liệu kiến trúc
Chămpa. Ngoài ra, sự có mặt của những phiến đá to dài, khá bằng phẳng dưới chân
thành và những viên gạch nung có kích thước 18cm x 10cm x 40cm giống như
những viên gạch người Chăm thường dùng để xây dựng các công trình kiến trúc
13
- của mình. Đặc biệt những lớp gạch được xếp chồng lên nhau mà không có lớp vữa
kết dính, một kỹ thuật xây khá phổ biến của người Chăm.
Thành Lồi Cao Lao Hạ gắn liền với một thời kỳ tồn tại và phát triển mạnh
mẽ quốc gia Lâm Ấp (Chămpa) trên đất Quảng Bình; là một trong những công
trình kiến trúc thành lũy độc đáo, ẩn chứa tài năng, trí tuệ của người Chăm. Cùng
với chiến lũy tự nhiên Đèo Ngang, thành Lồi đóng vai trò quan trọng trong việc
phòng thủ vùng biên địa cực Bắc của quốc gia Lâm Ấp, góp phần ổn định đời sống
chính trị - xã hội trên vùng đất này.
Theo Thành Lồi Cao Lao Hạ của Lê Mai - Minh Đức (trang thông tin
điện tử tỉnh Quảng Bình) và Quảng Bình thời Khai Thiết của Phan Viết Dũng.
4. Di tích Thành nhà Ngo
Thành được đế chế Chiêm Thành xây dựng nên. Từ năm 1069 trở về trước
đất Lệ Thủy thuộc Chiêm Thành. Vua Chiêm đã cho xây thành để trấn giữ phên
dậu phía bắc với Đại Việt.
Vị trí của thành được ghi trong “Ô châu cận lục” của Dương Văn An là:
“Thành ở xã Uẩn Áo huyện Lệ Thủy. Sông Bình Giang (Kiến Giang) chảy phía
trước, sông Ngô Giang (hói Quy Hậu) chẹn phía sau, Hai dòng đều Tây Bắc hợp
làm một. Ba mặt có sông, một mặt giáp núi, chính là nơi hiểm yếu của nước nhà,
phên dậu cuả Hóa thành vậy. Cửa Nam có tấm đá khắc ba chữ Ninh Viễn Thành”.
Xưa thành được xây bằng đất và đá, cao 5m, rộng 5m có chỗ 10m. Chu vi
khoảng 5000m. Thành có bốn cữa Đông - Tây - Nam - Bắc. Mỗi cửa có điếm canh
ở trên. Những dấu tích của thành Ninh Viễn nay vẫn còn, như Bàn thề, Bàn giáo,
nằm trên đất “Trưa Kênh” nối từ thành ra đến giáp hói Quy Hậu. Từ năm 1945
phân lại địa giới, thành Ninh Viễn thuộc về làng Quy Hậu. Các cụ xưa nói rằng:
Dân gian gọi thành Ninh Viễn là thành Nhà Ngo là vì, ở mỗi cửa thành và góc
thành xưa có một chòi canh. Tiếng địa phương quê ta gọi là “chòi doi”, thổ ngữ cổ
thì “ngó” và “doi” đồng nghĩa. Lâu dần “nhà ngó” gọi chệch ra thành “nhà ngo”.
Lược theo các bài viết trên trang thông tin điện tử tỉnh
Quảng Bình và Quảng Bình thời khai thiết của TS. Phan Viết Dũng.
14
- 5. Di tích lăng mộ Hồ Cƣỡng
Hồ Cưỡng sinh vào khoảng niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369), đời Trần Dụ Tông.
Ông đã từng làm Giám Quân Tả Thánh Dực và làm Đại Trị châu lộ Diễn Châu. Sách
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, Bản kỷ, quyển 8, trang 194 Viết: ’’Quý Dậu năm
thứ 6 (1393) Minh Hồng Đức thứ 26 mùa xuân tháng Giêng lấy Hồ Cưỡng làm Giám
Quân Tả Thành Dực (Cương người ở Diễn Châu), Quý Ly ngầm tìm được dòng dõi
họ Hồ định đổi theo họ cũ mới đem Cưỡng làm người tâm phúc.’’ Cuối thế kỷ XIV,
Hồ Cưỡng được Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly) lúc bấy giờ với tước Đại Vương phong làm
Chánh đội trưởng chỉ huy một đạo quân trên 2.400 quân vào đánh Chiêm Thành ở
miền Thuận Hóa. Vào đây ông lấy thêm một bà vợ, chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất
đai và đã trở thành ông tổ họ Hồ khai canh vùng Lý - Nhân - Nam. Trong miếu thờ ở
khuôn viên mộ họ Hồ có câu: ’’Thần Hiền khai khẩn Lý - Nhân - Nam’’. Dòng họ Hồ
ở Nhân Trạch từ đó được sinh sôi đông đúc. Ông là vị tướng được coi là có tài, đánh
giặc nhiều nơi, thắng nhiều trận giòn giã. Gia phả họ Hồ Nhân Trạch có ghi lại những
trận đánh do ông chỉ huy như trận đánh ở cửa sông Nhật Lệ, ở Bàu Tró, ở Phú Hội...
Con cháu họ Hồ ở Quảng Bình, Nghệ An đều đông đúc, nhiều người thành
đạt. Vì có nhiều công lao đối với quê hương, đất nước nên nhân dân làng Quỳnh
Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An đã rước bài vị ông Hồ Kha (cha Hồ Cưỡng) và bài vị
của Hồ Cưỡng về thờ trong thành hoàng làng. Cả hai cha con ông đều được vua
Khải Định sắc phong là Dực Bảo trung hưng thần 7/1925).
Ở Quảng Bình, sau khi sắc phong nhà vua cũng cho xây khuôn viên lăng mộ
thuộc địa phận xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Lăng mộ có
thành bao quanh xây bằng gạch thời Nguyễn, trước cổng là hai trụ biểu, trong cổng
là bức bình phong, mặt chính diện của bức bình phong có đắp nổi hình đầu rông.
Phần mộ là một khối vữa dày hình bán nguyệt úp sấp, phía trên có hai hình khối
đặt hình hai con rùa ngoảnh mặt về hai hướng Đông - Tây. Phía trước mộ có tấm
bia bằng đá, mặt trước bia có khắc bốn câu thơ do vua Khải Định ban tặng.
Di tích lăng mộ Hồ Cưỡng ở Nhân Trạch - Bố Trạch có giá trị lịch sử tiêu
biểu - là nơi an nghỉ của một vị tổ có công khai cơ lập ấp ở Quỳnh Đôi - Quỳnh
15
- Lưu - Nghệ An và Nhân Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình. Di tích có giá trị giúp
chúng ta hiểu thêm về thân thế, sự nghiệp của Hồ Cưỡng trong lịch sử dân tộc.
Ông là danh tướng - niềm tự hào của hai dòng họ Hồ ở Quảng Bình và Nghệ An.
Lược theo bài viết Hồ Cưỡng ông tổ vùng Lý - Nhân - Nam
(Trang Thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình); sách Quảng Bình di tích và danh thắng.
6. Di tích lăng mộ Hoàng Hối Khanh
Đền thờ Hoàng Hối Khanh tại thôn Thượng Phong 2
Miếu thờ Hoàng Hối Khanh (thôn Hà Thanh - Phong Thủy)
16
- Lăng mộ Hoàng Hối Khanh (Đại Giang- Trường Thủy)
Lăng mộ Hoàng Hối Khanh nằm trên một khu đất bằng phẳng, non nước
hữu tình, gần núi An Mã, thuộc thôn Đại Giang, xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy.
Miếu thờ Hoàng Hối Khanh tọa lạc trên một khu đất thiêng tại thôn Hà Thanh, xã
Phong Thủy, huyện Lệ Thủy.
Lăng mộ và miếu thờ được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1845), về sau
được trùng tu vài lần. Lăng mộ và miếu thờ xây theo dáng cổ, có mặt bằng hình
chữ nhật. Tổng thể hai kiến trúc đều được xây đăng đối theo đường thần đạo, xung
quanh có tường bao bọc. Hàng năm, vào ngày 6/6 âm lịch - ngày mất của Hoàng
Hối Khanh và lễ kì yên 2/9 - cầu cho quốc thái an, nhân dân Lệ Thủy lại tổ chức
cúng tế - tưởng niệm một danh tướng có công lớn với dân tộc nói chung và với
vùng đất Lệ Thủy Quảng Bình nói riêng.
Ông sinh năm 1363, mất năm 1407, người thôn Bái Trại, xã Định Tăng,
huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1384, ông thi đỗ Thái học sinh (tương
đương học vị Tiến sĩ sau này). Làm quan dưới triều Trần - Hồ, trong giai đoạn vận
nước rối ren, khó khăn, phức tạp, hoạt động trên nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự,
ngoại giao, kinh tế ông đã thể hiện đầy đủ tài năng, phẩm chất của một người trung
nghĩa ái quốc. Đối với vùng đất Quảng Bình, trong thời gian làm tri huyện Nha
17
- Nghi (Lệ Thủy) từ 1385 đến năm 1391 ông đã có những đóng góp lớn trong việc
khai khẩn đất đai, phát triển kinh tế bằng mô hình điền trang, tạo điều kiện cho Lệ
Thủy phát triển về mọi mặt.
Theo ghi chép của sử cũ, khi vào làm tri huyện Nha Nghi, ông đã nghiên
cứu kĩ lưỡng thực địa và chọn vùng đất nằm giữa hai con sông Bình Giang và Ngô
Giang (vùng tiếp giáp giữa Phong Thủy và Liên Thủy) để đóng huyện sở. Sau đó
ông trở ra Thanh Hóa, Nghệ An chiêu tập dân của 12 dòng họ gồm họ Hoàng,
Phạm, Trần, Lê, Thân, Khổng, Đào, Phan, Diệp, Bạch, Nguyễn, Võ vào khai hoang
lập điền trang cùng với dân sở tại gồm tù binh Chiêm Thành và người Việt được
đưa vào từ thời Lí Thánh Tông.
Hoàng Hối Khanh khai khẩn được 500 mẫu đất, lập thành một điền trang
rộng lớn có trung tâm chỉ huy là thành Ninh Viễn (nằm trên địa bàn hai làng Uẩn
Áo, Quy Hậu thuộc Liên Thủy ngày nay). Mô hình điền trang của ông có kiểu kiến
trúc trong thành ngoài thị (cách thành khoảng 2km là chợ Tréo) và các làng nghề
vây quanh trong khuôn khổ của nền kinh tế tự cung tự cấp. Thời đó, các làng được
gọi là Kẻ hoặc Nhà. Kẻ làm nghề nông chiếm đa số: Kẻ Tiểu (Thượng Phong -
Phong Thủy), Kẻ Đợi (Đại Phong - Phong Thủy), Kẻ Tuy (Tuy Lộc - Lộc
Thủy)…; Kẻ làm nghề chài có Kẻ Soi (Xuân Hồi - Liên Thủy); Kẻ Tréo (Chợ
Tréo). Các Nhà chủ yếu là làng nghề thủ công như Nhà Vàng (Hoàng Giang)
chuyên sản xuất công cụ lao động cày, hái, đục, chàng…; Nhà Mòi (Mai Hạ)
chuyên làm nghề dệt, trông dâu nuôi tằm; Nhà Ngo (Uẩn Áo) chuyên sản xuất đồ
gốm nồi niêu, ấm đất… Mô hình điền trang của Hoàng Hối Khanh đã làm cho
vùng đất Lệ Thủy vốn nghèo nàn trở thành một vùng trù phú, giàu có, một trung
tâm kinh tế, chính trị lớn hơn nhiều so với quy mô của các điền trang thời bấy giờ.
Trên cơ sở phát triển kinh tế Hoàng Hối Khanh đã nổ lực xây dựng tiềm lực
địa phương vững mạnh. Ông thực hiện chính sách khuyến nông, tích trữ quân
lương phòng khi có chiến tranh. Trong huyện và trong điền trang của mình ông
chăm lo luyện tập quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu khi giặc đến. Nhờ vậy, quân đội của
Hoàng Hối Khanh khi làm tri huyện Nha Nghi đã đóng góp nhiều cho các cuộc
chiến tranh bảo vệ biên cương phía Nam của Đại Việt.
18
- Có thể nói, trong thời gian làm quan ở Quảng Bình, Hoàng Hối Khanh đã để lại
một dấu ấn sâu sắc đối với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Lệ Thủy.
Sau khi ổn định tình hình Lệ Thủy, Quảng Bình, triều đình điều ông vào trấn
giữ vùng biên viễn phía Nam châu Hóa. Nhà Trần ngày càng suy yếu, giặc Minh
âm mưu xâm lược nước ta, ông được điều ra làm An phủ sứ lộ Tam Đái (1394);
sau đấy được điều về kinh Tây Đô giữ chức Phát vận sứ ty (1394) để chuẩn bị
chống giặc Minh.
Năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần. Giặc Minh mượn cớ ''phò Trần
diệt Hồ'' để xâm lược nước ta. Hoàng Hối Khanh ra làm quan cho nhà Hồ, được
thăng chức Đồng tri Khu mật sứ (1401) để đối phó với bọn xâm lược Minh. Ông
cho lập xưởng đúc rèn vũ khí, chế tạo súng thần cơ là loại ''Đại bác'' lúc bấy
giờ. Năm 1404, ông làm thái thú Đông Lộ, Hồ Hán Thương sái ông chỉ huy, đốc
suất xây dựng hệ thống phòng thủ thành Đa Bang kéo dài từ sông Bạch Hạc qua
núi Tản Viên, lòng sông Bạch Hạc được đóng cọc phòng thủ đường thuỷ.
Sau khi nhà Hồ bị quân Minh đánh bại, Hoàng Hối Khanh không hợp tác với
quân Minh đã cùng thân thuộc lên thuyền chạy ra biển. Đến cửa Đan Huy (tức Cửa
Hội-Nghệ An) ông nhảy xuống sông tuẫn tiết. Tướng giặc Trương Phụ lấy đầu
đem bêu ở chợ Đông Đô. Sau khi Lê Lợi kháng chiến đánh đuổi giặc Minh ra khỏi
bờ cõi, đã truy phong Sắc thần cho ông: "Tước Phong Dực bảo trung hưng, Linh
phù đoan túc tôn thần''.
Để tưởng nhớ công ơn vị tiền khai khẩn, dân làng Thượng Phong (tức làng
Kẻ Tiểu-Tiểu Phúc Lộc khi xưa) đã lập đền thờ bên hữu ngạn sông Kiến Giang.
Hàng năm cứ đến ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch dân làng tổ chức tế lễ long trọng.
Ngày 23 tháng 7 năm 1998 Bộ Văn hoá-thông tin ra Quyết định số 1422
QĐ/VHTT công nhận và cấp Bằng di tích lịch sử danh tướng Hoàng Hối Khanh.
Lược theo Quảng Bình ẩn tích thời gian Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tỉnh
Quảng Bình - 2008; Quảng Bình di tích và danh thắng.
19
- 7. Di tích Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc
Điện Thành hoàng làng Vĩnh Lộc (xã Quảng Lộc huyện Quảng Trạch) được
xây dựng ở đầu làng, trên một thế đất cao, hướng về phía Nam nhìn ra sông Hòa
Giang. Điện được xây từ năm 1483. Năm 1815, Điện được xây dựng hoàn chỉnh
thành một quần thẻ di tích gồm sân ngoài, san trong, bình phong, tiền điện, hậu
điện, miếu tả, miếu hữu. Điện Thành hoàng Vĩnh Lộc là một kiểu kiến trúc độc đáo
trong loại hình kiến trúc thời phong kiến ở Quảng Bình. Điện xây khá đẹp, phối trí
hài hòa, công phu. Đặc biệt hình tượng rồng được thể hiện với nhiều góc độ: Rồng
nhìn chính diện, nhìn nghiêng, rồng bay trên trời, rồng dưới đất lên, rồng chầu cách
điệu ở các đầu đao, rồng chầu mặt nguyệt.
8. Điện thờ Thƣợng thƣ Đại Hành khiển Trần Bang Cẩn
Trần Bang Cẩn thuộc dòng dõi hoàng tộc, là người có công đánh dẹp giặc
Chiêm Thành , được vua Trần Minh Tông tấn phong Đại hành khiển, hàm Thượng
thư. Năm 1318, sau khi hoàn thành nhiệm vụ cùng đại quân nhà Trần dẹp yên nạn
xâm lấn của Chiêm Thành, Trần Bang Cẩn được phép vua đem quân quay về chiêu
dân lập điền trang tại ấp Thị Lang (nay là làng Vĩnh Lộc, xã Quảng Lộc, huyện
Quảng Trạch), hướng dẫn nhân dân khai khẩn đất đai, mở mang cương vực ven
sông Gianh, vùng hạ lưu tạo lập làng xóm, kiến thiết ruộng đồng. Trần Bang Cẩn
lúc đó vừa chỉ huy quân đồn trú vừa là chủ điền trang của hai giáp Đông và Đoài.
Ông đã vận dụng chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính luân phiên sản xuất,
tập luyện vừa bảo vệ vùng đất phía Nam Hoành Sơn vừa xây dựng trang trại, dạy
20
nguon tai.lieu . vn