Xem mẫu
- LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng,
không ít lần, chúng ta được nghe phản ánh về việc dạy học và thi môn Lịch
sử trong các trường học, qua các kì thi tốt nghiệp THPT. Làm sao để các em
học sinh yêu Lịch sử, học tốt môn Lịch sử? Đây là một vấn đề nói thì tưởng
chừng đơn giản nhưng thực tế lại vô cùng khó khăn.
Chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng: không có phương pháp nào là
“vạn năng”, chỉ có cái tâm và nhiệt huyết của người thầy là “liều thuốc” hữu
hiệu để thực hiện các phương pháp dạy học hiệu quả. Nhưng cái tâm, sự
nhiệt huyết của người thầy không thể là cái gì đó... chung chung, mà phải là
cái cụ thể những giờ dạy học hiệu quả và lôi cuốn.
Trên thực tế hoạt động dạy học chúng ta phải thừa nhận rằng do tâm lí
ôm đồm kiến thức, sợ không trình bày hết các ý của sách giáo khoa thì học
sinh sẽ không nắm hết các nội dung theo yêu cầu nên giáo viên không giành
được thời gian cho việc mở rộng bài giảng, không mạnh dạn áp dụng các
hình thức dạy học tích cực, đặc biệt là đối với những bài ôn tập, tổng kết.
Sau nữa, không phải tất cả các giáo viên đều có điều kiện, tâm huyết để tìm
tòi, nghiên cứu các tài liệu và phương pháp tối ưu, phù hợp nhằm phục vụ tốt
cho quá trình dạy học.
Trước những yêu cầu thực tiễn đó, chúng tôi Ban biên soạn tài liệu bồi
dưỡng thường xuyên xây dựng 02 chuyên đề: Tài liệu văn học phục vụ các bài
giảng lịch sử dân tộc và Thiết kế và tổ chức trò chơi trong dạy học các bài ôn
tập, tổng kết chương trình THPT nhằm giúp các bạn đồng nghiệp có một
nguồn tư liệu hữu ích, phương pháp dạy học tích cực phục vụ cho việc dạy học
được tốt hơn.
Ban biên soạn Tài liệu BDTX
1
- CHUYÊN ĐỀ 1: SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG GIẢNG
DẠY LỊCH SỬ DÂN TỘC Ở TRƯỜNG THPT
I. NGUYÊN TẮC LIÊN MÔN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG THPT
Để việc dạy học ở trường phổ thông nói chung, môn lịch sử nói riêng đạt
hiệu quả cao, có tác dụng thiết thực trong việc hình thành và phát triển nhân
cách học sinh đòi hỏi người giáo viên phải có những nổ lực lớn trong việc làm
chủ tri thức và vận dụng nhuần nhuyễn vào các bài giảng, có phương pháp sư
phạm tốt.
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông cung cấp cho học sinh những tri
thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch
sử dân tộc và lịch sử thế giới. Kiến thức lịch sử không chỉ liên quan đến tri
thức khoa học xã hội mà cả khoa học tự nhiên. Mối quan hệ giữa các môn,
các khóa trình lịch sử được thể hiện trong các loại bài, đặc biệt các bài về
cách mạng, về văn hóa, khoa học, kĩ thuật, kinh tế.
Việc dạy học liên môn và tính kế thừa trong việc học tập các khóa trình
lịch sử làm cho các em nhận thức sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống
nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu
được tính toàn diện của lịch sử. Điều này khắc phục được tình trạng rời rạc,
tản mạn trong kiến thức của học sinh. Nắm được mối liên hệ kiến thức giữa
các môn học, tính hệ thống của các tri thức lịch sử sẽ giúp học sinh có khả năng
phân tích sự kiện, tìm ra bản chất, quy luật chi phối sự phát triển của lịch sử. Có
như vậy học sinh nắm kiến thức mới vững chắc và việc giáo dục tư tưởng
thông qua môn học mới có hiệu quả.
2
- Vì vậy, sử dụng kiến thức liên môn là một nguyên tắc của hoạt động
dạy học lịch sử.
Để thực hiện được nguyên tắc này, người giáo viên không chỉ có kiến
thức vững chắc về bộ môn mà còn phải nắm vững nội dung, chương trình các
bộ môn được giảng dạy ở trường phổ thông, trước hết là văn học, địa lí, giáo
dục công dân; phải tìm ra những khái niệm, những tư tưởng chung có trong
các môn học và vận dụng những hợp lí những kiến thức đó vào bài giảng.
Đồng thời, học sinh cũng cần có thái độ tích cực, chủ động trong việc học tập
theo nguyên tắc liên môn, vì ở đây các em huy động những kiến thức đã học
để hiểu sâu sắc, toàn diện một sự kiện. Các em được ôn tập, củng cố, tổng
hợp các kiến thức ở mức cao hơn và biết vận dụng thông minh trong học tập,
làm sáng rõ hơn kiến thức mà học sinh được học trong mỗi môn.
II. SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử không phải là một vấn
đề mới mà từ lâu vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu lí luận về phương
pháp dạy học lịch sử khẳng định.
Về mặt lí luận mà nói, mỗi tiết dạy trên lớp, giáo viên không phải làm
nhiệm vụ nói lại tất cả những gì sách giáo khoa đã trình bày hay tóm tắt sách
giáo khoa. Để tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh, tránh sự nhàm
chán, khô khan, mỗi tiết dạy đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư, nghiên cứu
và trình bày một cách sáng tạo, phù hợp với đối tượng học sinh. Công thức
của tiến sĩ N.G. Đari đưa ra đã trở thành khuôn mẫu chung nhất cho người
giáo viên thực hiện công tác soạn giảng.
1 2
2 3
Theo ông, con số 2 trong sơ đồ chỉ phần nội dung vừa có trong bài
3
- giảng, vừa có trong sách giáo khoa. Đó là những vấn đề cơ bản nhất, khó
nhất. Nắm vững những vấn đề này một cách sâu sắc, vững chắc là nhiệm vụ
được đặt ra hàng đầu. Con số 1 chỉ phần tài liệu không có trong sách giáo
khoa. Giáo viên đưa phần này vào bài giảng nhằm nâng cao tính khoa học, sự
trong sáng, tính vừa sức của sách giáo khoa. Con số 3 chỉ nội dung không
giảng ở trên lớp mà học sinh phải tự học ở nhà.
Việc sử dụng tài liệu văn học trong các bài giảng lịch sử chính là một
trong những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bài giảng theo sơ đồ nói trên
của Đari.
Các tác phẩm văn học từ xưa đến nay, trong lịch sử dân tộc cũng như
trong lịch sử thế giới, có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường
phổ thông. Các tác phẩm văn học, bằng những hình tượng cụ thể, có tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng,
điển hình của các hiện tượng kinh tế, chính trị, những quy luật của đời sống
xã hội. Giữa văn học và sử học có mối quan hệ khăng khít. Trong khi sáng tác
một tiểu thuyết văn học (dù lầ tiểu thuyết lịch sử hay tâm lí xã hội), nhà văn
phải nhiên cứu lịch sử. Không ít tác phẩm văn học tự nó đã là một tư liệu lịch
sử.
Tài liệu văn học có thể sử dụng trong dạy học Lịch sử rất phong phú:
Văn học dân gian, tiểu thuyết lịch sử, hồi kí cách mạng, thơ ca ... Việc xác
định các loại tài liệu văn học phải phù hợp với mục đích, yêu cầu bài giảng
và tính chất của từng sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Lịch sử là một khoa học rất thú vị về quá trình vận động, phát triển của
xã hội. Tuy nhiên, đặc trưng của môn sử là học sinh nhận thức về quá khứ thông
qua việc tìm hiểu các sự kiện. Trong thời lượng có hạn của một tiết học, lại bị
tác động bởi quan điểm chính trị … nên đặc trưng này ít nhiều đã tạo nên sự đơn
điệu, khô khan của một bài học lịch sử. Việc sử dụng tài liệu văn học trong
giảng dạy lịch sử sẽ giúp cho người giáo viên khắc phục được những khó khăn
4
- nói trên, làm cho bài giảng hấp dẫn, sinh động, góp phần nâng cao hứng thú học
tập của học sinh.
III. TÀI LIỆU VĂN HỌC PHỤC VỤ CHO GIẢNG DẠY LỊCH SỬ
1. Thời kì đầu dựng nước đến hết thời Bắc thuộc
Tài liệu văn học viết về giai đoạn lịch sử này không có nhiều, nhưng kí ức
lịch sử được tái hiện trong văn học dân gian (ca dao, truyền thuyết…) cũng khá
phong phú. Nếu gạt bỏ những yếu tố hoang đường, thần bí chúng ta thấy ở
nguồn tư liệu này những sự thật lịch sử, được phản ánh qua cách nhìn dân gian
rất sinh động.
Khi giảng về nước Âu Lạc, chúng ta có thể khai thác truyền thuyết Cột đá
thề, truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa để minh họa. Liên quan
đến cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm lược ở cuối thế kỉ III trước công
nguyên, truyền thuyết Cột đá thề cũng giải thích về một phong tục độc đáo của
người Việt tục thờ quốc tổ Hùng Vương. Truyền thuyết kể rằng: Thời Hùng
Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), nhà Tần sai quân xuống phương Nam tiến đánh
nước ta. Người Lạc Việt đã đoàn kết chặt chẽ với người Tây Âu dưới sự lãnh đạo
của thủ lĩnh Thục Phán tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Tần. Kháng chiến
thắng lợi, Hùng Vương không có con trai, lại già yếu nên chuyển ngôi báu cho
Thục Phán. Tây Âu sát nhập với Văn Lang thành Âu Lạc. Sau khi Thục Phán lên
ngôi xưng là An Dương Vương đã cho lập cột đá thề, thề muôn đời thờ cũng để
tưởng nhớ công ơn các vị vua Hùng. Trong dân gian cho đến nay vẫn lưu truyền
câu ca nhắc đến tục giỗ tổ Hùng Vương:
Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba.
Khắp miền truyền mãi câu ca,
5
- Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
Chúng ta cũng có thể khai thác truyền thuyết An Dương Vương xây
thành Cổ Loa kết hợp với nguồn tư liệu lịch sử khác để giúp học sinh hiểu
việc xây thành trên một nền đất thuộc vùng chiêm trũng là một công việc hết
sức khó khăn, gian khổ. Truyền thuyết kể rằng thành cứ xây xong, đêm đến
các loài ma quỷ hiện lên phá đổ làm cho nhân dân tốn bao công sức, vất vả,
nhọc nhằn. Sự xuất hiện thần Kim Quy và Nỏ thần chính là hiện thân của
năng lực sáng tạo, trí tuệ của nhân dân đã đúc rút kinh nghiệm để xây dựng
Cổ Loa thành một tòa thành kiên cố, một công trình phòng thủ quân sự độc
đáo. Thành Cổ Loa là biểu hiện của sự lớn mạnh về kĩ thuật quân sự, khả
năng giữ nước của cha ông ta.
Ca dao xưa cũng nói về công trình này với một niềm tự hào:
Cổ Loa là đất đế kinh
Trông ra lại thấy tòa thành tiên xây
Hay: Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa thành ốc khác thường
Trải bao mưa nắng dãi dầu còn đây.
Khi giảng về sự thất bại của nước Âu Lạc trước cuộc tấn công xâm lược
Triệu Đà, chúng ta có thể khai thác truyền thuyết Trọng Thủy Mị Châu. Gạt bỏ
những yếu tố hoang đường, sự thật lịch sử ở đây chính là thái độ mất cảnh giác,
tự phụ và bạc đãi trung thần của An Dương Vương đã tạo điều kiện thuận lợi
cho Triệu Đà thực hiện được mưu kế của mình và đánh bại được Âu Lạc. Bài
học cảnh giác đối với kẻ thù này cũng được Tố Hữu nhắc đến trong mấy câu
thơ:
Tôi kể chuyện xưa nàng Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
6
- Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
Kết hợp giữa hai tài liệu này, giáo viên có thể cho học sinh trao đổi, đánh giá
công bằng về nguyên nhân mất nước, trách nhiệm của An Dương Vương và Mị
Châu.
Nước Âu Lạc sụp đổ mở đầu cho một thời kì đau thương của dân tộc
thời Bắc thuộc. Trong hơn 10 thế kỉ đó, người Việt đã liên tục đứng lên đấu
tranh chống lại ách đô hộ của các chính quyền phong kiến Trung Quốc. Cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã được nhắc đến khá nhiều trong các tác phẩm văn
học dân gian cũng như văn học thời trung đại. Tùy theo điều kiện thời gian
người giáo viên có thể khai thác, vận dụng. Tác phẩm Thiên Nam Ngữ lục đã kể
lại bằng thơ chuyện Trưng Trắc đã đứng trước ba quân, bỏ khăn tang của chồng
trên đầu xuống và thề:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng,
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.
Tác phẩm Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát cũng tường thuật:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.
7
- Đô kì đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Nhà Hán cử Mã Viện một viên tướng già dạn dày kinh nghiệm trận
mạc chỉ huy một đạo quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau gần một năm anh
dũng chống địch, do lực lượng yếu, quân đội Trưng Trắc đã thất bại trong
trận Cấm Khê. Về cái chết của Hai Bà Trưng, dân gian có thơ rằng:
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo
Chị em thất thế phải liều với sông.
Khi giảng về cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh, chúng ta có thể đọc
cho học sinh nghe các câu ca dao nói về người phụ nữ can trường, lẫm liệt xứ
Thanh:
Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ múc nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng
Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh
Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng
Ai về Hậu Lộc, Phú Điền
Nơi đây Bà Triệu trận tiền xung phong
Năm 542, Lí Bí phất cờ khởi nghĩa chống lại ách thống trị của nhà Lương.
Hào kiệt khắp nơi kéo về hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng giành được
thắng lợi. Mùa xuân năm 544, Lí Bí lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân,
dựng kinh đô ở cửa sông Tô Lịch. Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm Lịch sử nước ta
đã ca ngợi:
Anh hùng thay ông Lí Bôn
8
- Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người.
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài,
Lập nên triều Lí sáu mươi năm liền.
Về sự kiện Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng
dân gian có thơ rằng:
Đánh giặc thì đánh giữa sông
Đừng đánh chỗ cạn mắc chông mà chìm
Con ơi nhớ lấy lời cha
Gió to, sóng cả chớ qua sông Rừng
Gọi là sông Bạch Đằng vì sông này khi triều dâng lòng sông rất rộng,
thường xuất hiện những cơn sóng bạc đầu lớn nên gọi là Bạch Đằng. Xưa
kia hai bên bờ sông là rừng rậm ken dày do đó dân gian còn gọi là sông Rừng.
Đại Nam Quốc sử diễn ca cũng kể lại rằng:
Hán sai Thái tử Hoằng Thao
Đem quân ứng viện toàn vào giúp công.
Bạch đằng một trận giao phong,
Hoằng Thao lạc vía, Kiều Công nộp đầu.
Đánh giá công lao của Ngô Quyền, Nguyễn Ái Quốc trong Lịch sử nước ta
viết:
Ngô Quyền quê ở Đường Lâm
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
2. Thời kì xây dựng quốc gia phong kiến độc lập tự chủ (từ thế kỉ
X đến giữa thế kỉ XIX)
9
- Thế kỉ X, ba triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê tuy tồn tại ngắn ngủi, nhưng đã
đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của chế độ phong kiến Đại Việt ở giai
đoạn sau.
Đánh giá công lao của Ngô Quyền, nhà thơ Hằng Phương đã sáng tác
bài thơ “Thăm lăng Ngô Quyền”:
Đây chính xã Đường Lâm
Lăng Ngô Quyền xưa đó
Cả một vùng đất đồi
Như Châu tuần bên mộ.
Hôm nay con cháu đến
Chiêm ngưỡng cả đền thờ
Cọc Bạch Đằng giết giặc
Nhớ sóng vẫn đang mơ
Trên lăng dựng tấm bia
Đơn sơ có bốn chữ
Mà sự tích anh hùng
Giữa đất trời rực rỡ.
Trong dẹp yên nội loạn
Ngoài đuổi giặc ngoại xâm
Xây nền móng tự chủ
Cho Đinh, Lê, Lí, Trần …
Sau khi Ngô Quyền mất, nội bộ chính quyền trung ương lục đục, một
số thế lực địa phương nhân đó nổi dậy, gây nên tình trạng chia cắt, tranh
chấp lẫn nhau, sử cũ gọi là loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh đem quân từ Hoa
Lư (Ninh Bình) đánh dẹp các sứ quân khác, thống nhất được đất nước. Đại
Nam quốc sử diễn ca đã khắc họa hình ảnh và công lao của ông như sau:
10
- Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
Con quan Thứ sử ở thành Hoa Lư.
Khác thường từ thưở còn thơ,
Rủ đoàn mục thụ mở cờ bông lau.
Dập dìu kẻ trước người sau,
Trần ai đã thấy vương hầu uy dung.
Một mai về với Trần Công
Hiệu xưng Vạn Thắng anh hùng ai qua?
Bốn phương thu lại một nhà,
Mười hai sứ tướng đều là quét Thanh.
Thế kỉ XI đến thế kỉ XIV, dưới triều đại Lí Trần, quốc gia phong kiến
Đại Việt phát triển vững mạnh về mọi mặt. Đây là những thế kỉ “Phục hưng
dân tộc” như cách đánh giá của giáo sư Trần Quốc Vượng. Lí Công Uẩn người
khai mở triều đại nhà Lí là một bậc minh quân. Những quyết định của ông có
ảnh hưởng tích cực, lâu dài đối với công cuộc xây dựng, phát triển của quốc gia
phong kiến Đại Việt. Nguyễn Ái Quốc trong Lịch sử nước ta ca ngợi Lí Công
Uẩn:
Công Uẩn là kẻ phi thường,
Dựng lên nhà Lí cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hóa nước nhà,
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.
Thời Trần, vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) tiếp tục nêu cao tấm
gương “lấy đức để giáo hóa”. Chuyện Trần Liễu nổi loạn chống lại em mình
để tranh giành ngôi báu không phải là chuyện hiếm gặp trong lịch sử. Nhưng
Trần Cảnh đã không giết chết kẻ nổi loạn như vua Đường Thái Tông của
Trung Quốc giết anh mình là Kiến Thành mà vẫn bao dung, độ lượng, coi
11
- trọng tình anh em cốt nhục hơn ngôi báu. Về chuyện này, Trần Dụ Tông có
thơ ca ngợi:
Dựng nghiệp Việt Đường hai Thái Tông
Họ xưng Trinh Quân ta Nguyên Phong
Kiến Thành thì chết Yên Sinh sống
Miếu hiệu như nhau, đức chẳng đồng.
Nhà Lí Trần rất quan tâm công tác thủy lợi, đẩy mạnh khai hoang mở
rộng sản xuất. Chính trị ổn định, kinh tế phát triển đã tạo nên cảnh thái bình
thịnh trị. Vua Trần Nhân Tông nhân chuyến về thăm Phủ Thiên Trường đã tức
cảnh viết:
Cảnh chiều ở Thiên Trường
Trước xóm sau thôn tỏa khói lồng
Bóng chiều dường có lại dường không
Theo sáo mục đồng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Thế kỉ XI XIV, dân tộc ta phải liên tục đối mặt với những cuộc xâm
lược quy mô lớn của quân Tống, giặc Mông Nguyên. Khi giảng về các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm của cha ông, chúng ta không thể không nhắc đến
những áng văn thơ hào sảng, thể hiện khí phách của dân tộc được các quý tộc
Lí, Trần sáng tác trong giai đoạn này. Bài Nam quốc sơn hà của Lí Thường
Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn được đánh giá là những áng “Thiên
cổ hùng văn”.
Nam quốc sơn hà
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
12
- Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Hịch tướng sĩ
… Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan.
Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà
lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt
Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân
Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào
đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt
đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho
trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin
làm.
Theo vua về kinh đô
(Trần Quang Khải)
Chương Dương cướp giáo giặc
Cửa Hàm Tử bắt thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu.
Phú sông Bạch Đằng
(Trương Hán Siêu)
…Sông Đằng một dải dài ghê!
Luồng to sóng lớn dồn về Biển ĐÔng
Trời Nam sinh kẻ anh hùng
Tăm kềnh yên lặng, non sông vững vàng.
Vua Trần hai vị thánh quân.
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh
13
- Nghìn xưa ngẫm cuộc thăng bình
Tài đâu đức hiểm, bởi mình đức cao.
Thuật hoài
(Phạm Ngũ Lão)
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt sao Ngưu
Công danh Nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Ba lần đại thắng quân xâm lược Mông Nguyên của quân dân Đại Việt
ở thế kỉ XIII đã làm cho uy danh nhà Trần lừng lẫy, chính quyền phong kiến
phương Bắc phải kiềng nể. Cuối thế kỉ 13, Trần Phu sứ nhà Nguyên khi
đến nước ta đã làm bài thơ kể lại nỗi khiếp hãi ám ảnh của quân sĩ nhà
Nguyên khi bị bại trận ở Đại Việt như sau:
Kim qua ảnh lí đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
Dĩ hạnh quy lai, thân kiện tại
Mộng hồi do giác trướng hồn kinh.
Tạm dịch:
Ánh gươm sắt lóe, lòng cay đắng
Tiếng trống đồng vang, tóc bạc sinh
May được trở về thân mạnh khỏe,
Trong mơ còn thấy vía hồn kinh.
Thơ ca đời sau cũng khắc họa hình ảnh những nhân vật kiệt xuất, có
đóng góp to lớn vào thắng lợi của dân tộc. Nguyễn Ái Quốc trong Lịch sử
nước ta ca ngợi công lao của Lí Thường Kiệt:
14
- Lí Thường Kiệt là hiền thần,
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Chiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Khen Trần Bình Trọng
(Phan Kế Bính)
Giỏi thay Trần Bình Trọng
Dòng dõi Lê Đại Hành.
Đánh giặc dư tài mạnh,
Thờ vua một tiết trung.
Bắc vương sống mà nhục,
Nam quỷ chết vẫn vinh.
Cứng cỏi lòng trung nghĩa,
Ngàn thu tỏ đại danh.
Đầu thế kỉ XV, giặc Minh tràn sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ không
tập hợp được nhân tâm sĩ khí chống giặc đã đẩy đất nước vào cảnh lầm than.
Trong Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi viết:
…Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
15
- Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm
đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha…
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đã bùng nổ năm 1418 và trở thành
trung tâm của phong trào yêu nước. Tâm lí mong mỏi, trông chờ ngày nghĩa quân
Lê Lợi tiến ra Bắc, giải phóng Đông Kinh được phản ánh qua câu ca dao xưa:
Lạy trời cho cả gió lên
Cờ vua Bình Định bay trên kinh thành.
16
- Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi cũng đã tái hiện cuộc kháng chiến bền bỉ
10 năm của nhân dân ta như sau:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
…Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
17
- Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
…Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
18
- Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
…Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Năm 1428, cuộc kháng chiến thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua lập ra triều
Hậu Lê. Ở thế kỉ XV, thời Lê sơ chế độ phong kiến Đại Việt phát triển
thịnh đạt. Dân gian đã có thơ ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị ấy như sau:
Đời Lê Thái Tổ, Thái Tông
19
- Thóc lúa đầy đồng gà chẳng thèm ăn.
Bò đen húc lẫn bò vàng,
Hai con húc chắc đâm quàng xuống sông.
Thăng Long trở thành trung tâm kinh tế chính trị lớn nhất nước với sự
phát triển của các nghề thủ công, cảnh mua bán, phố xá phồn hoa, đô hội.
Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn
…Phồn hoa thứ nhất Long Thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền.
Thế kỉ XV, văn hóa Đại Việt tiếp tục phát triển và đạt những thành tựu
lớn. Lê Thái Tông đã cho dựng bia Tiến sĩ vinh danh những người đỗ đạt đã
được ghi lại trong Đại Nam Quốc sử diễn ca
Thái Tông mở rộng khoa trường
Lập bia tiến sĩ trọng đường tư văn.
Tinh thần coi trọng giáo dục, trọng dụng người tài của triều Lê sơ đã được thể
hiện rất rõ qua bài văn bia Tiến sĩ của Thân Nhân Trung:"...Hiền tài là nguyên khí của
quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế
nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi
việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc
cần thiết...”
20
nguon tai.lieu . vn