Xem mẫu
- Một số biện pháp chỉ đạo
rèn chữ viết cho học sinh lớp 1
4
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đi học là một bước ngoặt trong đời trẻ. Năm đầu tiên cắp sách đến trường, trẻ
vô cùng bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động từ vui chơi sang học tập. Người ta
thường nói “Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được
học đọc, học viết. Bởi vậy vấn đề rèn luyện chữ viết cho học sinh Tiểu học là vô
cùng quan trọng và cấp thiết đặc biệt là của học sinh đầu cấp Tiểu học, đặt nền
móng cơ bản cho toàn bộ quá trình học tập, rèn luyện cho HS những phẩm chất đạo
đức tốt như: Tinh thần kỷ luật, tính cẩn thận và óc thẩm mĩ. Cố vấn Phạm Văn Đồng
đã nói “Chữ viết là biểu hiện của nết người. Dạy cho HS viết đúng, viết đẹp, viết cẩn
thận là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình
cũng như với thầy và bạn đọc bài vở của mình....”.
Tính đến nay, Bộ GD&ĐT đã nhiều lần ban hành những quy định về thay đổi
chữ viết ở TH. Sau nhiều lần thay đổi, chúng ta lại quay về với mẫu chữ mềm mại,
thanh gọn trước kia nhằm giúp học sinh viết chữ đẹp và có thẩm mỹ hơn. Tuy nhiên,
sau nhiều lần thay đổi như vậy lại có những điều làm được và chưa làm được. Thực
trạng chữ viết của học sinh còn rất xấu và thiếu chính xác. Các em còn viết sai, viết
quá chậm, trình bày không sạch sẽ, rõ ràng. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng học Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Là một cán bộ quản
lí, tôi nhận thấy Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt. Việc rèn
luyện kĩ năng viết chữ cho học sinh, nhất là HS lớp 1 lại càng quan trọng hơn. Chính
vì vậy nên tôi rất mong muốn có biện pháp chỉ đạo có hiệu quả môn Tập viết để HS
5
- viết đẹp hơn, sạch hơn và cẩn thận hơn. Đó cũng là nhằm nâng cao chất lượng dạy
học ở Tiểu học nói chung và dạy học chữ viết nói riêng.
Chính vì thấy được tầm quan trọng của môn Tập viết, nên tôi đã mạnh dạn
tìm hiểu học hỏi và nghiên cứu để tìm ra “Một số biện pháp chỉ đạo rèn chữ viết
cho học sinh lớp 1” giúp các em trở thành những con người phát triển toàn diện có
ích cho đất nước.
Việc nghiên cứu đề tài này được tiến hành ở lớp 1B.
6
- B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG
Hiện nay chữ viết của các em học sinh tiểu học chưa được đẹp, chưa đúng
mẫu, sự liên kết giữa các nét, các con chữ chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học
sinh còn dùng nhiều loại mực, ngòi bút viết nét chữ to quá hoặc nhỏ quá đều làm
ảnh hưởng đến việc giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp. Đặc biệt càng lên lớp trên thì chữ
viết của nhiều em không đúng mẫu. Các em không tích cực rèn chữ viết thường
xuyên dẫn đến chữ viết của các em chưa đẹp, vở không giữ gìn sạch sẽ.
Việc dạy của một số giáo viên chưa chú trọng thường xuyên đến rèn chữ viết
cho học sinh. Trong ngôn ngữ viết có chức năng giao tiếp và được quy định thống
nhất, mặc dù như vậy nhưng thực tế cho thấy phân môn Tập viết trong trường Tiểu
học chưa được coi trọng, sách giáo viên, tài liệu tham khảo chưa cụ thể, rõ ràng như
những môn học khác, việc dạy phân môn Tập viết còn hạn chế, giáo viên chưa nắm
7
- vững tên gọi các nét cơ bản. Đây là nguyên nhân làm cho chữ viết của học sinh
không đúng mẫu, không đẹp, vở không sạch sẽ .
II. NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG
Chương trình tập viết lớp 1 gồm có 2 phần: Học kì 1 và nửa đầu học kì 2 sau
mỗi bài học vần học sinh được luyện viết những chữ các em vừa học và mỗi tuần có
thêm một bài tập viết. Nửa sau học kì 2 mỗi tuần có 1 tiết tập viết, mỗi tiết học trong
35 phút, học sinh được làm quen với chữ viết hoa, mỗi bài gồm hai lần viết, mỗi lần
viết gồm 3 phần: phần thứ nhất là tô chữ viết hoa cỡ chữ vừa, riêng tuần cuối viết số
theo mẫu cỡ vừa và cỡ nhỏ; phần thứ hai viết lại hai vần đã học theo cỡ chữ vừa;
phần thứ ba viết hai từ chữ cỡ nhỏ.
Qua khảo sát thực trạng dạy và học tập viết ở lớp 1 cho thấy kỹ năng viết của
học sinh chưa đẹp, giữ gìn vở chưa sạch, giáo viên chưa chú ý sửa sai theo dõi tốc
độ viết cho học sinh, tất cả các yếu tố trên cho thấy chất lượng giữ vở sạch, viết chữ
đẹp chưa cao.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Ngay từ đầu năm học, tôi kiểm tra đánh giá phân loại chữ viết của từng em ở
lớp 1B. Qua kiểm tra đánh giá tôi nhận thấy các em đã có ý thức xong các em viết
chữ còn chưa đúng mẫu, chưa đúng các nét cơ bản, các chữ cái chỉ viết thành hình
con chữ, có em còn chưa biết cầm bút.
Khảo sát chất lượng chữ viết của 24 em học sinh lớp 1B, tháng 10 năm 2011
8
- cho thấy:
Kết quả
Số
Giỏi Khá TB Yếu
HSKS
SL % SL % SL % SL %
19 1 5 6 32 10 53 2 10
- Học sinh thường khó tập trung cao độ trong khi viết nên học sinh chỉ có thể
viết cẩn thận, nắn nót theo chữ mẫu được mấy chữ đầu, sau đó các em viết ẩu, viết
láu cho xong bài mà không quan tâm mình viết như thế đã đúng, đẹp chưa.
Học sinh không quan sát kỹ chữ mẫu nên tuỳ tiện theo ý mình và do vậy nên
chữ viết không đúng cỡ chữ, khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ và
khoảng cách giữa các chữ đặc biệt ghi sai vị trí dấu thanh.
Học sinh không nghe và theo dõi giáo viên hướng dẫn quy trình viết nên viết sai
quy định tạo nên những nét không đúng cỡ chữ, nét cao thấp không đều và đặc biệt
là nét nối giữa các con chữ, nét bắt đầu và nét kết thúc chưa đúng quy định.
Vì vậy để nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh lớp 1 tôi xin mạnh dạn
đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục các hạn chế đã nêu ở trên như sau:
1. Việc rèn tư thế viết, cách cầm bút của học sinh
Với học sinh, tư thế ngồi viết đúng, thoải mái, tâm trạng phấn khởi thì chất
lượng chữ viết tốt, nếu tư thế ngồi chưa đúng, tâm trạng buồn phiền thì chữ viết
cũng bị ảnh hưởng. Để viết được chữ thì phải hoạt động tiêu hao năng lượng của
9
- thần kinh và bắp thịt. Khi giáo viên hướng dẫn thì trẻ phải tri giác bằng mắt, tai và
tay sẽ làm theo, nói điều mình tri giác được, vừa nói vừa đưa tay theo các đường nét
của chữ cái để nhấn mạnh cách viết đồng thời nhận ra tên gọi, hình dáng của chữ đó.
Nói thầm kiến thức mới thu nhập được để tái hiện hình ảnh đó trong óc trước khi
viết, được thể hiện trên bảng con, trên giấy bằng các dụng cụ như phấn, bút. Tay
điều khiển quá trình viết là các cơ và xương bàn tay còn đang độ phát triển nên cử
động các ngón tay còn vụng về, chóng mệt mỏi. Khi cầm bút các em có tâm lí sợ rơi
nên các em cầm rất chặt, các cơ tay cứng khó di chuyển. Nếu các em cầm bút bằng
bốn hoặc năm ngón tay thì khi viết vận động cổ tay, cánh tay sẽ mau mệt mỏi, sức
chú ý kém, kết quả chữ viết không đúng, không nhanh. Trẻ tiếp thu hình ảnh chữ
viết qua mắt nhìn, do vậy nếu chữ viết được trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc
ánh sáng kém thì các em phải cúi sát mắt nhìn cho rõ chữ, lâu dần sẽ dẫn đến cận
thị. Trong thời gian đầu, có thể các em nhận ra đúng hình dáng của chữ nhưng bàn
tay chưa ghi lại đầy đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau quá trình luyện tập, số lần
nhắc đi nhắc lại nhiều thì các em mới chép đúng mẫu.
2. Việc chuẩn bị của giáo viên về kiến thức chuyên môn
1.Cấu tạo của chữ viết
1.1 Xác định toạ độ và chiều hướng chữ viết
Toạ độ chữ được xác định trên đường kẻ, đường li. Mỗi đơn vị dòng kẻ trong vở
Tập viết gồm 4 dòng li (đường kẻ dưới và đường kẻ trên in đậm còn lại 3 đường li in
nhạt hơn). Thống nhất kí hiệu từ đường kẻ in đậm dưới lên trên là các dòng li 1, 2,
10
- 3; đường kẻ đứng là đường kẻ dọc, mỗi ô vuông nhỏ là một ô li. Cách xác định toạ
độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ, đường li, dòng kẻ và các ô
li, ô vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều kiện dạy chữ thành một
quy trình; quy trình được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành trình ngòi bút
đi qua toạ độ các con chữ. Xác định toạ độ cấu tạo các chữ viết hoa đều phải căn cứ
vào các ô vuông của khung chữ mẫu để phân tích.
Ngoài ra cần nắm thêm một số thuật ngữ khi dạy tập viết như : điểm bắt đầu,
điểm kết thúc, đặt bút, đưa bút, nối liền, nhấc bút.
1.2. Điểm bắt đầu:
Điểm bắt đầu là điểm khi viết một nét trong con chữ cái, điểm bắt đầu có khi
nằm trên đường kẻ, đường li hoặc dòng li tuỳ theo con chữ cái đứng đầu của chữ đó.
1.3. Điểm kết thúc:
Điểm kết thúc là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm kết thúc có
thể có thể trùng với điểm bắt đầu hoặc giống vị trí điểm bắt đầu.
Ví dụ: Điểm kết thúc trùng với điểm bắt đầu ở các chữ cái o, ô, ơ viết thường.
1.4. Nối liền:
Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng trước tới điểm
bắt đầu của nét đứng sau.
Ví dụ: Con chữ a nối với con chữ n :an
Con chữ x nối với inh : inh
1.5. Đặt bút:
11
- Đặt bút là điểm bắt đầu của con chữ, trùng với điểm bắt đầu của chữ. Trong
một chữ có một điểm bắt đầu nhưng cũng có thể có nhiều điểm đặt bút, chẳng hạn
khi viết chữ : tho - đặt bút viết con chữ t ,... đặt bút viết con chữ o.
1.6. Nhấc bút:
Nhấc bút là điểm kết thúc của con chữ, trùng với điểm kết thúc của chữ. Trong
một chữ có nhiều lần nhấc bút, chẳng hạn khi viết chữ : oa- ... nhấc bút, đặt bút viết
con chữ a .
1.7. Đưa bút
Đưa bút là điểm kết thúc của con chữ, viết nối các chữ cái với nhau, nét bút
được thể hiện liên tục ngòi bút không chạm vào mặt giấy, thao tác đưa trên không
hoặc viết đè lên theo hướng ngược lại; ngòi bút chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét
đứng trước đên điểm bắt đầu của nét liền sau.
Chẳng hạn khi viết chữ : thoáng ( cỡ chữ vừa)- Đặt bút từ đường li thứ hai viết
con chữ t cao 3 dòng li, nối liền sang con chữ h cao 5 dòng li, dừng bút ở đường li 1,
nhấc bút, đặt bút dưới đường li 2 viết con chữ o cao 2 dòng li, viết nét nối, nhấc bút,
đặt bút dưới dòng li 2 viết con chữ a cao 2 dòng li, nối liền sang con chữ n cao 2
dòng li, dừng bút ở đường li 1, nhấc bút, đặt bút dưới dòng li 2 viết con chữ g cao 5
dòng li, kết thúc ở đường li 1, được chữ thoáng.
2. Cấu tạo của chữ cái Tiếng Việt
Kí hiệu của ngôn ngữ được xây dựng trên hệ thống kí tự đã được chuẩn hoá.
Những đặc điểm của chữ viết là yếu tố để phân biệt các chữ cái khi thể hiện ngôn
12
- ngữ viết. Những yếu tố cấu tạo nên chữ viết là hệ thống các nét chữ gồm ba loại:
- Nét thẳng: + Nét thẳng đứng
+ Nét ngang
- Nét xiên : +Nét xiên phải
+ Nét xiên trái
- Nét cong: + Nét cong hở trái
+ Nét cong hở phải
+ Nét cong kín
Tuy vậy, hệ thống chữ ghi âm Tiếng Việt ngoài các nét cơ bản trong cấu tạo chữ
viết còn có nét dư. Những nét dư này tạo nên sự liên kết giữa các con chữ trong chữ.
Nét phối hợp là nét trên cơ sở lấy nét chữ cơ bản làm nền tính từ điểm xuất phát kéo
dài nét đó cho đến khi đủ độ cao nhờ vậy chữ viết không bị gãy vụn, chẳng hạn khi
viết chữ a ta phân tích thành hai nét: nét cong kín và nét móc ngược .
3. Bồi dưỡng về phương pháp rèn chữ viết, giữ vở sạch cho giáo viên
3.1 Phương pháp trực quan.
Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện
đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng
to trên bảng hoặc trên máy chiếu, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu...
Chữ mẫu phải đúng mẫu, rõ ràng và đẹp giúp học sinh dễ quan sát giúp các em
phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo chữ cái cần viết cần viết trong bài
học. Chữ mẫu của giáo viên trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự các nét chữ
13
- của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết
liền mạch, viết nhanh, đồng thời cũng giúp giáo viên hướng dẫn học sinh quy trình
viết một cách cụ thể, rõ ràng.
3.2 Phương pháp đàm thoại gợi mở.
Phương pháp đàm thoại gợi mở được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết
học. Giáo viên cần cho học sinh tri giác chữ cái đồng thời nhận biết thông qua hệ
thống câu hỏi để học sinh nắm được cấu tạo, độ cao, kích thước của chữ cái. Từ đó,
so sánh các nét giống nhau và các nét khác biệt giữa các chữ cái đã học. Khi dạy,
giáo viên cần có hệ thống câu hỏi khái quát và nhất quán để học sinh có biểu tượng
trong đầu trước khi nhận xét chữ cái đó là: độ cao, bề rộng , khoảng cách và các nét.
3.3 Phương pháp đàm thoại gợi mở.
Phương pháp đàm thoại gợi mở được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn
đầu của tiết học. Giáo viên cần cho học sinh tri giác chữ cái đồng thời nhận biết
thông qua hệ thống câu hỏi để học sinh nắm được cấu tạo, độ cao, kích thước của
chữ cái. Từ đó, so sánh các nét giống nhau và các nét khác biệt giữa các chữ cái đã
học. Khi dạy, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi khái quát và nhất quán để học sinh
có biểu tượng trong đầu trước khi nhận xét chữ cái đó là: độ cao, bề rộng , khoảng
cách và các nét.
Chẳng hạn: Khi dạy chữ A viết hoa, giáo viên cần đưa ra một số câu hỏi : Chữ
A viết hoa cao mấy dòng li, bề rộng là bao nhiêu? Chữ A viết hoa nằm trong mấy ô?
Chữ A viết hoa gồm có mấy nét? Là những nét nào ? Khi học sinh đã quen với các
14
- câu hỏi đó thì giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi khái quát như: Em hãy
nhận xét cách viết chữ viết hoa A?
3.4. Phương pháp luyện tập
Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải được tiến hành từ dễ đến khó để giúp
học sinh dễ tiếp thu, đầu tiên là viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước, cỡ chữ, sau
đó là viết đúng dòng, đúng tốc độ . Quá trình rèn luyện kĩ năng viết chữ phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục ở lớp cũng như ở nhà và ở các phân môn học khác.
Trong khi học sinh luyện tập viết chữ thì giáo viên phải luôn quan tâm uốn nắn từng
nét, từng con chữ và đặc biệt là tư thế ngồi viết đúng .
Hình thức luyện tập trên bảng con được sử dụng trong khi kiểm tra bài cũ,
trước khi viết vào vở, giúp cho học sinh định hình và nắm được quy trình viết, đồng
thời cũng giúp giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết
của từng bài: từ điểm bắt đầu, cách đưa bút, độ cao, khoảng cách , cách nối các con
chữ, vị trí nhấc bút, đặt bút, thứ tự viết nét cho đến điểm kết thúc.Từ đó giáo viên
phát hiện ra chỗ sai để kịp thời uốn nắn. Khi học sinh viết bài vào vở cần cho các em
quan sát vở mẫu để giúp các em có ý thức viết chữ đẹp, đồng thời viết đủ, đúng số
dòng quy định. Đặc biệt để giúp cho học sinh có bộ vở sạch, chữ viết đẹp thì giáo
viên cần quan tâm tới chất lượng chữ viết ở tất cả các loại vở, các môn học.
3.5. Rèn chữ viết rõ ràng, sạch đẹp
- Chất lượng chữ viết phụ thuộc vào nhiều yếu tố về chủ quan và khách quan,
để giúp học sinh viết được chữ đẹp, giữ được vở sạch thì giáo viên cần thường
15
- xuyên quan tâm tới học sinh về đồ dùng học tập. Đồ dùng học tập bao gồm bảng
con, phấn, giẻ lau, bút chì, bút mực. Để đạt được chất lượng chữ viết cao thì giáo
viên cần làm tốt các yêu cầu sau:
Bảng con có màu xanh, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng đều
đặn, bảng viết 4 li giống trong vở tập viết. Phấn viết có độ dài vừa phải những hôm
thời tiết hanh khô thì cho học sinh viết phấn mềm, những ngày thời tiết bình thường
thì cho học sinh viết phấn rắn để các nét chữ của các em rõ ràng, đẹp, giúp giáo viên
dễ uốn nắn. Khăn lau bảng phải sạch, đủ ẩm giúp các em lau bảng được sạch sẽ đỡ
mất vệ sinh đảm bảo sức khoẻ cho học sinh.Vở tập viết cần được giữ gìn sạch sẽ,
không quăn mép, không giây bẩn. Bút chì cần giữ gìn cẩn thận không vót nhọn quá,
không tù quá để khi viết rõ nét chữ, nên sử dụng chì loại 2B. Bút mực nên sử dụng
loại bút ngòi có độ nét vừa phải không nhỏ quá như bút kim tinh hoặc không to quá
như bút mài, vì học sinh lớp một chưa có kĩ năng sử dụng bút mực. Một yếu tố đặc
biệt quan trọng khi học sinh viết bài phải đảm bảo giữ gìn vở sạch sẽ. Để giữ gìn
được vở sạch sẽ thì học sinh phải đảm bảo vệ sinh cá nhân tốt đặc biệt là đôi bàn
tay. Để đạt được yêu cầu này thì giáo viên phải thường xuyên kiểm tra vệ sinh tay
cho các em trước khi viết bài.
Thực hiện đúng quy định khi viết chữ :
- Tư thế ngồi viết : Lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách
vở 25- 30cm cầm bút bằng tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị
xê dịch, hai chân để thẳng thoải mái.
16
- Cách cầm bút bằng 3 đầu ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) không
cầm chặt quá, không cầm lỏng quá, khi viết di chuyển bút nhẹ nhàng từ trái sang
phải, quản bút hơi nghiêng tay cử động mềm mại thoải mái.
Cách để vở hơi nghiêng khi viết mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành
một góc 15 độ . Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn tạo thành một
góc 90 độ.
Cách trình bày bài theo đúng mẫu trong vở tập viết, khi viết sai không được tẩy
xoá mà viết lùi sang bên phải, không được viết dang dở hoặc viết thừa ra mép vở
không có dòng kẻ. Để đảm bảo được chất lượng chữ viết đẹp, giữ gìn vở sạch thì tôi
đã chỉ đạo giáo viên thực hiện một số yêu cầu theo quy trình tiết tập viết (cả tiết học)
như sau:
I. Kiểm tra bài cũ.
Đọc cho học sinh viết chữ cái 2 từ của bài hôm trước.
Cho học sinh nhận xét
Giáo viên uốn nắn sửa sai cho học sinh bằng phấn màu. Cần động viên kịp thời
những em viết đẹp và tiến bộ.
II. Bài mới
1. Giới thiệu bài: Nêu nội dung và yêu cầu tiết dạy.
Bài :...
Chữ mẫu- Từ ứng dụng
2. Hướng dẫn học sinh viết chữ
17
- - Giáo viên đưa chữ mẫu cho hoạc sinh quan sát
- Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận biết, so sánh : Chữ gì? gồm mấy nét?
Nét nào đã học, giống chữ nào đã học, phần nào khác?...
- Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ:
+ Sử dụng chữ mẫu để học sinh quan sát.
+ Viết mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh quan sát
+ Viết mẫu trên dòng kẻ bảng lớp để học sinh để học sinh nắm vững quy
trình viết. Sau đó dùng que chỉ lại để nêu lại quy trình.
- Cho học sinh tập viết trên bảng con giúp học sinh nắm chắc cách viết và giáo
viên kịp thời uốn nắn, sửa sai.
3. Hướng dẫn học sinh viết ứng dụng
Giáo viên giới thiệu nội dung và viết ứng dụng đồng thời gợi ý cho học sinh hiểu ý
nghĩa của từ ứng dụng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về cách viết ứng dụng (độ
cao, bề rộng , khoảng cách , quy trình viết liền mạch- đặt bút, đưa bút, nối liền các
con chữ, cách đặt dấu thanh)
Giáo viên viết mẫu minh hoạ để học sinh theo dõi.
Học sinh tập viết trên bảng con. Giáo viên uốn nẵn sửa sai.
4. Thực hành luyện viết.
Cho học sinh nêu yêu cầu và nội dung bài viết trong vở
Học sinh luyện viết. Giáo viên theo dõi giúp đỡ.
18
- 5. Chấm , chữa bài
Giáo viên chấm một số bài HS đã viết xong trên lớp( còn lại thu về nhà chấm).
Nhận xét kết quả bài viết của HS, khen ngợi những em viết đẹp, sạch sẽ,
nhanh.
4. Vở tập viết
Vở tập viết do nhà xuất bản giáo dục ấn hành hàng năm là phương tiện luyện
tập thực hành quan trọng của học sinh. Vở tập và đã in sẵn chữ mầu thể hiện nội
dung và yêu cầu của bài tập viết. Giáo viên cần nắm vững những yêu cầu và đặc
điểm của từng bài viết để hướng dẫn cách viết thích hợp.
5. Sử dụng bảng con và các đồ dùng trực quan khi dạy
5.1. Sử dụng bảng con
Bảng con cũng là một phương tiện hữu hiệu để học sinh luyện tập kỹ năng
viết trước khi viết vào vở. Trong quá trình viết chữ trên bảng con, học sinh có thể
nhận xét chữ của mình, của bạn và có thể xoá ngay chỗ sai để viết lại cho đúng hoặc
giáo viên có thể chữa đè lên chỗ học sinh viết sai bằng phấn mầu ( học sinh viết
bằng phấn trắng). Do đó khi luyện tập viết, cần lưu ý học sinh không được viết quá
nhỏ, không viết sát mép bảng. Học sinh giơ bảng bằng hai tay, khuỷu tay để trên mặt
bàn.
5.2. Sử dụng đồ dùng trực quan
Trong việc dạy học tập viết cần sử dụng một số đồ dùng trực quan. Những đồ
dùng này nhằm mục đích giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về chữ viết, có ý
19
- thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn trấn trong quá trình dạy học viết
chữ theo hướng đổi mới phương pháp dạy học. Đồ dùng trực quan có thể sử dụng
để giới thiệu bài mới, sử dụng khi phân tích màu chữ, sử dụng trong giai đoạn luyện
tập hoặc để củng cố bài học. Có thể sử dụng các đồng hồ trực quan sau:
a. Mẫu chữ trong phông chữ phóng to
Mẫu chữ trong khung chữ phóng to theo bản mẫu chữ hiện hành bên phải
bảng lớp. Bảng mẫu chữ cần cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ động khi
cần thiết. Không chỉ trong giờ tập viết mà ngay cả trong giờ các môn học khác khi
có học sinh viết không đúng mẫu.
b. Chữ mẫu của giáo viên trên bảng lớp:
Trong giờ dạy học tập viết, chữ viết mẫu của giáo viên cũng là một phương
tiện trực quan hữu hiệu. Nội dung bài viết được giáo viên trình bày trên bảng đúng
mẫu sạch sẽ là tấm gương tốt để học sinh noi theo. Mặt khác khi hướng dẫn quy
trình viết chữ ngoài việc phân tích cách viết và đồ chữ theo nét viết mẫu theo quy
trình của giáo viên trước học sinh, sẽ giúp cho các em nắm bắt cách viết được dễ
dàng hơn.
Ngoài ra, giáo viên có thể chuẩn bị những đồ dùng dạy học khác tự làm để
thực hiện bài dạy tập viết có thể trong chương trình.
6. Kết quả
Với những phương pháp nêu trên tôi đã sử dụng tác động cụ thể vào lớp 1B,
khảo sát chất lượng tháng 2 năm 2012 và thu được kết quả như sau:
20
- Kết quả
Số
Giỏi Khá TB Yếu
HSKS
SL % SL % SL % SL %
19 2 10 10 53 6 32 1 5
Như vậy sau thời gian thực nghiệm có sự tác động tích cực phối hợp các biện
pháp rèn chữ trên tôi đã thu được một kết quả rất khả quan, tỷ lệ học sinh viết chữ
đẹp, đúng mẫu tăng lên rõ rệt, tỷ lệ học sinh viết chữ không đẹp giảm đi rõ ràng.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
*Về mặt lý luận
Phân môn Tập viết ở tiểu học truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản
về chữ viết và kỹ thuật chữ viết. Trong các tiết tập viết, học sinh nắm bắt được các
tri thức cơ bản về cấu tạo bộ chữ La tinh: Ghi âm bằng tiếng Việt, sự thể hiện bộ
chữ cái này trên bảng, vở.. đồng thời được hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật về nét
chữ, chữ cái, viết từ và câu...
Riêng lớp 1 việc dạy viết trọng tâm là tập viết các chữ cái cỡ vừa và nhỏ, tập
ghi dấu thanh đúng vị trí, làm quen với chữ hoa cỡ lớn và cỡ vừa theo mẫu quy định
Rèn chữ viết cho học sinh không chỉ rèn luyện cho các em kỹ năng viết chữ
đẹp, phục vụ tốt cho việc chép để học tốt các môn học khác mà còn rèn cho các em
21
- tính cẩn thận, tỉ mỉ, tính kỉ luật và khiếu thẩm mỹ.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề ra các biện pháp tích cực để rèn luyện cho học
sinh là vô cùng cần thiết.
* Về mặt thực tiễn
Qua thực trạng lớp 1 với bảng thống kê trước và sau khi tác động đã thấy rõ:
Để giúp các em rèn luyện chữ một cách có hiệu quả cần thiết thực hiện một số biện
pháp như sau:
1. Xác định rõ nhiệm vụ, phương pháp của việc dạy phân môn tập viết.
Nhiệm vụ trọng tâm của dạy viết là hướng dẫn các em viết đúng, viết sạch, đẹp. Hỏi
đáp, quan sát và luyện tập thực hành là phương pháp được dùng chủ yếu trong quá
trình dạy tập viết.
2. Dạy học sinh nắm chắc cách viết các nét chữ cơ bản từ đó vận dụng vào
viết tiếng, từ hoặc câu ứng dụng.
3. Quan tâm nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh, kịp thời động viên,
khen ngợi những học sinh viết chữ đẹp hoặc những học sinh có tiến bộ trong khi
viết. Để dạy học sinh viết chữ đẹp, đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị công phu
cho từng bài dạy, sự tỉ mỉ kiên nhẫn của giáo viên.
4. Giáo viên phải dự kiến được những sai lầm thường mắc phải của học sinh
trong quá trình viết chữ để có biện pháp sửa chữa kịp thời, không được bỏ qua bất
kỳ một sai sót nào của các em.
5. Bản thân mỗi giáo viên phải kiên trì rèn luyện chữ viết của mình để chữ
22
- viết của thầy luôn là chữ mẫu để học sinh học tập. Ngoài ra, giáo viên không phải
không ngừng học hỏi kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp.
6. Bàn ghế, bảng lớp đúng quy cách, phòng học đủ ánh sáng, phụ huynh cần
trang bị đầy đủ dụng cụ học tập cho học sinh.
2. Kiến nghị
*Đối với Sở giáo dục
Đề nghị Sở giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo, thực hiện việc nâng
cao chất lượng dạy và học viết chữ ở các trường tiểu học. Tiếp tục đẩy mạnh phong
trào luyện viết chữ đẹp cho giáo viên, học sinh và tổ chức các cuộc thi viết chữ đẹp
hàng năm. Ở các cấp cơ sở tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học nhằm tạo điều
kiện tốt cho việc dạy và học viết chữ trong trường tiểu học. Mỗi lớp học cần được
trang bị đầy đủ bản mẫu chữ viết của bộ ban hành.
*Đối với Phòng giáo dục
Phòng giáo dục cần chỉ đạo một cách đồng bộ và kiểm tra thường xuyên việc
thực hiện phong trào” Vở sạch chữ đẹp” ở các trường. Hàng năm tổ chức thi viết
chữ đẹp của giáo viên và học sinh.
*Đối với nhà trường
- Nâng cao nhận thức cho giáo viên và học sinh về tầm quan trọng của việc rèn
chữ, giữ vở.
- Tổ chức chuyên đề hội thảo về kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh.
23
nguon tai.lieu . vn