Xem mẫu
- PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình
thành nhân cách của học sinh. Nội dung chương trình ở bậc Tiểu học có nhiều
môn học, các môn học này rất đa dạng và phong phú. Song chúng luôn tác động cho
nhau giúp học sinh phát triển toàn diện. Trong nội dung các môn học thì môn Tiếng
Việt là môn học hết sức quan trọng. Nó là công cụ cần thiết để học tốt các môn học
khác. Học tốt môn Tiếng Việt sẽ góp phần giáo dục nhân cách và cung cấp cho các
em kiến thức cơ bản để hình thành những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe nói
đọc viết) đáp ứng nhu cầu cuộc sống và yêu cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong
môn Tiếng việt có phân môn Luyện từ và câu nó có tính chất tổng hợp, có mối quan
hệ chặt chẽ với việc học tập: tập đọc kể chuyệnluyện từ và câu tập làm văn.
Đây là nơi tiếp nhận và cũng là nơi luyện tập ngày càng nhuần nhuyễn kỹ năng và
kiến thức của các phân môn trên. Phân môn Luyện từ và câu trở thành sản phẩm
tổng hợp là nơi trình bày kết quả đích thực nhất của việc học Tiếng việt. Phân môn
Luyện từ và câu là một tên gọi mới trong ch ương trình thay sách giáo khoa
sau năm 2000, th ực ch ất nó là phân môn bao gồm nội dung hai phân môn
trong chươ ng trình cũ là Ngữ pháp và Từ ngữ. Phân môn Luyện từ và câu là
một trong nh ững phân môn quan trọng trong môn Tiếng việt. Nó bao gồm
toàn bộ các quy tắc cấu t ạo t ừ, bi ến đổ i từ, kết hợp từ thành cụ m từ, câu,
các quy tắc liên kết cấu tạo thành đoạn văn và văn bản ( ở Tiểu học gọi là
đoạn và bài). Luyện từ và câu còn chi phối vi ệc sử d ụng các đơ n vị ngôn
ngữ để tạo thành lời nói, làm cho ngôn ngữ thực hiện đượ c chức năng công
cụ giao tiếp trong đời sống xã hội. Luyện từ và câu có vai trò quan trọng
trong vi ệc tổ ch ức ho ạt động tạo lập và lĩnh hội ngôn bản, hướ ng dẫn học
sinh nghe nói đọc viết. Luyện từ và câu là một yếu tố quan trọng để phát
triển năng lực trí tuệ, kỹ năng giao tiếp, nh ững ph ẩm ch ất đạ o đứ c tố t đẹ p
của học sinh. Vi ệc d ạy Luy ện t ừ và câu trong Tiểu học có mộ t vai trò đặ c
biệt quan tr ọng. Ngay t ừ ngày đầu đến trườ ng các em đã đượ c bắt đầ u làm
quen với Luy ện từ và câu, nó đượ c dạy trong tất cả các phân môn Tiếng
việt, ở đâu có dạy tiếp nhận và sản sinh lời nói thì ở đó dạy Luyện từ và
câu. Ngoài ra Luyện từ và câu còn đượ c dạy với tư cách là mộ t phân môn
độc lập.
Hiện nay ở Tiểu học trong phân môn Luyện từ và câu, phần dạy khái niệm
Từ láy là một phần tương đối khó và phức tạp gây khó khăn trong quá trình giảng
dạy của giáo viên. Đa phần giáo viên chưa nắm vững vấn đề này bởi còn rất
nhiều ý kiến chưa đồng nhất với nhau về các quan điểm.
Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy hầu như tất cả giáo viên đều rất
coi trọng môn Tiếng Việt, dành rất nhiều thời gian cho môn học nhưng chất
lượng môn Tiếng Việt vẫn chưa đạt như mong muốn. Một trong những nguyên
1
- nhân đó là do hiệu quả phân môn Luyện từ và câu chưa cao, đặc biệt là phần
“khái niệm từ láy” cho học sinh.
Làm thế nào để dạy học tốt phân môn luyện từ và câu phần khái niệm
từ láy góp phần nâng cao chất lượng của môn Tiếng Việt ?
Đây là nổi trăn trở của rất nhiều thầy cô đang trực tiếp đứng lớp, luôn tìm
tòi nghiên cứu tìm biện pháp thích hợp nâng cao chất lượng giảng dạy. Mặt
khác, Luyện từ và câu là một phân môn trong sách Tiếng Việt lớp 4 thường
được đánh giá là khô khan, trừu tượng trong các phân môn Tiếng Việt, các em
rất “chán” môn này. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy nội dung phân môn
luyện từ và câu là phù hợp với năng lực nhận thức của các em. Nếu người giáo
viên có phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tổ chức hướng dẫn các hoạt
động một cách linh hoạt, nhẹ nhàng, thì các em sẽ rất hứng thú, chủ động nắm
chắc kiến thức. Ngược lại, nếu giáo viên “ngán” dạy phân môn mà tổ chức bài
dạy đơn điệu, phương pháp áp đặt thì học sinh sẽ khó tiếp thu, “sợ” học, nhất là
những em có học lực trung bình và yếu. Ngoài ra trong các nội dung của Luyện
từ và câu thì giáo viên thường xem nhẹ phần từ láy, học sinh không biết thì giáo
viên tìm giúp nên các em thường rất thụ động dẫn đến vốn từ nghèo nàn, việc
dùng từ khi viết văn chưa hay ảnh hưởng chung đến chất lượng môn Tiếng
Việt.
Học sinh muốn nắm chắc được ngữ pháp trước hết phải nắm vững cấu tạo
từ (đơn vị nhỏ của câu). Là một giáo viên được nhà trường phân công dạy lớp 4,
tôi thấy việc giảng dạy cho học sinh nắm rõ khái niệm từ, biết vận dụng từ vào
thực tế bài học, vào cuộc sống giao tiếp là điều hết sức quan trọng. Mặt khác,
học sinh muốn viết câu đúng ngữ pháp, câu có hình ảnh, cảm xúc phải hiểu rõ
từ. Hình ảnh, cảm xúc được thể hiện rõ ở các từ đơn, từ ghép, từ láy (đặc biệt
là từ láy).
Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ dạy ngữ pháp ở Tiểu học là giúp cho học
sinh nhận diện, phân loại các đơn vị ngữ pháp, nắm các qui tắc cấu tạo và sử
dụng các đơn vị này trong hoạt động giao tiếp của mình. Đồng thời, ngữ pháp
còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy giáo dục thẩm mỹ cho học sinh
Do đó, việc giảng dạy cho học sinh cần nắm chắc, phân biệt rõ cấu tạo
các từ sẽ là cơ sở cho việc viết văn hay, đúng ngữ pháp.
Chính vì vậy, từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài: Phương pháp dạy
Luyện từ và câu “Khái niệm từ láy” . Với mong muốn tìm ra cách dạy tốt nhất
để các em hiểu và nắm chắc cấu tạo từ láy và vận dụng hết các tác dụng của nó
vào quá trình sử dụng ngôn ngữ trong học tập vào đời sống hằng ngày một cách
chính xác, có hiệu quả cao làm cho cuộc sống thêm giàu hình ảnh, giàu màu sắc,
tươi tắn, vui v ẻ h ơn.
II MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
2
- Tạo điều kiện để học sinh có cơ hội tham gia vào các hoạt động nhận
thức, khám phá, chiếm lĩnh các tri thức một cách tốt nhất để có điều kiện khắc
sâu, nhớ lâu, vận dụng tốt.
Giúp học sinh nắm vững khái niệm ngữ pháp, biết vận dụng để giải các
bài tập, học tốt các bộ môn khác của Tiếng Việt cũng như trong ngôn ngữ giao
tiếp thông qua “Cách” phân tích dữ liệu.
Đối với giáo viên cung cấp một số phương pháp mới, cách thức để hoàn
thành việc dạy khái niệm Luyện từ và câu thông qua việc “ phân tích ngữ liệu”
mới để làm rõ những dấu hiệu bản chất của khái niệm.
III BẢN CHẤT CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu cơ sở khoa học của việc dạy khái niệm từ láy.
Điều chỉnh một số nội dung, phương pháp dạy khái niệm từ láy.
Thực hiện dạy học thực nghiệm theo phương pháp đã điều chỉnh.
IV ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Do khuôn khổ của đề tài và điều kiện thời gian hạn hẹp, đề tài chỉ đi sâu
nghiên cứu: Phương pháp dạy luyện từ và câu “Khái niệm từ láy” . Và chủ
yếu trình bày kiến thức và một số giải pháp chỉ dạy khái niệm Từ láy. Luyện
từ và câu lớp 4 + 5 và tiến hành dạy thực nghiệm trên lớp 4 của trường Tiểu học
Bình Dương II Vĩnh Tường Vĩnh Phúc.
V PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để giải quyết được các nhiệm vụ của đề tài, tôi đã dùng các phương pháp
nghiên cứu như:
1Phương pháp phân tích và tổng hợp
2Phương pháp trao đổi và đàm thoại
3Phương pháp điều tra thực trạng
4Phương pháp thực nghiệm
5Phương pháp nghiên cứu tài liệu có liên quan
6Phương pháp nghiên cứu lý luận
7 Thăm dò, khảo sát chất lượng học sinh
VIGIỚI HẠN VỀ KHÔNG GIAN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
Do khuôn khổ của đề tài và điều kiện thời gian hạn hẹp. Tôi chỉ thực hiện
thực nghiệm đề tài trên lớp mình giảng dạy tại Trường Tiểu học Bình Dương
II Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc
3
- VII PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Trong quá trình giảng dạy Tiếng Việt lớp 4 5 từ năm học 2012 2013
đến năm học 20132014
PHẦN II: NỘI DUNG
I CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Cơ sở của bài viết này dựa trên cơ sở khoa học của phương pháp dạy học
của môn Tiếng Việt nói chung và cơ sở khoa học của phương pháp dạy Luyện
từ và câu nói riêng.
1 Cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin.
Triết học Mác Lênin là cơ sở phươ ng pháp luận của phươ ng pháp dạ y
Tiếng Việt, giúp ta hiểu đượ c đối tượ ng của khoa h ọc ngôn ngữ một cách
sâu sắc, trang b ị cho chúng ta phươ ng pháp nghiên cứu đúng đắn.
Trong học thuy ết MácLênin cho rằng: “ Ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp quan trọng của loài người, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất mà còn là phương tiện đặc trưng của loài người. Không có
ngôn ngữ, xã hội không thể tồn tại. Nếu ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp,
trao đổi tư tưởng tình cảm thì nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của nhà
trường là phát triển ngôn ngữ cho học sinh. Tất cả các giờ dạy Tiếng Việt
phải đi theo khuynh hướng toàn diện đó là (nói, đọc, viết, nghe) và đặc biệt
với phân môn Luyện từ và câu phải đi nghiên cứu về ngữ pháp, từ ngữ...
Học sinh cần phải hiểu rõ người ta nói và viết không phải chỉ để cho mình
và cho người khác. Cho nên ngôn ngữ cần sắc bén, rõ ràng, đúng đắn, dễ
hiểu và chuẩn về ngữ pháp”. Các Mác cho rằng “Ngôn ngữ là hiện thực
trực tiếp của tư duy”.
Thật vậy, ngôn ngữ luôn gắn bó chặt chẽ với tư duy, ngôn ngữ là
phươ ng tiện di ễn đạt tư duy của loài ngườ i. Tư duy của loài ngườ i không
thể phát triển nếu thi ếu ngôn ngữ. Việc chi ếm lĩnh ngôn ngữ nhằm tạo ra
những tiền đề phát triển tư duy trong vi ệc d ạy h ọc ( Việc giải nghĩa từ) cũng
có thể đi từ tư duy đến ngôn ngữ. Từ một ý ta có thể viết thành những câu
khác nhau. N ếu tách ngôn ngữ ra khỏi t ư duy s ẽ là phươ ng pháp sai lầm về
triết học của m ọi quan h ệ ngôn ngữ và tư duy.
Nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra nhận thức tâm lý
đi qua 2 giai đoạn: Nhận th ức c ảm tính và nhận thức lý tính. Đây là cơ sở
4
- nguyên tắc trực quan trong d ạy Ti ếng Vi ệt. Đứa trẻ nhận thức thế giới xung
quanh một cách cảm tính bằng mắt, g ắn v ới màu sắc, âm thanh cụ thể. Do
đó, nhiệm vụ đầu tiên của trườ ng Tiểu học trong d ạy Ti ếng Vi ệt là phát
triển khả năng nhận thức cảm tính dựa trên kinh nghiệm sống và kinh
nghiệm lời nói để dần hình thành cho các em đến nhận thức lý tính.
2 Cơ sở ngôn ngữ học:
Các nhà ngôn ngữ học đều thừa nhận sự tồn tại hiển nhiên của từ, thừa
nhận tính chất cơ bản, trọng tâm của từ trong ngôn ngữ nhưng đều đi tới một
định nghĩa.
* Ví dụ: Sự biến đổi mất các phụ âm ghép, sự xuất hiện thanh điệu, sự
chuyển nghĩa trong từ, sự phát triển vốn từ.
Luyện từ và câu nhìn chung tương đối ổn định và bền vững. Các hiện
tượng ngữ pháp trong các văn bản thời xưa và hiện nay không quá khắc nghiệt
và quá khó hiểu đối với người bản ngữ.
3 Cơ sở giáo dục:
Giáo dục nói chung và lý luận dạy học đại cươ ng nói riêng cung cấp
phươ ng pháp dạy học Tiếng Vi ệt nói chung cũng như dạy Luyện từ và câu
nói riêng, những bi ểu hi ện v ề quy lu ật chung c ủa vi ệc d ạy h ọc các môn.
M ụ c đích c ủ a ph ươ ng pháp d ạ y h ọ c Ti ế ng Vi ệt cũng nh ư phân môn
Luy ệ n t ừ và câu là t ổ ch ứ c s ự phát tri ể n tâm hồ n và th ể ch ấ t c ủ a h ọ c sinh,
chu ẩ n b ị cho các em đi vào cuộ c s ố ng th ự c ti ễn ho ặc ti ếp t ục h ọc t ập. Do
đó m ụ c tiêu c ủ a giáo d ụ c đ ề ra là phát tri ể n trí tu ệ , hình thành th ế gi ớ i
quan khoa h ọ c, phát tri ể n t ư duy sáng t ạ o cho h ọ c sinh, giáo d ụ c t ư tưở ng
đ ạ o đứ c, phát tri ể n óc, th ẩ m m ỹ giáo d ụ c tổ ng h ợ p và giáo dụ c lao độ ng.
Dạy cho các em học sinh Ti ểu h ọc hình thành các khái niệm từ láy cơ
bản vào trong quá trình nhận thức, nguyên tắc gắn lý thuyết với thực hành,
nguyên tắc trực quan, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc
giáo dục và phát triển của dạy học... do đó học sinh vận dụng những t ừ ngữ
chuẩn mực đạt đúng câu, hiểu rõ thực tế của từ, câu để áp dụng vào đặ t câu,
áp dụng tốt h ơn các môn học khác.
4 Cơ sở tâm lý học:
1Bản chất tâm lý quá trình hình thành khái niệm từ láy:
Đặc điểm tâm lý của học sinh Ti ểu h ọc v ề tri giác mang tính đơ n giản,
đại khái, ít đi vào cụ thể chi ti ết, không chủ độ ng...
Đ ặ c đi ể m này th ể hi ệ n ở ch ỗ các em r ấ t khó khăn phân bi ệ t chính xác
s ự khác nhau và giố ng nhau gi ữ a các s ự vậ t. Trong khi đó các khái ni ệ m
ng ữ pháp hoàn toàn mang tính ch ấ t lý thuy ế t tr ừ u t ượ ng, c ụ th ể b ằng các
ngôn li ệ u tr ự c quan.
Ở cuối bậc Tiểu học, tuy ghi nh ớ có chủ định của các em phát triển
mạnh nhưng ghi nhớ không chủ định vẫn giữ vai trò quan trọng, ở giai đoạ n
5
- này các em phải ghi nhớ một cách máy móc, mà các khái niệm ngữ pháp
đượ c xây dựng trên cơ sở ngữ liệu Tiếng Vi ệt, trong khi Ti ếng Vi ệt là mộ t
ngôn ngữ hết sức ph ức t ạp khi ến cho vi ệc n ắm các khái niệm ngữ pháp là
rất khó khăn.
Quá trình d ạ y hình thành v ề khái ni ệ m h ọ c sinh s ẽ lĩnh hộ i đượ c ở
nhi ề u m ứ c độ khác nhau, có h ọ c sinh ch ỉ n ắ m đượ c nhữ ng thu ộ c tính bề
ngoài ứ ng m ớ i m ộ t vài khái ni ệ m c ủ a b ả n thân, có h ọ c sinh do không hi ể u
b ả n ch ấ t khái ni ệ m nên không th ể dùng lờ i nói đ ể di ễ n đạ t nộ i dung khái
ni ệ m.
Trình độ lĩnh hội khái niệm có thể các mức độ:
+ Mức độ mô tả, tái hiện.
+ Mức độ giải thích vận dụng.
+ Mức độ chỉ dẫn biến hoá.
2 Dạy cho học sinh nắm khái niệm một cách vững chắc:
Lựa chọn hiện tượ ng, sự v ật, các ví dụ điển hình để hình thành khái
niệm khi d ạy “ Từ láy” bởi vì đối với phân môn Luyện từ và câu trong giờ
dạy chủ yếu hướ ng d ẫn cho các em thực hành nhiều nên giáo viên cần lựa
chọn những dữ liệu tiêu biểu, có đặc điểm ý nghĩa và đặ c điểm ngữ pháp rõ
ràng, tiêu biểu để học sinh dễ tiếp thu. Khi h ọc sinh đã nắm đượ c khái niệm
rồi thì mới mở rộng sự nh ận bi ết v ề khái niệm đó.
Phải tổ chức cho các em quan sát phân tích sự vật để tìm ra những đặ c
điểm chủ yếu bản ch ất so sánh với những nét không bản chất.
Cần chú ý đến trình độ nắm khái niệm của học sinh. Tuy nhiên, đố i vớ i
học sinh Ti ểu học không phải bao gi ờ cũng hiểu dễ dàng đượ c các khái
niệm do vốn ki ến th ức c ủa các em còn có hạn nên việc nắm bắt của các em
còn gặp nhi ều khó khăn.
Đây là cơ sở đề xuất các biện pháp nhằn nâng cao hiệu quả của giờ d ạy
hình thành khái niệm “Từ láy” cho học sinh Ti ểu h ọc.
II THỰC TR ẠNG V ẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU :
1 Về chươ ng trình:
Chươ ng trình Luyện từ và câu ở Tiểu học dạy từ lớp 2 lớp 5, ở l ớp
2, 3 các bài Luyện từ và câu riêng nhưng đượ c dạy mỗi tuần 1 tiết. L ớp 4, 5
có tiết học độc lập riêng mỗi tuần 2 ti ết. N ội dung g ồm danh t ừ, độ ng từ ,
tính từ, từ đơn, từ ghép, từ láy, cách xưng hô trong giao ti ếp, câu từ, tiết ôn
tập, chủ ngữ, v ị ng ữ, tr ạng ng ữ... các câu có từ nối, hoặc không có từ nố i.
Chươ ng trình Luyện từ và câu ở bậc Tiểu học chủ yếu mang tính thực
hành, mang tính đồng âm, lấy câu làm trung tâm, học sinh b ắt đầu học câu và
kết thúc chươ ng tình ở cuối bậc Ti ểu h ọc cũng bằng câu.
2Về việc d ạy và học
6
- Giáo viên cần nắm vững kiến thức về từ đơn, từ ghép, từ láy bởi nội dung
kiến thức liên quan đến nhau, khi dạy giáo viên cần phân biệt về từ loại để học sinh
dễ hiểu, dễ phân biệt. Trong đó, vấn đề “Từ láy” bài dạy mới nên giáo viên cần
nắm được quan điểm của giáo trình và quan điểm sách giáo khoa Tiểu học để cung
cấp cho học sinh những khái niệm về “Từ láy” để các em nắm được và vận dụng
vào bài học một cách chính xác, đúng đắn kiến thức của bài học.
Khi dạy học giáo viên trung thành với sách giáo khoa, chưa có sự sáng tạo,
phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, giáo viên chưa quan tâm đến mức độ tiếp thu
bài của học sinh để có biện pháp dạy học tốt hơn
Việc học, tự học , bồi dưỡng thường xuyên giáo viên còn chưa đầu tư thời
gian vẫn còn xem nhẹ
Học sinh nắm và hiểu kiến thức còn lơ mơ
Việc học về từ láy đối với các em rất ngại. Các em sợ mình còn nói sai. Thời
gian học phần từ láy còn ít
Giáo viên dạy theo kiến thức sách giáo khoa, chưa nâng cao thêm kiến thức
Năm học 2012 2013 tôi được Ban giám hiệu phân công giảng dạy lớp 4. Sau khi
học xong phần từ láy. Tôi kiểm tra , đánh giá kết quả của học tập của học sinh đầu
năm.
Thống kê kết quả khảo sát học tập của học sinh đầu năm:
Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu
HS TS % TS % TS % TS %
35 8 22,9 6 17,1 18 51,4 3 8,6
Qua khảo sát, tôi rút ra một số ưu, nhược điểm sau:
*Ưu điểm:
Học sinh đã dần làm quen với cách thức học mới.
Tich cực chủ động tham gia xây dựng bài, hăng hái phát biểu ý kién.
*Nhược điểm:
Còn một số em học sinh trung bình, yếu vẫn còn nhận thức chậm, thậm chí
không biết tìm từ.
Sau khi học hết phần từ láy( Cuối học kì I), tôi đã kiểm tra các kiến thức có
liên quan đến từ láy. Lớp tôi chủ nhiệm, tôi thấy học sinh nhận thức còn nhầm:
Khái niệm từ láy.
Phân biệt từ láy với từ ghép.
Chưa hiểu nghĩa của từ láy
Qua kiểm tra đánh giá tôi thấy học sinh trong lớp nhận thức từ láy chưa tốt do
một số nguyên nhân sau:
Nắm chưa đúng khái niệm về từ láy.
7
- Còn nhầm lẫn giữa từ láy với từ ghép.
Hiểu nghĩa của từ chưa đúng.
Từ những nguyên nhân trên, tôi cần đưa ra một số giải pháp sau:
+Cung cấp đầy đủ về khái niệm từ láy để giúp các em hiểu từ láy.
+Giúp học sinh phân biệt được từ láy và từ ghép.
+Giúp học sinh hiểu đúng nghĩa của từ láy.
Qua đợt khảo sát cuối học kì I, kết quả đạt như sau:
Thống kê kết quả khảo sát học tập của học sinh cuối học kì I:
Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu
HS TS % TS % TS % TS %
35 12 34,4 15 42,9 8 22,8 0 0
Qua khảo sát, tôi rút ra một số ưu, nhược điểm sau:
* Ưu điểm:
+Giáo viên đã gây hứng thú học tập cho học sinh thông qua các giờ học trên
lớp.
+Khuyến khích được học sinh có thành tích học tập tốt.
*Nhược điểm:
Một số học sinh học lực yếu, nhận thức còn chậm
Quy trình áp dụng: Theo phươ ng pháp đổi mới dạy học lấy học sinh
làm trung tâm, phát huy tính tích cực của ngườ i học, tôi đã xây dựng nên giáo
án đổi mới về phươ ng pháp dạy học, nhằm tích cực hoá hoạt độ ng củ a học
sinh. Các em biết đượ c cách học không tiếp thu bài một cách thụ độ ng mà
nhằm để các em nắm bắt đúng bản chất của vấn đề thông qua bài dạy.
* Hiệu qủa khi áp dụng vào thực tế lớp h ọc.
Để giúp cho việc tri ển khai áp dụng phươ ng pháp dạy học đạ t kết quả
tốt, tôi đã đi sâu nghiên cứu phươ ng pháp hướ ng dẫn học sinh Phương pháp
dạy luyện từ và câu “Khái niệm từ láy”. Song giáo viên phải vận dụng một
cách linh ho ạt, sáng tạo đặc biệt khi bồi dưỡ ng HSG. Đố i với phân môn
Luyện từ và câu sao cho đạt hiệu quả.
Qua thực tiễn gi ảng dạy khi tôi vận dụng phươ ng pháp dạy Luy ện từ
và câu Khái niệm từ láy vào dạy học với ki ến thức đại trà thì 100% các em
đều nhận biết từ láy đúng theo yêu cầu, tôi đã thu đượ c kết quả đáng khả
thi trong gi ảng d ạy c ụ th ể nh ư sau:
Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu
học sinh
TS % TS % TS % TS %
8
- 35 20 57,1 12 34,4 3 8,5
Với phươ ng pháp này tôi vận dụng vào việc bồi dưỡ ng học sinh gi ỏi.
Qua kì thi giao l ưu h ọc sinh gi ỏi l ớp 5 c ấp T ỉnh năm học 2013 2014 tôi đã
đạt đượ c kết quả như:
Năm học Tổng số Học sinh giỏi cấp Tỉnh
HS đạt giải Nhất Nhì Ba KK
2013 - 5 3 1 1
2014
* Kết quả bài dạy: Qua tiết dạy thực nghiệm lần đầu tiên áp dụng các thủ
thuật vào dạy khái niệm “Từ láy”, học sinh rất hào hứng học tập, phát biểu ý
kiến xây dựng bài, nên bài dạy đạt kết quả tốt.
Để có được những kết quả đáng kể trên, thầy và trò lớp tôi giảng dạy đã
nỗ lực phấn đấu hết sức mình vượt lên những khó khăn vất vả tất cả mọi mặt
để hoàn thành tốt kiến thức Tiếng Việt cho học sinh và nhiệm vụ bồi dưỡng
học sinh giỏi. Tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Theo quan điểm của giáo trình thì “Từ láy” thườ ng có bộ phận lặp lại
về
âm thanh. Láy và lặp lại bộ phận hình thức ngữ âm của hình vị gốc. Nói như
vậy ta phải hi ểu đượ c “Từ láy” là từ phải có mộ t tiếng gốc mang nghĩa và
một tiếng lặp l ại một b ộ ph ận nào đó của tiếng gốc không có nghĩa.
Ví dụ: L ạnh l ạnh lùng, lạnh lẽo
Nhỏ nh ỏ nh ắn, nh ỏ nhon, nh ỏ nh ẻ, nh ỏ nhen
R ối b ối r ối
Nếu như các tiếng trong từ ghép có quan hệ về nghĩa thì các tiếng
trong từ láy có quan hệ về âm. Trong “Từ láy”, có thể xác định đượ c tiếng
gốc (tiếng có nghĩa) và “Từ láy” ( láy lại toàn bộ hoặc bộ phận hình thức âm
thanh của ti ến g ốc.
Sách giáo khoa Ti ếng Vi ệt 4 định nghĩa về Từ láy: Từ láy là từ do hai
hay nhiều ti ếng láy tạo thành”. Định nghĩa này chưa nói rõ cơ chế tạo từ
trong từ láy là cơ chế “Láy lại toàn bộ hoặc bộ phận tiếng g ốc.” C ạnh đó,
nếu chỉ nhấn mạnh dấu hi ệu “hai hay nhi ều ti ếng t ạo thành” thì các từ ghép
như : mặt mũi, đi đứng, buôn bán, tươ i tốt, nhỏ nh ẹ.... cũng có đặ c trưng ấy.
Nhưng mặt hợp lý của định nghĩa về từ láy trong sách giáo khoa Tiểu
học là nhấn mạnh các dấu hiệu hình thức của từ láy, giúp họ c sinh Tiểu học
9
- dễ dàng nhận biết đượ c từ láy trong văn bản. Đó cũng chính là mức độ cầ n
dạy cho học sinh Ti ểu h ọc v ề khái niệm “Từ láy” trong Tiếng Vi ệt.
Cách phân loại từ láy dựa vào bộ phận đượ c giữ lại trong âm tiết của
hình vị cơ sở.
a Từ láy toàn bộ:
* Ví dụ: Xanh xanh, tim tím, xinh xinh.
Hình v ị láy có th ể l ặ p l ạ i toàn b ộ âm ti ế t c ơ s ở theo quy t ắc bi ến âm
hoài thanh.
+ Quy tắc bi ến âm theo quan điểm truyền thống chia thành 2 nhóm:
Nhóm cao có các thanh: Thanh không, thanh h ỏi, thanh s ắc.
Nhóm thấp có các thanh: Thanh huy ền, thanh ngã, thanh nặng.
b Từ láy bộ phận:
Là những từ láy có hình vị láy lặp lại một bộ phận âm tiết của cơ sở.
Chia thành 2 loại: láy âm, láy vần.
Ngoài ra còn có thể phân loại từ láy dựa vào vị trí của hình vị cơ sở so với
hình vị láy kết hợp với việc dựa vào sự khác nhau của bộ phận bị thay đổi.
Từ láy âm có hình vị cơ sở ở tr ướ c.
Từ láy âm có hình vị cơ sở ở sau.
+ Việc nhận diện và phân biệt từ láy với nội dung từ đơ n âm, đa âm, từ
ghép có những khó khăn nhất định.
+ Ta có thể dựa vào quy tắc chuyển hoá thanh điệu để xác định các từ láy
đôi.
+ Có những hai âm tiết, phụ âm đầu và vần của các âm tiết đó tuy vận
dụng theo quy t ắc láy nhưng thanh điệu của chúng không phù hợp với quy
tắc láy, láy thanh thì chưa hẳn đã là từ láy đối chân chính.
* Ví dụ: Mơ màng, mơ mộng...
Có thể đây là những từ ghép bởi vì cả hai hình vị đều có nghĩa, dĩ nhiên
cũng có những từ láy chân chính không theo quy t ắc nhóm thanh, song những
trườ ng hợp này vẫn có thể giải thích đượ c.
* Ví dụ: Thâm thẩm thay cho t ừ ( thâm thâm).
Se sẻ thay cho t ừ (se s ẽ).
Có những từ hai âm tiết rất phù hợp với quy tắc láy đôi về âm và
thanh điệu song cả 2 âm tiết đều có nghĩa ( hoặc trướ c kia ho ặc hi ện nay có
nghĩa).
* Ví dụ: Đền đài, gậy gộc, đất đai...
* Ví dụ: Chùa chiền, h ỏi han...
Về hình thức và ý nghĩa những từ này vừa giống láy vừa giống từ ghép
để có thể xếp lại đượ c, ta quy ướ c nh ư sau:
10
- Coi những t ừ nào mà cả 2 hình vị hiện nay đang có nghĩa và có thể sử
dụng như từ và có năng lực tạo từ ghép như ví dụ 1.
Coi những t ừ nào mà cả một hình vị hiện đã mất nghĩa không dùng độ c
lập và không còn năng lực tạo từ n ữa ở ví dụ 2 là từ láy.
Coi những t ừ có hai âm tiết phù hợp với cả quy tắc láy nhưng cả hai
âm thanh đều không có nghĩa là từ đơn đa âm.
* Ví dụ: Ba ba, đu đủ, chôm chôm...
+ Một số âm tiết của từ tách riêng không thể dùng độ c lập để đạ i diện
cho các từ. Một số âm tiết của từ tách riêng có thể dùng đạ i diện cho cả
những trườ ng hợp này là trung gian gi ữa từ láy và từ đơ n đa âm ở đây chúng
gọi tên sự vật hiện tượ ng nên xếp vào loại từ đơ n.
* Ví dụ: Bươ m bướ m, chu ồn chu ồn.
Từ láy âm có hình vị cơ sở ở tr ướ c.
Từ láy âm có hình vị cơ sở ở sau.
+ Các từ láy mà hình vị cơ sở đã mất nghĩa bởi vì ngoài chức năng gọi tên
chúng còn có chức năng miêu tả.
*Ví dụ: ồn ào, ấm ấp, êm ái, ốm o, ầm ĩ, óc ách, inh ỏi...
+ Trường hợp các tiếng trong từ cùng vắng khuyết đi phụ âm đầu khi đối
chiếu sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học ta có thể nghĩa rằng các từ trên không
phải là từ láy. Nhưng các từ trên đều giống nhau về hình thức ngữ âm cho nên
một số quan điểm cho rằng đó là từ láy nhưng những từ láy không điển hình.
+ Có quan đi ể m cho r ằng do các âm ti ế t ( ti ế ng ) đ ượ c bi ể u hi ệ n trên
ch ữ vi ế t chung có ph ụ âm đ ầ u các nhà nghiên c ứ u Ti ế ng Vi ệt có hai ý
ki ế n. M ộ t cho r ằng ở v ị trí đầ u m ỗ i ti ế ng mộ t ph ụ âm các thanh h ầ u
(ph ươ ng th ứ c phát âm phụ âm này là ph ươ ng th ứ c t ắ c, b ộ ph ận tham gia
và thanh h ầ u) các ph ụ âm đó không d ượ c th ể hi ện trên ch ữ Vi ệ t (gi ố ng
nh ư các thanh đi ệ u c ủ a Ti ế ng Vi ệt).
Ý kiến hai cho rằng ở vị trí này của âm tiết ( tiếng không có phụ âm đầu)
cả hai cách hiểu trên đều cho rằng đó là từ láy. Khi dạy cho h ọc sinh Ti ểu
học thì giáo viên xem đây là những từ láy đặc biệt. Đặc biệt là ở chỗ nó
không giống các từ láy bình thườ ng về hình thức ngữ âm.
* Ví dụ: ồn ào, ấm áp, ép uổng, êm ái, im ắng...
Thoạt nhìn và đối chiếu với định nghĩa v ề “từ láy” trong sách giáo
khoa Tiếng Vi ệt Ti ểu h ọc, ta có thể nghĩ rằng các từ trên không phải là từ
láy. Nhưng nếu quan sát kĩ, ta thấy các từ trên đều giống nhau về hình thức
ngữ âm: ở các tiếng trong t ừng t ừ cùng vắng khuyết phụ âm đầ u. Bên cạnh
đó, đặc trưng ngữ nghĩa của các từ này cũng gần giống với đặ c trư ng ngữ
nghĩa nói chung của t ừ láy. Vì vậy, một số ngườ i co rằng những t ừ này cũng
là “từ láy”
11
- *Ví dụ: Ồn ã, ấm áp, ép uổng, im ắng, ế ẩm, êm ả, ít ỏi, oi ả, ôm so, ao
ước, ấm ức, o ép, yên ả, oằn oại... ( nh ững t ừ xác đị nh đượ c tiếng gố c)
*Ví dụ: ấp úng, ẽo ợt, ỉ eo, oái oăm, óc ách, ỏn ẻn, õng ẹo, ỡm ờ, ậm
ẹo, ánh ỏi... ( nh ững t ừ không xác định đượ c tiếng gốc)
Trong khi d ạy giáo viên cần đưa ra một số ví dụ về từ láy không có
nghĩa “giảm nh ẹ” ho ặc “ m ạnh h ơn” so v ới nghĩa của tiếng gốc.
*Ví dụ: đẹp đẽ, xinh xinh, may m ắn, l ạnh lùng... Vậy nghĩa của những
từ láy này đượ c hình thành từ nghĩa của tiếng gốc. Cụ th ể, từ láy có nhiều
sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm tinh t ế khác với tiếng gốc. So v ới nghĩa
của tiếng gốc, nghĩa của từ láy xác định hơn, gợi tả hơn, có giá trị biểu hiện,
biểu cảm cao h ơn.
*Ví dụ : từ một tiếng g ốc là “ nhỏ”, ta có thể tạo ra một số từ láy vớ i
những sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm rất khác nhau, như:
nhỏ nhỏ : hơi nh ỏ
nhỏ nhắn: (vóc dáng) nhỏ và cân đối dễ thươ ng.
nhỏ nhặt: nhỏ bé, vụn vặt không đáng chú ý
nhỏ nhẻ: ( nói năng, ăn uông) chậm rãi, từ tốn
nhỏ nhen: đối xử hẹp hòi, chú ý đến cả những việc nhỏ nh ặt
nhỏ nhoi: nhỏ bé, ít ỏi, mỏng manh và yếu ớt.
Nghĩa của các từ láy: đẹp đẽ, xinh xắn, may m ắn, l ạnh lùng nói trên
cũng có những đặc trưng như v ậy. Các từ láy này có những sắc thái nghĩa
riêng so
với nghĩa của tiếng gốc ( đẹp, xinh, may, l ạnh) .
Ở đây có điều cần lưu ý là nghĩa của từ láy rất phong phú, đa dạng,
nhiều màu vẻ mà dạng “giảm nhẹ” ho ặc “m ạnh h ơn” ( so v ới nghĩa củ a
tiếng gốc) chỉ là hai dạng cơ bản trong s ự phong phú, đa dạng ấy. Nói cách
khác, ngoài hai dạng “ gi ảm nh ẹ” và “ mạnh hơn” ( so với nghĩa của tiếng
gốc), nghĩa của từ
láy còn có những dạng khác, đượ c hình thành theo những hướ ng khác, từ
nghĩa của tiếng g ốc. Vì vậy, khi dạy v ề nghĩa của từ láy có họ c sinh, nếu
giáo viên quy nghĩa của tất cả các từ láy vào một trong hai d ạng “ gi ảm nh ẹ”
hoặc “ mạnh hơn” (so với nghĩa của tiếng gốc) thì sẽ khó tránh đượ c sự máy
móc, cứng nhắc, khiên cưỡ ng và hình thành ở học sinh một nhận th ức không
đầy đủ rằng: nghĩa của từ này chỉ có hai dạng ấy mà thôi.
*Chú ý: Đối với các từ láy không xác định đượ c tiếng gốc: (Ví dụ: lững
thững, thướ t tha, nh ỉ nh ảnh, đủng đỉnh, bâng khuâng, thì thào, khúc khích....),
đặc trưng chung v ề nghĩa của những từ này cũng vẫn là tính chất cụ thể xác
định, gợi tả, g ợi c ảm.
*Cách phối hợp về âm thanh của các tiếng trong từ láy.
12
- Lặp lại một bộ phận ho ặc toàn bộ âm thanh của các tiếng.
Có sự hài hoà về âm thanh trong các bộ phận của ti ếng.
Sự lặp lại và sự phối hợp hài hoà về âm thanh các tiếng có tác dụng
tạo sắc thái nghĩa cho từ láy.
* Các kiểu từ láy trong ti ếng vi ệt:
Trong Tiếng vi ệt có 3 kiểu từ láy
1. Láy âm: Cả tiếng đượ c láy (lặp) lại
Ví dụ: khó khăn, đỡ đần, sạch sành sanh.
2. Láy vần : Bộ phận vần đượ c láy ( lặp) lại
Ví dụ: Bồn chồn, l ẩm b ẩm, lào xào,
3.Láy cả âm và vần : bộ phận phụ âm và bộ phận vần đượ c láy ( lặp)
lại.
Ví dụ: ngoan ngoãn, dửng dưng, tim tím, trăng trắng...
* Định nghĩa: Từ láy là từ do hai tiếng hay nhiều tiếng tạo thành các tiếng trong
từ láy có thể có một bộ phận hay toàn bộ âm thanh lặp lại.
Có những từ ph ức g ồm một ti ếng có nghĩa ghép với tiếng không có
nghĩa hoặc các tiếng đều không có nghĩa ghép lại với nhau để tạo nên từ
mới. Các tiếng này đượ c láy phần âm hoặc phần vần ho ặc c ả ph ần âm và
phần vần, đây là các từ láy.
Ngoài ra trong Tiếng việt, từ láy thường có 3 dạng khác nhau:
1.Láy đôi: Từ láy có 2 tiếng
Ví dụ: tan tành, lủng củng, canh cánh, tà tà...
2.Láy ba: ( từ láy có 3 tiếng): láy ba tiếng thường xuất phát từ một từ láy
hai
tiếng làm gốc, phối hợp âm thanh với một tiếng khác thành láy ba.
*Ví dụ: Sạch sành sanh, sát sàn sạt, dửng dừng dưng, xốp xồm xộp, ba
nhăng nhăng....
3.Láy tư: (từ láy có 4 tiếng): từ láy bốn tiếng thường xuất phát từ một từ
láy hai tiếng làm gốc, phối hợp âm thanh theo các khuôn cấu tạo thành láy tư.
Ví dụ: hớt hơ hớt hải, lúng ta lúng túng, lủng cà lủng củng, quần quần áo
áo, cười cười nói nói, đen nhẻm đen nhèm, thấp tha thấp thổm, thướt thướt tha
tha...
*Lưu ý khi dạy từ láy:
Khi dạy phần từ láy cho học sinh, ngoài việc cung cấp về từ láy giáo viên
còn hướng dẫn cho học sinh biết cách phân biệt giữa từ láy và từ ghép:
Điểm giống nhau giữa từ ghép và từ láy:
Đều là từ nhiều tiếng ( 2,3 hoặc 4 tiếng)
Điểm khác nhau:
13
- +Giữa các tiếng trong từ ghép có quan hệ về nghĩa.
+Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ về âm.
Như vậy khi d ạy cho h ọc sinh Ti ểu h ọc ch ỉ d ừng ở m ức độ hình thức
để học sinh dễ ti ếp thu. Khi d ạy giáo viên không phải biết gì dạy nấy, dạy
theo chươ ng trình mà giáo viên đượ c học mà phải bám vào nội dung kiến
thức của sách giáo khoa yêu cầu.
Trong quá trình giảng dạy thì luôn xảy ra nhiều tình huống. Những câu hỏi
mà học sinh đưa ra mà vượt quá nội dung kiến thức chương trình của bài dạy thì
giáo viên phải khéo léo trả lời học sinh, dùng những kiểu kiến thức của chương
trình học sinh đã học hay bằng nhiều hình thức khác để trả lời cho phù hợp.
Việc nắm bắt ki ến thức b ộ môn và phươ ng pháp giảng dạy chưa thật
sâu sắc, trình độ kiến thức của giáo viên chưa đồ ng đều, việc tiếp cận tri
thức mới còn hạn chế, do đó việc dạy tìm ra giải pháp dạy học về khái niệm
từ láy nhiều hạn chế. Đặc biệt là đố i với đị a bàn là giáo viên vùng sâu, vùng
xa còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc gi ảng d ạy đố i với học sinh bậc
Tiểu học.
Khi dạy học giáo viên chỉ thường trung thành với sách giáo khoa ít có sự
sáng tạo, chưa mạnh dạn có ý kiến đề xuất đến nội dung bài dạy, phương pháp
giảng dạy chưa phù hợp. Giáo viên còn chưa quan tâm đến mức độ tiếp thu bài
của học sinh để có biện pháp điều chỉnh hình thức tổ chức dạy học. Về kiến
thức “Từ láy” đây là một vấn đề khó, nan giải đối với những nhà biên soạn giáo
trình để đào tạo giáo viên, dẫn đến giáo viên còn nắm lơ mơ chưa rõ ràng về
kiến thức. Vậy nên khi dạy cho học sinh không thể có được những sáng tạo về
hình thức tổ chức dạy học, chưa mạnh dạn tự tin trong dạy học dẫn đến học
sinh không nắm vững về ngữ pháp, vận dụng vào thực hành lúng túng, làm bài
lâu, không chính xác.
Học sinh nắm b ắt ki ến thức l ơ m ơ, th ụ độ ng. Từ thực tiễn trên làm cơ
sở để xây dựng nên những giải pháp về dạy khái niệm “Từ láy”.
Để nhận biết khái niệm “ Từ láy” giáo viên cần tạo hứng thú cho học
sinh học t ập.
Trong dạy học, tạo hứng thú cho học sinh là rất quan trọng. Nó gần như
quyết định hiệu quả của việc dạy học. Luyện từ và câu được đánh giá là khô
khan trong các phân môn Tiếng Việt. Vì vậy tạo hứng thú cho học sinh lại càng
quan trọng. Khi học sinh có hứng thú, các em sẽ tự giác, chủ động học tập thì
giờ dạy mới diễn ra nhẹ nhàng, học sinh chủ động nắm được kĩ năng, kiến
thức.
Để tạo hứng thú cho học sinh, tôi thường tạo cho các em không khí sẵn sàng
học tập ngay trong từng hoạt động như sau:
Giới thiệu bài : Đây cũng là một bước quan trọng. Đó không chỉ đơn giản là
nêu mục đích, yêu cầu của tiết học mà còn là bước tạo không khí sôi nổi, thu hút
14
- các em vào giờ học. Có thể giới thiệu bài bằng nhiều cách : liên hệ kiến thức cũ
trong bài trước đã học bằng trò chơi, hỏi đáp….
Giúp các em biết thêm nhiều từ, nắm được khái niệm Từ láy
Thu hút học sinh vào bài học, ngoài giới thiệu bài thì trong khi tổ chức ,
hướng dẫn làm bài tập tôi cũng luôn tạo không khí học tập để khơi gợi sự hứng
thú đối với học sinh.
Ngoài ra để tạo hứng thú học tập cho học sinh, người giáo viên cần phải
biết vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực như kĩ thuật chia
nhóm, kĩ thuật động não, ...
Đối với kĩ thuật chia nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách khác nhau để gây
hứng thú đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn
khác nhau trong lớp. GV có thể chia nhóm theo số điểm danh, theo màu sắc, theo
tên các loại trái cây các em yêu thích,….Yêu cầu học sinh có cùng số điểm danh,
cùng một màu, cùng một loại trái cây yêu thích sẽ vào cùng một nhóm.
Ví dụ: Tìm các từ láy có thanh hỏi đi với thanh ngang, các thanh hỏi đi với thanh
sắc, các từ láy có thanh ngã đi với thanh huyền theo mẫu:
Các từ láy có thanh hỏi đi với thanh ngang: nhỏ
nhoi.....................................
Các từ láy có thanh hỏi đi với thanh sắc: nhỏ
nhắn.........................................
Các từ láy có thanh ngã đi với thanh huyền: mỡ
màng...................................
* BÀI TẬP V ẬN D ỤNG
Bài 1: Tìm từ láy trong đoạn văn sau:
Mưa rả rích ngày đêm. Mưa tối tăm mặt mũi. Mưa thối đất, thối cát. Trận
này chưa qua, trận khác đã tới, ráo riết, hung tợn hơn.
Bài 2: Thay các từ gạch chân dưới đây bằng các từ láy cho thích hợp để các câu
sau gợi tả, sinh động.
Những giọt sương đêm nằm trên lá cành.
Đêm Trung thu, trăng sáng lắm. Dưới trăng, dòng sông trông như dát bạc.
Mưa liên tục cả ngày, mưa làm tối mặt mũi.
Gió thổi mạnh. Lá cây rơi nhiều. Từng đàn cò bay nhanh theo cây.
Trên nền trời, những cánh cò đang bay.
Mặt trăng tròn quá. Ánh trăng trong xanh chảy khắp khu vườn.
Bài 3: Tìm từ láy chỉ màu sắc từ mỗi tiếng sau: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen.
Bài 4: Các tổ hợp: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghêng nghênh, người
người, ngành ngành tổ hợp nào là từ láy?
Bài 5: Tìm 5 từ láy chỉ giọng nói của trẻ em
Tìm 5 từ láy nói về tình cảm phẩm chất của con người.
15
- Đặt câu với trong số từ đã tìm
Bài 6: Chọn từ láy trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: (liếp
nhiếp, từ từ, tấp lập, líu lo, là là, tíu tít, hối hả, ríu rít)
Tiếng chim .......(1)........(2)..........báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt
trời ......(3).........nhô lên từ sau luỹ tre xanh. Khói bếp nhà ai .....(4)......... bay trong
gió. Đàn gà con .......(5)........ gọi nhau, .....(6)..........theo chân mẹ. Đường làng
đã ....(7).........mọi người ......(8).......ra đồng làm việc.
Bài 7:
Xếp các từ sau đây thành 2 nhóm( từ ghép, từ láy): châm chọc, chậm chạp,
mê mẩn, mong ngóng, nhỏ nhẹ, mong mỏi, tươi tốt, tươi tắn, phương hướng,
vấn vương, tre pheo, bếp núc, xe cộ.
Bài 8:
Phân loại các từ sau thành các nhóm theo 2 cách: núi đồi, rực rỡ, chen chúc,
đi đứng, dịu dàng, ngọt, thành phố, ăn, đánh đập, sáng sớm, sung sướng, sinh sôi,
suy sụp, sơ sài, sóng sánh, sơ sinh, sinh sự.
Bài 9:
Hãy xếp các từ sau thành 2 nhóm và đặt tên cho mỗi nhóm: ngoằn ngoèo,
khúc khích, đủng đỉnh, lêu nghêu, vi vu, líu lo, thiết tha, sừng sững, rì rầm, cheo
leo.
Bài 10: Tìm các từ láy âm đầu trong đó có
a, Vần ấp ở tiếng đứng trước. M: khấp khểnh
b,Vần ăn ở tiếng đứng sau: M: vừa vặn
Theo em, nghĩa của từ láy tìm được ở mỗi nhóm giống nhau điểm nào?
Bài 11:
Tìm các từ láy trong đoạn văn trên rồi chia thành ba nhóm: từ láy âm đầu,
từ láy vần, từ láy âm đầu và vần.
Biển luôn thay đổi theo màu sắc mây trời. Trời âm u, mây mưa, biển xám
xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu, giận dữ. Như một con người
biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng.
II I H
Ệ THỐNG BÀI HỌC ĐỂ KIỂM TRA HỌC SINH QUA BÀI HỌC:
Bài 1: Tìm những từ láy trong đoạn văn sau:
Con trâu nhà em trông mập mạp. Mình nó đen bóng như gỗ mun. Cái sừng
của nó nhọn hoắt, vênh vênh. Thân hình nó béo mẫm và lực lưỡng, trông thật
đáng yêu. Nó bước đi lặc lè, chậm chạp. Nó gặm soàn soạt từng nắm cỏ non
một cách ngon lành.
16
- Các từ láy:...............................................................................................
Bài 2: Điền từ thích hợp vào chỗ chấm để có từ láy
Láy âm đầu Láy vần
Rầm....................................... Lõm...........................................
Nhấp...................................... Tràn............................................
Bài 3: Tìm hai từ láy mỗi loại có: hai tiếng, ba tiếng, bốn tiếng
Thang điểm: Bài 1: 3 điểm Bài 2: 3 điểm Bài 3: 4 điểm
Kết quả thực hiện
Tổng Điểm 10 Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5 Điểm dưới
số 5
HS T % T % T % T % T % T % T %
S S S S S S S
35 15 42, 10 28, 5 12, 3 8,9 2 5,7
9 6 3
Trong một lớp h ọc bao gi ờ cũng có nhiều đối tượ ng như học sinh khá,
giỏi, học sinh trung bình và cũng có thể có cả học sinh yếu. Các bài tập trong
sách giáo khoa theo yêu cầu của Chuẩn ki ến th ức, kĩ năng thì mọi đố i tượ ng
học sinh đều phải đạt đượ c. Ngoài ra, vì là lớp học 2 buổi/ ngày có thời gian
rèn luyện thêm vào buổi chiều nên bản thân tôi thấy cần phải có các bài tập
dành cho h ọc sinh khá, giỏi từng b ướ c nâng cao chất lượ ng h ọc sinh trung
bình và yếu. Sau gi ờ h ọc bu ổi sáng, các em đã đượ c làm các bài tập trong
sách giáo khoa. Đến buổi chiều, tôi cho các em rèn luyện thêm các bài tập
mở rộng thêm. Với bài tập này, học sinh khá, giỏi làm đượ c. Tuy nhiên với
học sinh trung bình và yếu còn lúng túng thì giáo viên nên hướ ng dẫn học
sinh.
Qua thực tế gi ảng d ạy, tôi nhận thấy việc quan tâm đến các đố i tượ ng
học sinh là một việc làm quan tr ọng, không thể thiếu trong quá trình giảng
dạy nhất là lớp học 2 buổi / ngày. Với những bài tập rèn luyện thêm vào
buổi chiều đã phát huy đượ c khả năng học tập của các em học sinh khá, giỏi,
nâng cao ch ất l ượ ng h ọc sinh đại trà. Bên cạnh đó còn rèn cho các em tính
chăm chỉ, không chịu dừng l ại ở nh ững gì mình đã biết. Về việc ra bài tập
để các em rèn luyện, giáo viên cần căn cứ theo tình hình thực tế của lớp
mình, tham khảo thêm các sách như: Tiếng Vi ệt nâng cao lớp 4. Bồi d ưỡ ng
học sinh gi ỏi Ti ếng Vi ệt 4 c ủa nhà xuất bản Giáo dục.
Kiến thực Tiếng Vi ệt v ốn b ắt ngu ồn t ừ đờ i số ng thức tế, nếu trong
khi dạy, giáo viên liên hệ thực tế để học sinh tìm kiến thức thì các em làm
bài tập tốt hơn, h ứng thú hơn. Ngượ c lại sau m ỗi hoạt độ ng hoặc mỗi bài,
giáo viên cần liên hệ thực tế để giáo dục các em vận dụng nh ững điều đã
17
- học vào cuộc sống. Có như vậy, các em mới cảm thấy kiến th ức bài họ c
thật gần giũ, yêu thích môn học hơn.
Trên đây là một số thực trạng, k ết qu ả c ủa h ọc sinh l ớp tôi. Do đó, tôi
mạnh dạn đề ra một số biện pháp thực hiện để nâng cao chất lượ ng môn
Tiếng Việt, đặc biệt là phần “Từ láy”
IV N ỘI DUNG, BI ỆN PHÁP VÀ THỰC HI ỆN:
1 Biện pháp:
Qua thời gian giảng d ạy kh ối 4+5 t ại Tr ường Ti ểu h ọc Bình Dươ ng II,
tôi đã đưa ra một số bi ện pháp để nâng cao hiệu quả d ạy khái niệm “Từ
láy” ở Lớp 4.
1Hướ ng dẫn học sinh hi ểu rõ khái niệm “Từ láy”.
Đây là bướ c quan tr ọng để đạt hiệu quả cho giờ dạy thì ngườ i giáo
viên cần phải nắm v ững ki ến th ức v ề t ừ ghép và từ láy để hướ ng dẫn học
sinh tìm đúng từ láy.
Giáo viên phải hướ ng d ẫn làm sao để tránh tình trạng học sinh không
tìm đượ c thì giáo viên cung cấp (cách làm này sẽ dẫn đến học sinh thụ độ ng,
không tích cực trong gi ờ h ọc.
2Giáo viên hướ ng dẫn h ọc sinh c ần phân biệt từ láy với từ ghép.
Ví dụ:
Từ ghép: mặt mũi, đi đứng, buôn bán...
Từ láy: xinh xinh, x ấu xí, bồn chồn....
T ừ đó giúp h ọ c sinh th ấ y đ ượ c s ự gi ố ng và khác nhau gi ữ a t ừ láy và
t ừ ghép.
3 Giáo viên giúp học sinh hi ểu rõ nghĩa của từ láy.
Với biện pháp này tuỳ theo trình độ học sinh trong lớp, n ếu l ớp có họ c
sinh trung bình nhiều thì tôi có thể giúp các em bằng cách cho các em đặt
câu.
Ví dụ: Đặt câu với từ nhỏ nh ẹ, nh ỏ nh ắn
Nhỏ nhẹ : Cô ấy ăn nói nhỏ nhẹ.
Nhỏ nhắn: Ngôi nhà nhỏ nhắn rất đẹp.
Nếu học sinh yếu không đặt đượ c câu thì giáo viên giúp các em tìm ra
nghĩa của từ láy ( có thể dùng từ điển Tiếng Việt). Với bi ện pháp này vừa
thu hút đượ c sự chú ý vừa giúp học sinh nhớ bài tốt hơn.
2 Mô tả các bước tiến hành dạy 1 giờ Luyện từ và câu Lớp 4
18
- Trong quá trình giảng dạy Luyện từ và câu về khái niệm “Tứ láy” cùng với
sự tìm hiểu thực trạng giáo viên, học sinh nhà trường chúng tôi đã xây dựng cho
mình phương pháp dạy học, nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh. Các em
biết được cách học, không tiếp thu bài một cách thụ động mà nhằm để các em
nắm bắt đúng bản chất của vấn đề thông qua bài dạy
Ngày soạn 13/9/2013
Ngày giảng Thứ ba ngày 17 tháng 9 năm 2014
Luyện từ và câu
TỪ GHÉP VÀ TỪ LÁY
I/MỤC TIÊU :
Nắm được 2 cách chính cấu tạo từ phức của Tiếng Việt: ghép những
tiếng có nghĩa lại với nhau ( từ ghép); phối hợp những tiếng có âm hay vần
( hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau ( từ láy)
Bước đầu biết vận dụng kiến thức đã học để phân biệt từ ghép với từ
láy, tìm được các từ ghép và từ láy đơn giản, tập đặt câu với các từ đó.
Giáo dục các em có ý thức sử dụng đúng nghĩa của từ ghép, từ láy trong
giao tiếp Tiếng Việt.
II/ĐỒ DÙNG: Từ điển tiếng Việt hoặc từ điển học sinh.
Bảng phụ viết 2 từ làm mẫu để so sánh
Bút dạ, giấy tô ky kẻ bảng
III/HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
GIÁO VIÊN HỌC SINH
1.Tổ chức Hát
2.Bài cũ -Gọi 1 HS lên làm lại bài tập 4 1. Thế nào là từ phức ? Thế
tiết học : Nhân hậu - đoàn kết nào là từ đơn ?
-GV nhận xét 2. Từ phức khác từ đơn ở điểm
nào? Nêu ví dụ
3.Bài mới
Phần nhận -HS đọc nội dung bài tập và gợi -Cả lớp đọc thầm
xét ý -1Hs đọc câu thứ nhất
-Tìm từ phức trong đoạn văn
=> HS và GV kết luận. -1 em đọc khổ thơ tiếp theo
-Từ phức “thì thầm” do các
tiếng có âm đầu th) lặp lại tạo
thành.
-Hỏi: từ phức “lặng im” do 2 thì thầm, chầm chậm, cheo
tiếng nào có nghĩa tạo thành? leo, se sẽ
+ Những từ phức nào do
những tiếng có âm đầu hoặc
vần lặp lại nhau tạo thành ?
19
- +Những từ thì thầm, chầm -HS trao đổi phát biểu ý kiến
chậm, cheo leo, se sẽ gọi là từ
láy
+Những từ phức như thế nào
gọi là từ láy
-GV kết luận: -HS đọc các từ vừa in nghiêng
*Ghi nhớ: vừa im đậm.
-Giải thích nội dung ghi nhớ
. Các tiếng tình, thương, mến
đứng độc lập đều có nghĩa.
Chúng ghép lại với nhau bổ
sung ý nghĩa cho nhau.
+Từ láy săn sóc có 2 tiếng lặp
lại âm đầu.
+Từ láy : khéo léo có 2 tiếng
lặp lại âm đầu.
+Từ láy luôn luôn có 2 tiếng lặp
lại âm đầu và vần
-Nhiều tiếng ( từ phức) từ nào - Từ phức lặng im do 2 tiếng
cũng có nghĩa và dùng để đặt “lặng + im” tạo thành.
câu. - Trong từ cheo leo, 2 tiếng cheo
b. Phần Bài tập 1: GV nêu yêu cầu và leo có vần eo lặp lại. Các từ
luyện tập -HS đọc toàn văn yêu cầu của chầm chậm, se sẽ lặp lại cả âm
bài tập. đầu và vần.
-Muốn làm đúng bài tập, cần
xác định các tiếng trong các từ - Gọi 2 HS đọc ghi nhớ
phức (in nghiêng) có nghĩa hay - Gọi 1 HS lên bảng làm
không. Nếu cả 2 từ đều có - Cả lớp làm vở
nghĩa là từ ghép, mặc dù
chúng có thể giống nhau ở âm
đầu hay vần
VD: dẻo + dai = dẻo dai
-Những từ in đậm trong SGK là
tiếng có nghĩa giúp học sinh dễ
dàng nhận ra từ ghép.
- Giáo viên chốt lời giải đúng
Từ ghép Từ láy
Câu a ghi nhớ, đền thờ, bờ bãi, nô nức
tưởng nhớ
Câu b dẻo dai, vững chắc, thanh mộc mạc, nhũn nhặn,
cao cứng cáp
Trong trường hợp có học sinh
nói rằng “Cứng cáp “ là từ
ghép, GV cần giải thích cho
20
nguon tai.lieu . vn