Xem mẫu

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN VĨNH TƯỜNG TRƯỜNG TIỂU HỌC CHẤN HƯNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP LUYỆN  KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH  CHO HỌC SINH 4,5 GIÁO VIÊN :DƯƠNG THỊ ÚT MÃ : 17 TRƯỜNG : TH CHẤN HƯNG
  2. Năm học 2019 ­ 2020 
  3. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI thế kỷ của nền văn minh hiện đại,  thế  kỷ  của khoa học công nghệ  thông tin. Đất nước ta đang trong thời kỳ  phát  triển lấy nền kinh tế tri thức làm nền tảng cho sự phát triển và coi giáo dục đào   tạo là quốc sách hàng đầu và cải tiến chất lượng dạy và học để  hoàn thành tốt   việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực con người cho CNH và HĐH đất nước.   Để  tồn tại và phát triển xây dựng và bảo vệ  tổ  quốc theo kịp các nước phát  triển đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được các tành tựu tiên tiến nhất. Nhằm đưa  đất nước Việt Nam trở thành một nước văn minh giàu mạnh. Bởi vậy hệ  thống các môn học trong nhà trường hiện nay là hướng tới  những vấn đề  cốt lõi thiết thực đó. Bộ  môn Tiếng Anh tuy đưa vào phổ  biến   muộn hơn so với các môn học khác ở nhà trường nói chung và Trường tiểu học  Chấn Hưng nói riêng, nhưng nó là chìa khóa mở  ra kho tàng  tri thức nhân loại.  Nó là người hướng đạo đưa ta tới với Thế  giới bắt tay với bạn bè năm châu,  tiếp thu và lĩnh hội những tinh hoa nhân loại. Trên cơ sở đó, Bộ GD­ ĐT đã có định hướng chiến lược cho việc tổ chức  dạy học môn tiếng anh trong trường tiểu học nhằm tạo điều kiện, mô trường  cho học sinh được tiếp xúc với môn học này, tạo tiền đềcho việc học lên các  cấp học trên được vững chắc. Điều này được thể  hiện rõ qua mục tiêu của đề  án ngoại ngữ  quốc gia 2020: “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ  trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ  mới  ở  các cấp học, trình độ  đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước  tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là   đối với một số  lĩnh vực  ưu tiên; đến năm 2020 đa số  thanh niên Việt Nam tốt   nghiệp trung câp, cao đẳng và đại học có đủ  năng lực ngoại ngữ  sử  dụng độc  lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn  ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế  mạnh của người dân Việt Nam,   phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. 1.1 Cơ sở thực tiễn 3
  4.           Hoạt động dạy học cần được tổ  chức thông qua môi trường giao   tiếp đa dạng, phong phú với các hoạt động tương tác (trò chơi, bài hát, đóng vai,   kể  chuyện, câu đố…) và dưới các hoạt động cá nhân, theo cặp và theo nhóm.   Các hoạt động giao tiếp cần được thông qua các chủ  điểm và chủ  đề, tình   huống giao tiếp hấp dẫn cả về nội dung và hình thức. Học sinh cần được tham  gia hoạt động giao tiếp tích cực, chủ động sáng tạo và có ý thức dưới sự hướng  dẫn cuả giáo viên. Hiện nay sử dụng tiếng Anh giao tiếp là hết sức quan trọng   và   cần   thiết.   Cũng   như   đứa   trẻ   khi   biết   đọc   biết   viết   thì   phải   nói   trước  tiên.“Nói” là một trong bốn kỹ năng quan trọng trong việc dạy tiếng Anh để học  sinh có khả năng thực hành giao tiếp nhanh và đạt hiệu quả cao nhất. Kỹ  năng nói giúp cho học sinh có điều kiện rèn luyện nhiều hơn trong   một tiết học. Thực hiện được nguyên tắc trong mỗi giờ học ngoại ngữ: Ôn cũ ­  luyện mới. Mọi kiến thức mới đều được gợi mở  dần dần từ  những kiến thức   đã được học  ở  bài trước làm cho học sinh không sợ  bài mới.“Học thầy không  tày học bạn”, trong khi luyện nói học sinh có thể học hỏi lẫn nhau, sửa lỗi cho   nhau, tự do nói theo ý của mình mà không ngại thầy cô giáo. Thông qua thực hành nói, học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động,   khắc phục được sự   ức chế  khi trong lớp chỉ  có một số  học sinh giỏi tham gia   phát biểu, do vậy sẽ  lôi cuốn được toàn thể  học sinh trong lớp tham gia hoạt   động kể cả các em học trung bình hoặc yếu. Tăng cường khả  năng  ứng xử  của học sinh trong các tình huống khác  nhau, gây hứng thú, tự  tin mạnh dạn cho học sinh khi đã thực hành giao tiếp  bằng  tiếng Anh, giờ học sẽ trở lên vui vẻ, sôi nổi và đạt hiệu quả cao.         Tuy nhiên việc học Tiếng Anh ở các trường tiểu học nói chung và Trường  TH Chấn Hưng nói riêng còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là trong việc nói, giao  tiếp bằng tiếng anh. Vì vậy rèn luyện cho học sinh có thể  tự  tin giao tiếp, là  một yêu cầu rất cần thiết trong việc học Tiếng Anh đặc biệt là với những học  sinh mới làm quen với môn học Tiếng Anh.            Làm thế  nào để  các em tham gia các hoạt động giao tiếp tích cực, chủ  động sang tạo và có ý thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên một cách hiệu quả  nhất. Trên cơ  sở  đúc kết kinh nghiệm của bản thân và các kiến thức có được   4
  5. qua tài liệu tham khảo, tôi xin trình bày đề  tài “  Một số  phương pháp luyện  kỹ năng nói tiếng anh cho học sinh 4, 5 ” nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy  của bộ môn, đổi mới phương pháp dạy và học. 2. Tên sáng kiến: “Một số phương pháp luyện kỹ năng nói tiếng anh cho học sinh 4, 5”. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Dương Thị Út ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Chấn Hưng­ Huyện Vĩnh  Tường ­ Tinh Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại : 0982055587 ­ Emaill:utngukien @gmail.com.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến           ­ Họ và tên: Dương Thị út       Chức vụ:  Giao viên Trường Tiểu học Chấn Hưng­ Huyện Vĩnh Tường –  Tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ­ Tìm phương pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn  Tiếng Anh, thông qua đó để đề ra các phương pháp có hiệu quả hơn giúp các em   rèn luyện tốt kỹ năng nói Tiếng Anh.            ­ Rèn luyện kỹ năng nói. Phát huy khả năng học môn tiếng Anh và trên   hết là các em có thể trang bị cho bản thân mình một số kiến thức cho những bậc   học tiếp theo cũng như trong tương lai các em về sau.  ­ Nâng cao nghiệp vụ sư phạm của bản thân.  6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc dùng thử:     Ngày 01 tháng 10 năm 2019.  Năm học 2019 ­ 2020 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Cơ sở lý luận  5
  6.              Chương trình thí điểm Tiếng Anh tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào   tạo ban hành theo Quyết định số 3321/QĐ­BGDĐT, trong đó Tiếng Anh được dạy  từ lớp 3 đến lớp 5. Sách được biên soạn theo đường hướng giao tiếp, giúp học sinh  bước đầu hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng Tiếng Anh, thông qua   bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó ưu tiên phát triển hai kĩ năng nghe và nói.   Học sinh là chủ thể của quá trình dạy học trong môi trường văn hóa và điều kiện  học tập phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, có tính đến sự  giao lưu quốc tế.  Ngày  nay việc học ngoại ngữ rất phong phú và đang dạng song bất kỳ đối tượng và  hình thức nào thì việc học tiếng Anh theo 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết. Trong  mỗi đơn vị bài học cụ thể thì 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đều được rèn luyện  phát triển nhằm mục đích giúp học sinh nói tiếng Anh tốt. Và học sinh có đủ tự  tin nói Tiếng Anh trong đời sống hằng ngày không? Câu hỏi này chắc chắn giáo   viên nào cũng luôn đặt trong đầu và tìm tòi nghiên cứu câu trả  lời cho phù hợp   và mục đích cuối cùng của người học cũng như người dạy là tiến tới khả năng   giao tiếp tốt.              Trong bất kỳ tiết học nào của môn Tiếng Anh cũng có phần dạy kỹ năng  nói, vì vậy kỹ  năng nói đóng vai trò rất quan trọng. Vì vậy, giáo viên cần có  phương pháp phù hợp và các  kỹ năng cũng như cách truyền đạt để học sinh có  thể lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả nhất. 7.2. Thực trạng a. Thuận lợi, khó khăn  * Thuận lợi          ­ Tình hình kinh tế  ngày càng đi lên. Đời sống nhân dân được cải thiện,   nhận thức của phần lớn phụ huynh học sinh đã thấy được tầm quan trọng của  môn Tiếng Anh. Do đó nhu cầu học tập, nâng cao kiến thức của học sinh ngày   càng tăng   ­ Có sự  quan tâm của Ban giám hiệu, Phụ  huynh và các đồng nghiệp trong  trường. ­ Học sinh đang dần có cái nhìn tích cực hơn với môn học này và đa số các  em rất ham học. 6
  7. * Khó khăn            ­ Các em học sinh tiểu học mới làm quen với bộ môn Tiếng Anh vì thế  các em còn rất bỡ ngỡ và lạ lẫm với môn học này.            ­  Thời lượng dành cho môn học thì quá ít trong khi mức độ tiếp thu của   các em còn hạn chế; hơn nữa hầu hết lớp học còn quá đông học sinh nên việc  tập trung chú ý cũng như việc luyện tập còn hạn chế.             ­ Bên cạnh một số  em có thái độ  học tích cực, nghiêm túc thì cũng có  không ít em chỉ học vẹt, không ghi nhớ từ vựng, không tập đọc, tập viết, không  thuộc nghĩa của từ mà học chỉ để  đối phó khi giáo viên kiểm tra vì vậy các em   nhanh quên từ. Các em chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc học môn Tiếng  Anh vẫn còn lơ là.             ­ Hơn nữa môn Tiếng Anh không phải phụ huynh nào cũng biết nên giáo   viên cũng gặp không ít khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự  học ở nhà.               ­ Một số phụ huynh còn chưa quan tâm đến việc học tiếng Anh của con   em mình. Do đó mà ảnh hưởng không ít đến việc học tập của các em.          Học sinh tiểu học  ở địa phương còn yếu cả  bốn kỹ  năng nghe, nói, đọc,  viết. Nhất là các em rất ngại nói tiếng Anh trong giờ học do nhiều nguyên nhân  khác nhau như: tâm lý ngượng ngùng, dè dặt, ngại các bạn cười khi mình nói   sai; do lớp học đông, giáo viên ít có thời gian rèn luyện kỹ  năng cho mỗi học   sinh. Tổ  chức luyện nói tốt sẽ giúp khắc phục  những hạn chế trên. b. Thành công và hạn chế * Thành công ­ Kích thích tính ham học của học sinh, học sinh tích cực, chủ động trong   học tập.  ­ Tiết học sinh động và thú vị hơn, các em ngày càng ham học tiếng Anh,  và đặc biệt các em khá thích thú với tranh ảnh và vật thật... * Hạn chế ­ Thời gian học sinh học tiếng Anh trên lớp còn ít  7
  8. ­ Trang thiết bị dạy học của nhà trường chưa đáp ứng, giáo viên phải mất   nhiều thời gian để  làm đồ  dùng dạy học. Còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho  bộ môn: phòn Lab, sách tham khảo… c. Mặt mạnh, mặt yếu. * Mặt mạnh ­  Được sựđồng thuận của ban giám hiệu nhà trường và sựphối hợp có  hiệu quả giữa giáo viên và học sinh. *  Mặt yếu ­ Giáo viên phải đầu tư nhiều về thời gian và  dụng cụ dạy học. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động *Nguyên nhân từ phía giáo viên: ­ Phương tiện giảng dạy còn thiếu. ­ Thời gian trên lớp còn hạn chế. ­ Đa số  giáo viên đều chủ  quan, chưa chú ý tìm hiểu cách học và cách dùng từ  vựng của học sinh, phần lớn các giáo viên chỉ  kiểm tra một vài em bằng cách  đọc to từ đó hoặc ghi lên bảng. Vì vậy dẫn đến học sinh chỉ học đối phó. *Nguyên nhân từ phía học sinh: ­ Học sinh chưa chú trọng đến môn tiếng Anh vì nó còn là môn học tự chọn. ­ Một số  học sinh có thái độ  thụ  động khi học, chưa thật sự  tích cực. Một số  khác lại quá rụt rè, e ngại khi nhờ giáo viên giúp đỡ. ­ Nhiều học sinh cho rằng học nói tiếng Anh khó  phát âm và mất nhiều thời   gian, hầu hết các em ngại nói và lười đọc và giao tiêp bằng tiếng Anh. ­ Còn một số học sinh gặp khó khăn trong việc tiếp cận và nắm bắt ngôn  ngữ mới. Từ đó có ảnh hưởng không ít đến hoạt động dạy­ học. ­ Hầu hết học sinh vùng nông thôn phát âm tiếng địa phương nên khi đọc  tiếng anh không chuẩn, thường có xu hướng phát âm Tiếng Anh theo cách Việt  hóa. 8
  9. ­ Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ,  chuẩn bị bài một cách sơ sài. Trong các giờ học, đa số  các em thường thụ động,  thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc­  nói tiếng Anh và ít tham gia phát biểu để tìmhiểu bài học. ­  Hoạt động luyện nói thường được thực hiện theo cặp, nhóm nên lớp học  dễ ồn ào mất trật tự. Giáo viên không bao quát hết được tất cả học sinh nên mộ t  số em cá biệt lợi dụng cơ hội nói chuyện bằng Tiếng Việt hay làm việc riêng.G iáo viên không thể phát hiện và sửa hết lỗi của các em học sinh.  ­ Do vậy đòi hỏi giáo viên có phương pháp sư  phạm tốt, chủ  động sáng   tạo, luôn cải  tiến phương pháp luyện tập bằng nhiều hình thức khác nhau,   nhiều dạng bài tập khác nhau phù hợp cho từng nội dung bài học để  gây hứng   thú và động viên tất cả học sinh nhiệt tình luyện tập e.Nguyên nhân từ phía phụ huynh: ­ Nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em mình. 8. Mục tiêu­ Phương pháp nghiên cứu a. Mục tiêu           Là giáo viên giảng dạy bộ  môn Tiếng Anh trường Tiểu học, chúng tôi  không ngừng nghiên cứu, trau dồi phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy   và học. Chúng tôi viết đề  tài này nhằm chia sẻ  kinh nghiệm của mình đã góp  phần nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Anh. b. Phương pháp nghiên cứu chuyên đề:         Để thực hiện các biện pháp của mình một cách hiệu quả, tôi đã kết hợp sử  dụng các biện pháp sau đây:                ­  Phương pháp nghiên cứu lí luận: khai thác thông tin khoa học về  phương pháp giảng dạy có hiệu quả  qua sách, tài liệu có lien quan… đạc biệt  qua các khóa học bồi dưỡng thường xuyên của Bộ  Giáo Dục và Đào Tạo, Sở  Giáo Dục và Đào Tạo, Phòng GD­ĐT đã tổ chức. 9
  10.          ­ Phương pháp quan sát: trực tiếp thực hiện giờ dạy ở các lớp được phân  công đảm nhiệm.               ­  Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp trao đổi với học sinh trong lớp,  ngoài lớp để tìm hiểu thông tin.         ­ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Thông qua kết quả nói ở cuối học  kì và cả quá trình làm việc đội ­ nhóm của học sinh trong các hoạt động trên lớp. 9. Nội dung ­ Chúng ta biết rằng Nghe­ Nói­ Đọc­ Viết là bốn kĩ năng ngôn ngữ  cần   phải được rèn luyện và diễn ra một cách đồng thời trong quá trình dạy và học  ngoại ngữ. Chúng vừa là phương tiện và cũng là mục đích của việc học bộ môn  này. ­ Trong những năm qua, bước đầu chúng đã áp dụng phương pháp đổi  mới phương pháp dạy học Tiếng Anh nhằm giúp học sinh nắm được cách học   một cách chủ động, tích cực và đáp ứng yêu cầu là học sinh phải sử dụng được  ngữ liệu đã học vào cá hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả hơn. ­ Do vậy, trong chương trình giảng dạy tiếng anh  ở trường tiểu học hiện   nay, các giáo trình đang được sử dụng ở các nhà trường đã nhấn mạnh vào khả  năng giao tiếp theo một hệ thống ngữ pháp có kiểm soát. Học sinh được lấy làm   trung tâm và luôn được khích lệ giao tiếp với nhau. ­ Trong quá trình hướng dẫn học sinh học, giáo viên quan sát chú ý xem   các em nói như thế nào, cái gì được và cái gì chưa được để tìm ra biện pháp và   phương pháp giảng dạy thích hợp cho từng bài học.  9.1. Tập cho học sinh cách phản xạ nhanh bằng Tiếng Anh  ­ Đối với học sinh ở vùng nông thôn như chúng ta các em chưa có vốn từ  vựng nếu có thì rất hạn chế dù vậy nhưng giáo viên vẫn tăng cường nói Tiếng  Anh trên lớp, thường thường là các câu mệnh lệnh đơn giản, áp dụng các câu  mệnh lệnh hoặc những câu hỏi theo bài học kết hợp với động tác, điệu bộ.   Nhìn chung, lúc đầu học sinh còn ngơ  ngác nhưng dần dần qua các tiết các em   cũng đều hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh của giáo viên. Sau khi các em đã học  được mẫu câu mới thì chúng ta nên sử  dụng thường xuyên trương lớp học để  các em có điều kiện phản xạ tốt như  những câu hỏi về  bản thân: What’s your  name?, How are you?; những câu hỏi về  đồ  vật, sử  dụng các đồ  vật thật có   trong lớp học (bàn, ghế, thước, vở... )  như các mẫu câu: What’s this?, What are these? ... ­ Thay thế từ không biết bằng một cụn từ khác đã biết, không sợ xấu hổ  khi nói sai. 10
  11. ­ Không nên ngầm hiểu sang tiếng Việt rồ mới dịch sang Tiếng anh. VD: Khi được hỏi: Where do you go? Thì học sinh phải hiểu rồi trả lời ngay: I   go to… chứ không nên ngầm dịch sang tiếng việt rồi mới trả lời. 9.2. Rèn luyện cách phát âm cho học sinh  ­ Trong quá trình giao tiếp bằng tiếng Anh, muốn người khác hiểu nội   dung mình nói gì học sinh cần phải phát âm từ và câu một cách rõ ràng. Với học   sinh vùng nông thôn do không có điều kiện tiếp xúc với người nước ngoài, nên   có xu hướng phát âm tiếng anh theo cách việt hóa. Vì vậy khi giới thiệu ngữ  liệu, mẫu câu giáo viên cần phải đọc chuẩn về  cả  ngữ  âm, ngữ  điệu có trọng   âm để  các em bắt chước vì đây là yếu tố  cơ  bản trong việc dạy nghe­nói. Tất   nhiên không thể chuẩn như người bản xứ nói Tiếng Anh nhưng để  có một kết  quả  phát âm chuẩn xác nhất thi chúng ta nên chịu khó nghe băng đĩa của người  bản địa. Giáo viên nên kiên trì luyện phát âm cho học sinh để tạo cho các em có  thói quen phát âm đúng và phải phát âm đúng. Bởi lẽ, các em mới bước đầu học   Tiếng Anh nhưng phát âm không đúng sẽ  thành thói quen  ảnh hưởng không tốt  trong quá trình học và giao tiếp sau này.  ­ Cần chú ý luyện tập cho hs phát âm có các âm cuối như:  + bag /bæg/  + book /buk/ .... ­ Tập cho học sinh có thói quen đọc nối. Ví dụ : stand­up /’stænd^p/ , look­at /lukæt/  It’s a pencil. /itsəpensl/ It is a desk. /itizədesk/  ­ Đối với hình thức số  nhiều cần luyện tập cho học sinh cách phát âm  trong việc nhấn mạnh đuôi số nhiều :  + Phát âm /s/ đứng sau phụ âm vô thanh /t/, /p/, /k/, /s/, /f/, /θ/ Ví dụ: cassettes, books,  ....  + Phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh  /b/, /d/,  /g/, /v/, /ð/, /m/, /n/, /Ŋ/, /l/, /r/. 11
  12. Ví dụ: crayons, tables, markers ...  + Phát âm là /iz/ khi đứng sau những phụ âm rít cụ thể các phụ âm như:  /z/, /s/, /ʤ/, / t  /, /   /, / /ʃʃʓ Ví dụ : pencil cases, oranges, nurses... ­ Ngoài ra một số âm rất khó phát âm, ngay cả với học sinh nhỏ bản ngữ + Âm /r/ là âm khó, học sinh chủ  ý môi thầy cô, chu môi ra sau đó mở  tròn   miệng: r r r. + Âm /th/ chỉ cho học sinh đăt lưỡi giữa hai hàm răng. Chú ý cắn nhẹ đầu lưỡi   khi đọc âm này. VD: this, they, these. + Âm /l/ bắt đầu đặt đầu lưỡi đằng sau răng trên ­ Cần chú ý: dấu nhấn (stress), nhịp  điệu (rhythm), ngữ   âm, ngữ  điệu  (intonation) là những yếu tố  quan trọng trong khi nói tiếng anh. Nó giúp người  nghe dễ hiểu nội dung cuộc nói chuyện. +   Có   ba   mức   độ   nhấn:   Nhấn   chính   (The   Primary   Stress),   nhấn   phụ   (The  Secondary Stress), không nhấn (The None­ Stress). Thông thường trong tiếng  anh, dấu nhấn chính thường đặt vào những từ mang ý nghĩa nội dung quan trọng  trong câu. + Âm điệu, ngữ điệu: Thường lên giọng ở cuối câu hỏi Yes­ No questions và hạ  giọng ở câu hỏi Wh­ questions. ­ Trong quá trình dạy học, nếu học sinh gặp khó khăn khi phát âm một  yếu tố nào đó, GV không nên bắt HS đó đứng dậy đọc đi đọc lại nhiều lần mà  nên yêu cầu cả  lớp đọc đồng thanh mẫu đó vài lần. Sau đó học sinh tiếp tục   luyện đôi và khi đó giáo viên có thể tiếp tục giúp đỡ những học sinh khó khăn. 9.3. Rèn cho học sinh sử dụng ngữ điệu : Ngữ  điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự  lên và xuống của giọng  nói. Người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn ý của người nói nếu  như người nói sử dụng sai ngữ điệu, bởi ngữ điệu được so sánh như là hồn của   câu.  12
  13. *Ngữ điệu xuống được thể hiện bằng cách hạ  âm điệu giọng nói xuống  thấp  ở trong các trường hợp sau:  ­ Dùng trong câu chào hỏi:  Good morning! ↓  ­ Dùng trong câu đề nghị:  Come here! ↓  ­ Dùng trong câu hỏi bắt đầu bằng từ để hỏi (who, whose, whom, which,  what, when, where, why, và how) What  are these? ↓  ­ Dùng trong yêu cầu hoặc mệnh lệnh: Open your book ↓  *Ngữ điệu lên được thể hiện bằng cách tăng âm điệu giọng nói lên cao ở  trong các trường hợp sau: ­ Dùng trong các câu hỏi nghi vấn “có…không” Is this a book ?↑  ­ Dùng trong câu xác định nhưng hàm ý câu hỏi:  You are Mai? ↑  9.4. Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ         ­ Kiểm soát tầm nhìn (nhìn xa, gần, nhìn vào người đang đối thoại, cần thể   hiện ánh mắt linh hoạt, tập trung…) tránh kiểu nhìn lơ  đễnh, mông lung khi  đang nói.         ­ Chú trọng đến yếu tố cử chỉ, điệu bộ (khuôn mặt, ánh mắt, nụ cười, body   language, gật đầu, lắc đầu…)         ­ Giữ tác phong lịch sự khi giao tiếp (tóc, quần áo…) 13
  14.         ­ Giáo viên cần phải nhắc nhở học sinh rèn luyện những kĩ năng trên mỗi  ngày. Cần chú ý rằng cung cấp cho HS ngữ liệu không khó bằng việc sử  dụng   ngữ  liệu đó vào giao tiếp. Vì vậy giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh có  thời gian thực hành nói thường xuyên giúp các em tự  tin, mạnh dạn đưa ra ý  kiến của mình và cũng giúp HS phat hiện những hạn chế và tự sửa sai. 9.5. Luyện tín hiệu ngôn ngữ          ­ Phù hợp với cuộc nói chuyện, thể  hiện sắc thái biểu cảm (vui, buồn,   ngạc nhiên, tò mò…)         ­ Đủ âm lượng (cường độ, cao độ…) giọng điệu gây sự chú ý, gây cảm tình  với người đối diện.         ­ Bỏ thói quen xấu thông thường trong khi nói (ờ…à…) 9.6. Tổ chức hoạt động theo cặp, nhóm         ­ Đây là hoạt động đắc lực và lý tưởng nhất trong quá trình luyện nói.         ­ Tất cả học sinh sẽ được làm việc cùng một thời gian.         ­ Học sinh học tập lẫn nhau trong quá trinh luyện tập, đó là cơ hội để chia   sẻ  thôn tin và hỏi những điều mình chưa rõ, đồng thời GV cũn dễ  dàng kiểm   soát học sinh bằng cách đi lại trong lớp, lắng nghe và hỗ trợ khi cần thiết.         * Chú ý: Vấn đề được đặt ra là các cặp hoặc nhóm phải có trnh đ ́ ộ tương   đồng nhau và việc quản lí của giáo viên trong quá trình hoạt động nhóm phải  thẹc hiện tốt.         * Một số hoạt đông theo cặp­ theo nhóm được áp dụng: a. Find Someone Who:         Với hoạt động này, sẽ giúp học sinh tự nhiên trong giao tiếp. Cá em sẽ hỏi   bất cứ bạn nào để lấy thông tin. Ví dụ: Tiếng anh 5­ Unit 5­ Lesson 3 Find someone who will be in the future… Name a singer a teacher 14
  15. an engineer a dentist What will you be in the future? I’ll be ….. b. Picture story/ Picture drill         ­ Với hoạt động này, HS nhìn tranh để  kể lại câu chuyện hoặc một đoạn   hội thoại. Nếu thực hành thường xuyên, học sinh sẽ  luyện được tính độc lấp   trong giao tiếp và sẽ sắp xếp được ý tứ khi trao đổi, kể chuyện hoặc giới thiệu   về một hoạt động. A: Are you reading a comedy? B: No, I’m not. A: Are you reading a story? B: Yes, I am. I’m reading a story. c. Survey           Ở hoạt động này, học sinh sẽ có cơ hội thể hiện hết khả năng nói Tiếng   Anh của mình thông qua hang loạt các câu hỏi với bạn trong lớp để hoàn thành  các thông tin còn thiếu. Survey: Tiếng anh 4 – Unit 11­ Lesson 3 Name get up have breakfast do homework watch TV 15
  16. Nga 5.30 6.15 7.00 8.00 Phượng Kiên Hưng Hà S1: What time do you get up? S2: At 5.30 d. Role play       Hoạt động này sẽ  giúp học sinh tự  tin trong khả năng sử  dụng Tiếng Anh   qua việc hóa thân vào các nhân vật trong những tình huống có sẵn trong sách   giáo khoa. Ví dụ:  S1: This is a pictures of my family. This is my father. S2: How old is he? S1: He’s forty­two years old. S2: Oh, he looks young. ………………………. 9.7. Làm thế nào để sửa lỗi sai cho học sinh? 16
  17.         ­ Việc sửa lỗi ngữ âm, ngữ pháp cho học sinh trong khi nói là một việc làm  quan trọng. Tuy nhiên, làm thế nào để sửa lỗ cho các em, sửa lỗi vào thời điểm  nào cho thích hợp là một việc làm đòi hỏi sự tế nhị và mang tính sư phạm cao.        ­ Khi học sinh đang thực hành phát âm một câu nói nào đó cho đúng thì đây  là thời điểm thích   hợp để giáo viên sửa lỗi khi các em đọc sai,         ­ Đối với trường hợp khi học sinh đang tập trung suy nghĩ và tìm ý tưởng từ  vựng để thể hiện một nội dung nào đó, giáo viên không nên ngắt lời để sửa lỗi  vì điều đó sẽ  làm mất đi sự  tự  tin, tính hiếu động, thích tham dự  vào các hoạt  động rèn luyện giao tiếp của các em.         ­ Giáo viên cần có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của học sinh. Chấp   nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp học sinh học   tập được từ chính lỗi của bản than và bạn bè. 9.8. Tổ chức “Đôi bạn nói Tiếng Anh” hoặc “Nhóm bạn nói Tiếng Anh”.         ­ Quá trình tìm hiểu địa bàn cư trú của học sinh, các em ở gần nhà nhau rất   nhiều, một xóm luôn có một số em học cùng lớp. Vì vậy, giáo viên nên tổ chức   cho các em thành lập đôi bạn nói Tiếng Anh hoặc nhóm bạn nói Tiếng Anh  ơe   nhà hoặc thời gian rảnh rỗi.         ­ Sau mỗi tiết học trên lớp, giáo viên gợi ý đề tài, mẫu câu, mẫu hội htoaij.   Học sinh về nhà tự tìm ý tưởng và vốn từ vựng để nói với nhau. Mục đích giáo  viên củng cố từ vựng, mẫu câu giúp các em nói theo hướng “Nói Tiếng Anh tự  nhiên”.         ­ Trước mỗi tiết học giáo viên cho các đôi bạn hoawch nhóm bạn trình bày  trước lớp. Giáo viên có nhiều hình thức khen thưởng để động viên tinh thần cho  các em. 9.9. Các bước luyện nói cho học sinh: Tùy theo mỗi bài học mà chúng ta áp dụng phương pháp dạy học khác  nhau.Về cơ bản trong quá trình luyện nói phải tuân thủ theo các qui trình sau: a. Chuẩn bị nói (Pre­Speaking) 17
  18. ­ Giáo viên giới thiệu ngữ liệu mới, ngữ pháp mới.  ­ Luyện đọc cho học sinh (Chú ý cách phát âm) ­ Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở để học sinh tự rút ra cách sử dụng từ và  cấu trúc câu. b. Luyện nói có kiểm soát (Controled Practice) Hoạt động này học sinh được luyện nói nhiều hơn giáo viên. Phần này họ c sinh luyện tập theo nhóm, cá nhân dưới sự điều khiển của giáo viên và học sinh thấy tự tin hào hứng khi nói tạo cơ hội cho các em phát triển kỹ năng nói c) Luyện nói tự do ( Free Practice/ Production)         ­ Học sinh sử dụng mẫu câu để nói về những đồ vật xung quanh chúng.         ­ Giáo viên không nên hạn chế về ý tưởng cũng như ngôn ngữ, nên học sinh  tự nói, phát huy khả năng sang tạo của bản thân. 10. Kết luận 10.1. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu * Kết quả khảo nghiệm Trước khi chưa áp dụng đề tài này , kết quả thi nói của học sinh còn nhiều hạn   chế, nhiều em còn Phát âmkhông chính xác, ngữ âm ngữ điệu không có… Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài ở khối 4,5 với số lượng là 354 em :  TS Đạt Chưa đạt Số lượng % Số lượng % Khối 4 184 130 70,6 54 29,4 Khối 5 170 128 75,2 42 24,8 Sau một thời gian áp dụng đề tài: Đối với giáo viên: Đã tự học tập và có kinh nghiệm trong dạy tiếng anh   nói chung và dạy kỹ  năng nói nói riêng, đồng thời giúp cho bản thân nâng cao  được tay nghề  và đã áp dụng được các biện pháp rèn luyện cho tất cả  các kỹ  năng khác. 18
  19. Đối với học sinh: Qua thực tế giảng dạy với phương pháp dạy học mới,  trong từng tiết dạy tôi thấy kết quả học tập của học sinh có nhiều tiến bộ, lớp  học sôi nổi, các em thích thú giờ  học ngoại ngữ hơn. Giờ  nào, tiết nào tôi cũng  động viên được hầu hết các học sinh trong lớp tham gia hoạt động .Nhũng lớp  tôi dạy theo phương pháp này đều có kết quả tốt, đều là những lớp có kết quả  cao. Bản thân tôi cũng nắm chắc được điểm mạnh, điểm yếu của từng học  sinh, rút ra được những vấn đề cân bổ sung cho các bài sau, bổ sung trong giáo  trình giáo án của mình. TS Đạt Chưa đạt Số lượng % Số lượng % Khối 4 184 160 86,9 24 13,1 Khối 5 170 150 88,2 20 11,8 * Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Qua việc thực hiện đề tài này mà chất lượng học sinh ở trường tôi đã  được nâng lên đáng kể. Tôi hy vọng với chút kinh nghiệm của mình, tôi không  chỉ giúp nâng cao chất lượng dạy và học tại trường tôi đang công tác mà có thể  góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho huyện nhà cũng như cho đất nước. 10.2. Kết luận           Đề tài mà tôi thực hiện chỉ là một phần trong tiết học song nó đóng vai trò   rất quan trọng góp phần làm nên thành công của một tiết học. Vì vậy để có một  tiết dạy nói đạt hiệu quả, giáo viên không chỉ  chuẩn bị  bài, các bước lên lớp   đầy đủ  mà giáo viên cần lựa chọn các phương pháp, kỹ  năng giới thiệu từ  các   đọc đúng cũng như cách kiểm tra sao cho phù hợp nhằm gây hứng thú và thu hút  sự hợp tác của học sinh để tiết học đạt hiệu quả cao nhất.             Qua quá trình giảng dạy, áp dụng những phương pháp trên tôi đã rút ra  được một số  kinh nghiệm nhỏ  và kết quả  thu được đáng mừng. Các em học  sinh tự tin hơn trong tiết học, các em đọc được từ  và nhớ  cách đọc lâu hơn lỗi   pháp âm hay đọc sai ngữ điệu  đã giảm xuống đáng kể. Tiết học Tiếng Anh sôi   nổi và các em hào hứng hơn.               Đề tài này có ý nghĩa trong công tác giảng dạy bộ môn Tiếng Anh, giúp  cho giáo viên có các kĩ năng giảng dạy, giúp học sinh tự tin giao tiêp và tạo nền   19
  20. tảng, trang bị cho các em một số kiến thức cho những bậc học tiếp theo và cũng   như  trong tương lai các em về  sau. Và nêu cao tầm quan trọng của bộ  môn  Tiếng Anh trong học sinh và phụ huynh. Tôi hy vọng nó có thể áp dụng đối với   các trường Tiểu học khác trên địa bàn huyện.  10.3. Kiến nghị:         Qua quá trình nghiên cứu đề tài này tôi xin đề xuất một vài ý kiến nhằm   góp phần nâng cao chất lượng  bộ  môn tiếng Anh cho  học sinh Tiểu học đặc  biêt học sinh lớp 4,5  như sau:      + Đối với nhà trường:  Nhà trường kết hợp với phụ huynh quan tâm chặt chẽ  đến việc học tập của học sinh. Cung cấp thêm trang thiết bị  dạy học cho môn  học này. + Đối với giáo viên:Phải có lòng nhiệt huyết, yêu nghề, yêu trẻ, sáng tạo trong  việc dạy.Thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học, trau dồi kiến thức, tự  học hỏi kinh nghiệm từ  các đồng nhiệp.Chuẩn bị  kỹ  kiến thức, giáo án trước  khi đến lớp.Biết ứng dụng công nghệ  thông tin trong soạn giảng, tạo hứng thú  cho học sinh. Biết hướng dẫn học sinh cách tự học và tự tìm tòi kiến thức.Biết  giáo dục trẻ  yêu thích việc học và yêu môn tiếng Anh.Biết tạo môi trường áp  dụng tiếng Anh trong trường và trong cuộc sống.         + Đối với phụ huynh: Cần quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho con em đi   học đầy đủ, động viên khuyến khích các em có ý thức học tập ở nhà.          + Phòng giáo dục nên thường xuyên tổ  chức  hội thảo chuyên môn theo   từng cụm trường cho giáo viên tiếng Anh trên toàn huyện để  chúng tôi có điều  kiện trao đổi, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm.           Trên đây là một số phương pháp  mà tôi đã đúc rút được trong quá trình  giảng dạy nhằm giúp học sinh vận dụng được những kiến thức đã học vào thực   tế, giúp các em học môn Tiếng Anh tốt hơn  Và đã đạt được những thành công  nhất định. Song cũng không tránh khỏi những thiếu sót.   Tôi rất mong nhận  được sự góp ý của hội đồng khoa học, quý thầy cô, để  tôi có thêm những kinh   nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao trình độ  chuyên môn nghiệp vụ  và góp  phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. 11.Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): 20
nguon tai.lieu . vn