Xem mẫu
- I. THÔNG TIN CHUNG
1. Tên sáng kiến
Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 5
2. Đồng tác giả
2.1. Họ và tên: Ngô Mạnh Hùng,
Năm sinh: 12/12/1979,
Nơi thường trú: Khu 5B thị trấn Than Uyên, Than Uyên, Lai Châu,
Trình độ chuyên môn: Đại học Tiểu học,
Chức vụ công tác: Phó Hiệu trưởng,
Nơi làm việc: Trường Tiểu học xã Mường Mít,
Điện thoại: 01658059012,
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến 40%.
2.2. Họ và tên: Vàng Thị Huyến,
Năm sinh: 25/09/1989,
Nơi thường trú: Bản Cang Mường, xã Mường Cang, Than Uyên, Lai Châu,
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm,
Chức vụ công tác: Tổng phụ trách Đội,
Nơi làm việc: Trường Tiểu học xã Mường Mít,
Điện thoại: 0989132744,
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến 30%.
2.3. Họ và tên: Đỗ Thị Tâm,
Năm sinh: 10/02/1990,
Nơi thường trú: Bản Cang Mường, xã Mường Cang, Than Uyên, Lai
Châu,
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm,
Chức vụ công tác: giáo viên,
Nơi làm việc: Trường Tiểu học xã Mường Mít,
1
- Điện thoại: 0972985478,
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến 30%.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Kĩ năng sống.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến
Từ ngày 04 tháng 9 năm 2017 đến ngày 20 tháng 03 năm 2018
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến
Tên đơn vị: Trường Tiểu học xã Mường Mít,
Địa chỉ: xã Mường Mít, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.
Điện thoại:
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến
1.1. Sự cần thiết của việc thực hiện sáng kiến
Công tác giáo dục học sinh tại trường Tiểu học xã Mường Mít trong
những năm gần đây đã thực hiện đúng chủ trương của ngành Giáo dục – Đào
tạo là dạy học sát đối tượng học sinh theo vùng miền, nâng cao chất lượng
giáo dục bền vững. Nhà trường đã đạt được những thành công về chất lượng
giáo dục các môn học. Song đối với nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 5 chưa đạt được hiệu quả cao. Việc áp dụng dạy học nội dung này ở
các lớp còn mang tính hình thức, chưa phong phú về nội dung và phương pháp
thực hiện. Chưa thật phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 5 vùng dân tộc. Từ đó
dẫn đến học sinh chưa có các kĩ năng sống cần thiết trong trong học tập, lao
động, vui chơi, đặc biệt là chưa đảm bảo sức khỏe cho bản thân, chưa biết
xử lý những tình huống khẩn cấp. Trong quá trình giao tiếp, các em còn rụt rè,
ngại giao tiếp hoặc ứng xử chưa chuẩn mực. Đồng thời trước sự bùng nổ về
thông tin mạng đã phần nào tác động đến nhận thức lệch lạc của học sinh.
Làm cho các em có những ứng xử và hành động chưa được chuẩn mực.
Với học sinh lớp 5 là lứa tuổi dậy thì, sinh sống ở vùng còn khó khăn,
2
- các em cần phải biết những kĩ năng sống cần thiết để phục vụ học tập, chăm
sóc sức khỏe, bảo vệ bản thân và biết giao tiếp ứng xử phù hợp với mọi
người.
Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 ở nhà trường là
hết sức cần thiết. Cần phải thực hiện đồng bộ, phong phú về nội dung, hình
thức và phương pháp. Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và điều kiện của địa
phương.
1.2. Mục đích của việc thực hiện sáng kiến
Đối với học sinh lớp 5 trường Tiểu học xã Mường Mít, huyện Than
Uyên, giáo dục kĩ năng sống để giúp cho các em biết tự giải quyết được một
số vấn đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe
cho bản thân, biết tự phòng vệ, phòng tránh bị xâm hại thân thể, biết về các
tệ nạn xã hội để phòng tránh, có tình cảm chân thành, có các hành động giúp
đỡ người khác, hình thành những hành vi, thói quen lành mạnh và tích cực
đồng thời loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực... Qua đó, giúp cho các em
chủ động, tự tin không phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự
bảo vệ mình, tự đưa ra các quyết định mang tính chuẩn mực được thầy cô,
gia đình và xã hội công nhận.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng cho học sinh
lớp 5 là hết sức cần thiết, chúng tôi đã quyết định chọn sáng kiến “Một số
biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5” để
đưa vào thực hiện trong năm học 2017 – 2018 tại nhà trường nhằm trang bị
cho học sinh lớp 5 những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Tạo
cơ hội thuận lợi để các em thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát
triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
2. Phạm vi triển khai thực hiện
Giáo viên và học sinh lớp 5, trường Tiểu học xã Mường Mít, năm học
2017 2018.
3
- 3. Mô tả sáng kiến
3.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
3.1.1. Hiện trạng của nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh lớp 5 tại trường Tiểu học xã Mường Mít.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống không phải là một môn học chính được
quy định bởi các tiết học riêng biệt như môn Toán, Tiếng Việt hay như các
môn khác mà chỉ là nội dung giáo dục kĩ năng tích hợp vào một số môn học
trong chương trình, một số hoạt động giáo dục của nhà trường.
Trong những năm qua, nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp
5 của nhà trường đã được thực hiện thông qua giáo dục lồng ghép vào các
môn học như Tiếng Việt 5, Khoa học 5, Đạo đức 5, dạy học lồng ghép vào
các tiết Hoạt động đầu tuần, Hoạt động cuối tuần, Hoạt động ngoài giờ lên
lớp. Song phương pháp, hình thức tổ chức còn đơn điệu, chưa phong phú. Về
hình thức, chủ yếu lồng ghép nội dung vào môn học. Giáo viên giảng dạy sử
dụng phương pháp vấn đáp trực tiếp học sinh để học sinh phân biệt được
những hành vi đúng và chưa đúng, những việc làm cần thiết, những chú ý
quan trọng... chứ chưa có các phương pháp đổi mới như trải nghiệm, giải
quyết tình huống thực tế trong học tập và trong đời sống.
Các giải pháp chính mà giáo viên đã áp dụng khi giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh lớp 5 đó là:
Giải pháp 1: Tổ chức giáo dục lồng ghép vào một số môn học
Các môn học được giáo viên dạy lồng ghép nội dung kĩ năng sống cho
học sinh lớp 5 đó là Tiếng Việt, Khoa học, Đạo đức.
+ Đối với môn Tiếng Việt, nội dung kĩ năng sống được giáo viên dạy
lồng ghép trong các phân môn Tập đọc, Tập làm văn và Kể chuyện. Đó là các
kĩ năng: tự nhận thức; giao tiếp, ứng xử phù hợp; kiểm soát cảm xúc; ra
quyết định; thu thập xử lý thông tin; tư duy sáng tạo; hợp tác; thuyết trình;
tranh luận; kĩ năng ứng phó, xử lý tình huống.
4
- Về hình thức, phương pháp, được giáo viên thể hiện bằng câu hỏi tích
hợp vào các phần như luyện đọc, tìm hiểu bài, liên hệ thực tế (ví dụ ở phân
môn Tập đọc, Kể chuyện); tìm ý để viết văn (ví dụ ở phân môn Tập làm
văn); mở rộng vốn từ (ví dụ ở phân môn Luyện từ và câu).
Kết quả thu được là học sinh biết thêm được vốn kiến thức, kĩ năng
phục vụ cho học tập và giao tiếp, ứng xử trong đời sống. Song các em cũng
nhanh quên vì tính thực hành còn ít.
+ Đối với môn Khoa học, nội dung kĩ năng sống được giáo viên dạy
lồng ghép trong các bài học cụ thể được thống nhất chung. Một số kĩ năng
chính đó là: kĩ năng quan sát, nhận xét; kĩ năng phân tích, phán đoán; kĩ năng
phòng tránh tai nạn; kĩ năng sơ cứu; kĩ năng phòng tránh xâm hại; kĩ năng
thuyết trình, tranh luận... Các kĩ năng này vừa mang đặc điểm thực hành thực
hiện các hành vi chuẩn mực, đúng quy định vừa mang đặc điểm về xã hội
như giao tiếp, ứng xử, hòa nhập cuộc sống.
Về hình thức, phương pháp, được giáo viên lồng ghép vào các câu hỏi
hoặc hoạt động thực hành chiếm lĩnh kiến thức.
+ Đối với môn Đạo đức, nội dung cần giáo dục chủ yếu là các kĩ năng
xã hội, giao tiếp hòa nhập. Các nội dung đó được giáo viên rèn cho học sinh
qua một số bài học được thống nhất đó là kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng đảm
nhận trách nhiệm, kĩ năng làm việc làm đúng, kĩ năng phê phán, kĩ năng đặt
mục tiêu vượt khó, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giúp đỡ, hợp tác, kĩ năng
phân tích, kĩ năng thuyết trình, tranh luận.
Về hình thức, phương pháp hoạt động, được giáo viên tích hợp dưới
dạng câu hỏi tìm hiểu nội dung bài, câu hỏi liên hệ thực tế và xử lý tình
huống.
Kết quả thu được là học sinh biết được nhiều kĩ năng mang tính ứng
xử, giao tiếp xã hội và đạt được chuẩn mực cần thiết đối với lứa tuổi lớp 5.
Giải pháp 2: Giáo dục lồng ghép vào các tiết Hoạt động tập thể
5
- Nội dung là các nhóm kĩ năng giao tiếp, ứng xử, hòa nhập xã hội; nhóm
kĩ thực hành, thực hiện các hành vi chuẩn mực. Các kĩ năng này tập trung vào
các tiết Hoạt động đầu tuần (sinh hoạt dưới cờ), Hoạt động cuối tuần (sinh
hoạt lớp), trong đó:
Tiết Hoạt động đầu tuần, đối với học sinh lớp 5 thường được rèn
nhiều các kĩ năng: kĩ năng tự nhận thức; kĩ năng đảm nhận trách nhiệm; kĩ
năng đặt mục tiêu vượt khó khăn vươn lên trong cuộc sống và trong học tập;
kĩ năng hợp tác; kĩ năng xử lý tình huống; kĩ năng tự chăm sóc; kĩ năng thuyết
trình.
Về hình thức, phương pháp hoạt động, được giáo viên trực tuần hoặc
Tổng phụ trách Đội thiết kế sẵn dưới dạng các trò chơi, tiểu phẩm ngắn đưa
vào hoạt động chung ở mỗi điểm trường. Trong đó học sinh lớp 5 được tham
gia vào các hoạt động được giáo viên tổ chức.
Tiết Hoạt động cuối tuần, được giáo viên chủ nhiệm biên soạn nội
dung rèn kĩ năng sống như: giao tiếp, ứng xử, thuyết trình, tranh luận.
Về hình thức, phương pháp giáo dục, được giáo viên đưa ra, liên hệ
trong việc sơ kết đánh giá các hoạt động của từng học sinh, của lớp trong
tuần qua.
Kết quả thu được sau khi thực hiện ở tiết hoạt động cuối tuần là các
em biết rút kinh nghiệm về những việc chưa làm tốt của bản thân, không
ngại với bạn bè và thầy cô khác. Các em biết học tập đức tính tốt, việc làm
tốt của bạn khác một cách trực tiếp, gần gũi hơn.
Giải pháp 3: Tổ chức giáo dục thông qua các hoạt động ngoài giờ lên
lớp.
Trong các năm học qua, việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp cho học sinh lớp 5 đã được nhà trường quan tâm và thực hiện tương
đối có hiệu quả. Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 được
6
- giáo viên đưa vào 4 tiết Giáo dục ngoài giờ lên lớp/tháng và tích hợp vào các
hoạt động trò chơi, hội thi, quyên góp, thể thao, văn nghệ, trải nghiệm.
Kết quả thu được qua hoạt động giáo dục ngoài giờ là học sinh có
được một số kĩ năng cơ bản như kĩ năng giao tiếp, ứng xử, kĩ năng thuyết
trình, diễn đạt, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng
quan sát, nhận xét, kĩ năng phòng tránh tai nạn thương tích, kĩ năng vui chơi,
giải trí lành mạnh.
3.1.2. Ưu điểm của giải pháp cũ
Giải pháp 1: Tổ chức giáo dục lồng ghép vào một số môn học
Trong các năm qua, tổ khối 5 của nhà trường đã lựa chọn các nội dung
cần thiết nhất, hình thức, phương pháp phù hợp với học sinh lớp 5 vùng dân
tộc để giáo dục lồng ghép vào một số môn học cụ thể.
Các môn học được giáo viên dạy lồng ghép nội dung kĩ năng sống cho
học sinh lớp 5 đó là Tiếng Việt, Khoa học, Đạo đức. Như vậy, giáo viên có
sẵn nội dung, hình thức và môn học cụ thể để giáo dục. Giáo viên không mất
nhiều thời gian để chuẩn bị về nội dung giáo dục. Giáo viên dễ chia sẻ những
kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống với đồng nghiệp. Có thể một người soạn
bài rồi chia sẻ cho người khác để thực hiện.
Ở giải pháp này, giáo viên chủ yếu sử dụng biện pháp giáo dục thông
qua phương pháp đặt vấn đề rồi đi đến giải quyết bằng hình thức hỏi đáp
trực tiếp học sinh nên không phải chuẩn bị nhiều về trực quan, đồ dùng.
Đối với học sinh lớp 5, các em được tham gia vào quá trình học tập, rèn
luyện và trau dồi kĩ năng một cách bài bản, đồng đều. Các em tiếp thu nội
dung giáo dục nhanh, vận dụng các nội dung vào thực tế tốt, ít bị động. Các
em thích hoạt động, đặc biệt là các hoạt động mang tính thực hành, trải
nghiệm như ở môn Khoa học, thích tranh luận, thích được thể hiện năng lực
của bản thân trước thầy cô và bạn bè.
7
- Ví dụ ở môn Khoa học, bài 18 Phòng tránh bị xâm hại, các kĩ năng sống
cần giáo dục cho học sinh được giáo viên thống nhất chung trong tổ khối, có
thể một giáo viên soạn bài rồi cho giáo viên khác cùng thực hiện.
Giải pháp 2: Giáo dục lồng ghép vào các tiết Hoạt động tập thể
Đối với tiết Hoạt động đầu tuần, ưu điểm của giải pháp này là giáo
viên lớp 5 được kết hợp với các giáo viên khối khác, kết hợp với tổng phụ
trách Đội để tổ chức các hoạt động đầu tuần cho học sinh. Đồng thời được
trao đổi về nội dung và cách tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của
giáo viên khối khác.
Đối với học sinh, các em hào hứng hơn với việc được các thầy cô lớp
khác tổ chức các hoạt động mang nhiều nội dung, hình thức phong phú khác
nhau. Các em dễ nhớ nội dung và vận dụng sâu hơn các kĩ năng do khả năng
của giáo viên khác truyền đạt có tính mới hơn.
Đối với tiết Hoạt động cuối tuần, giáo viên được gần gũi với học sinh,
được nghe học sinh trình bày những suy nghĩ cá nhân về học tập, vui chơi, lao
động và những điều khác trong cuộc sống. Qua đó giáo viên nắm bắt được
đặc điểm của từng em để giáo dục có hiệu quả hơn. Đối với học sinh, nhờ có
tiết hoạt động cuối tuần mà các em thoải mái hơn vào các hoạt động được
giáo viên chủ nhiệm giáo dục vì đây không phải là tiết học chính.
Giải pháp 3: Tổ chức giáo dục thông qua các hoạt động ngoài giờ lên
lớp.
Việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp
5 thông qua các hoạt động trò chơi, hội thi, quyên góp, thể thao, văn nghệ, trải
nghiệm... mang lại cho học sinh các hoạt động học tập mới lạ, học sinh được
rèn các kĩ năng phù hợp với lứa tuổi và sở thích chung của các em. Kết quả
thu được là học sinh nắm vững các kĩ năng sống và vận dụng có hiệu quả
cao.
8
- Đối với giáo viên, các thầy cô thu được kết quả giáo dục như mong
muốn, đạt được mục tiêu giáo dục đề ra. Giáo viên tham gia các hoạt động
cùng học sinh một cách gắn kết.
Ví dụ qua các hoạt động quyên góp ủng hộ, giáo viên đã giáo dục cho
các em kĩ năng làm việc nhóm, các em hiểu được sự khó khăn của các bạn
khác qua đó các em biết giữ gìn đồ dùng cẩn thận hơn, yêu quý bạn bè và
những người gặp khó khăn nhiều hơn.
3.1.3. Nhược điểm của giải pháp cũ
Giải pháp 1: Tổ chức giáo dục lồng ghép vào một số môn học
Do có sự thống nhất về nội dung, hình thức giáo dục ngay từ đầu năm
học nên giáo viên mất tính chủ động trong dạy học. Ở mỗi bài, mỗi môn học
thời gian dành cho giáo dục kĩ năng sống là rất ít dẫn đến hình thức tổ chức
không phong phú, bị động về phương pháp giáo dục. Trong các hoạt động,
giáo viên là chủ đạo. Giáo viên áp đặt sẵn về nội dung giáo dục, học sinh chỉ
trả lời khi giáo viên đặt câu hỏi. Giáo viên thường đưa ra kĩ năng giáo dục
mang tính chuẩn mực bắt buộc, chưa để cho học sinh được bày tỏ quan điểm
cá nhân.
Đối với học sinh lớp 5, chưa có sự sáng tạo trong quá trình tham gia các
hoạt động học tập. Các em ít được bày tỏ quan điểm cá nhân về các nội dung
do giáo viên đưa ra.
Ví dụ môn Khoa học, bài 18 Phòng tránh bị xâm hại . Giáo viên thường
kết luận một chiều có tính bắt buộc như: “để không bị xâm hại, chúng ta
không nghe theo người lạ, không đi đêm một mình...” Chứ chưa để cho học
sinh được bày tỏ quan điểm riêng của mình là: “trong một tình huống bắt
buộc vì sự sống còn thì chúng ta vẫn phải đi vào buổi đêm hoặc vẫn phải làm
theo yêu cầu của người lạ”.
Ví dụ môn Đạo đức, bài 2 Có trách nhiệm về việc làm của mình. Giáo
viên thường giáo dục kĩ năng sống gắn với việc học tập là nhắc nhở các em
9
- tự chuẩn bị bài, tự học ở nhà, có đủ đồ dùng, biết tham gia các hoạt động của
tổ, của lớp... Các kĩ năng này mang tính bắt buộc song nó cũng gây áp lực cho
học sinh. Giáo viên chưa tìm hiểu hoàn cảnh của mỗi em, có thể có em nhà
nghèo chưa có điều kiện để có đủ đồ dùng như cô giáo yêu cầu, có thể có em
phải làm nhiều việc giúp gia đình nên chưa có thời gian cho học tập.
Giải pháp 2: Giáo dục lồng ghép vào các tiết Hoạt động tập thể
Đối với hoạt động đầu tuần, nội dung giáo dục kĩ năng sống được thực
hiện chung cho tất cả học sinh ở các lớp của mỗi điểm trường nên học sinh
lớp 5 ở mỗi điểm trường đều phải thực hiện chung với học sinh lớp dưới. Có
nhiều nội dung các em đã biết, đã thành thục. Nên khi tổ chức chung các hoạt
động, các em dễ nhàm chán. Nhược điểm thứ hai là học sinh lớp 5 đã lớn, các
em thường chỉ thích các hoạt động sôi nổi. Nhưng thời gian cho tiết hoạt
động đầu tuần có ít nên không thể tổ chức đa dạng các hình thức phong phú
được... Đó là những nhược điểm của giải pháp này.
Giải pháp 3: Tổ chức giáo dục thông qua các hoạt động ngoài giờ lên
lớp.
Nhược điểm của giải pháp này là giáo viên phải mất nhiều thời gian để
nghiên cứu kết hợp các hoạt động giáo dục ngoài giờ với giáo dục kĩ năng
sống sao cho phù hợp. Giáo viên và học sinh cần phải chuẩn bị kĩ lưỡng về
đồ dùng phục vụ cho các hoạt động, chi phí bỏ ra nhiều. Người tổ chức các
hoạt động cũng phải dự kiến nhiều phương án có thể xảy ra và dự kiến các
tình huống cần xử lý để đạt hiệu quả cao.
Ví dụ để tổ chức một buổi giao lưu Tiếng Việt cho học sinh lớp 5 thì
các thầy cô phải xây dựng phương án từ đầu năm học. Giáo viên mất thời
gian tổ chức tập luyện, chuẩn bị cho học sinh. Phải bỏ ra nguồn kinh phí đáng
kể cho các hoạt động đó.
Vậy để nắm bắt được chất lượng giáo dục kĩ năng sống thông qua các
giải pháp mà giáo viên đã thực hiện trong thời gian trước khi áp dụng giải
10
- pháp mới, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát đối với 65 học sinh/4 lớp/4
điểm trường tại trường Tiểu học xã Mường Mít, đầu năm học 2017 – 2018
với các kĩ năng cơ bản và thu được kết quả như sau:
* Nội dung, hình thức khảo sát:
Nhóm tác giả đã tiến hành quan sát, điều tra, tìm hiểu thông qua các
hoạt động học tập, vui chơi, lao động và một số hoạt động tập thể khác của
học sinh trong và ngoài phạm vi nhà trường.
Thông qua việc khảo sát học sinh bằng “phiếu hỏi”. Học sinh trả lời
các câu hỏi trên phiếu bằng sự hiểu biết của các em, không có sự tư vấn của
thầy cô, bạn bè hay của người khác.
Sau một quá trình tìm hiểu về thực trạng kĩ năng sống cơ bản của các
em, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Chưa thực
Thực hiện
hiện đảm bảo
đảm bảo
Nội dung khảo sát
Tổng Tỉ lệ Tổng Tỉ lệ
số % số %
1. Kĩ năng làm chủ bản thân. 42/65 64,6 23/65 35,4
2. Kĩ năng giao tiếp, ứng xử. 52/65 80 13/65 20
3. Kĩ năng thuyết trình, diễn đạt. 40/65 61,5 25/65 38,5
4. Kĩ năng giải quyết vấn đề. 43/65 66,2 22/65 33,8
5. Kĩ năng học, tự học. 52/65 80 13/65 20
6. Kĩ năng làm việc nhóm. 37/65 56,9 28/65 43,1
7. Kĩ năng quan sát, nhận xét. 40/65 61,5 25/65 38,5
8. Kĩ năng phòng chống bị xâm hại. 35/65 53,8 30/65 46,2
9. Kĩ năng phòng tránh tai nạn thương tích. 42/65 64,6 23/65 35,4
10. Kĩ năng vui chơi, giải trí. 47/65 72,3 18/65 27,7
Đánh giá chung từ kết quả điều tra, khảo sát trên cho thấy phương
pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp
11
- 5 mang lại chưa đồng đều. Một số kĩ năng cơ bản như kĩ năng làm việc
nhóm, kĩ năng phòng chống bị xâm hại, kĩ năng thuyết trình, diễn đạt, kĩ năng
quan sát, nhận xét có kết quả chưa cao.
Vậy từ những ưu, nhược điểm đã phân tích ở trên, chúng tôi thấy rằng
để nâng cao được chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 của
nhà trường thì giáo viên phải biết lựa chọn nội dung phù hợp, đổi mới về
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Làm cho học sinh có hứng thú hơn
khi tham gia các hoạt động học tập, lao động và vui chơi. Qua đó sẽ rèn được
cho học sinh các kĩ năng sống cơ bản, cần thiết để phục vụ cho các em.
Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện
pháp nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 tại trường
Tiểu học xã Mường Mít, năm học 2017 2018.
3.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
3.2.1. Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ
Tính mới
Đặc trưng của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 là cung cấp và
rèn các kĩ năng để phục vụ cho việc học tập, lao động, vui chơi và phục vụ
đời sống hằng ngày cho học sinh bằng những việc làm, hành động, cử chỉ,
thái độ có tính chuẩn mực, đúng đắn, phù hợp với từng môi trường xã hội cụ
thể.
Giúp cho các em ngày càng hoàn thiện và phát triển đồng đều hơn cả
về tri thức, nhân cách và kĩ năng sống.
Vì vậy vừa kết hợp sự kế thừa của các giải pháp cũ, ở giải pháp mới
này, chúng tôi còn tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 thông
qua các hoạt động khác như sinh hoạt Sao nhi đồng, hoạt động đầu giờ, giữa
giờ, hoạt động ngoài giờ lên lớp, trải nghiệm, hoạt động ngoại khóa, giáo
dục kĩ năng sống trực tiếp cho học sinh thông qua giao tiếp, qua lao động, vui
chơi cùng các em.
12
- Sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ
Giải pháp cũ Giải pháp mới
Giải pháp 1: Tổ chức giáo dục lồng Giải pháp 1: Tổ chức giáo dục lồng
ghép vào một số môn học ghép vào một số môn học
+ Chỉ tích hợp nội dung kĩ năng sống + Các môn học đều có thể được tích
ở một số môn, số bài. hợp giáo dục kĩ năng sống linh hoạt.
+ Hình thức: giáo viên là chủ đạo + Hình thức: giáo viên kết hợp giáo
đưa ra các yêu cầu, học sinh thực dục và rèn kĩ năng cho học sinh, học
hiện theo yêu cầu của giáo viên. sinh là chủ đạo trong các hoạt động.
+ Phương pháp giáo dục: chủ yếu + Phương pháp giáo dục: vấn đáp,
đôn đốc, nhắc nhở hằng ngày. điều tra, trò chơi, thực hành.
+ Kết quả thu được: học sinh chỉ + Kết quả thu được: học sinh biết
nêu được các kĩ năng qua tiết học. nêu và vận dụng các kĩ năng vào
thực tế.
Giải pháp 2: Giáo dục lồng ghép vào Giải pháp 2: Giáo dục lồng ghép vào
các tiết Hoạt động tập thể các tiết Hoạt động tập thể
+ Về nội dung các kĩ năng cần giáo + Về nội dung các kĩ năng cần giáo
dục: chủ yếu tập trung vào phục vụ dục và rèn luyện cho học sinh được
học tập, lao động, vui chơi trong mở rộng nhiều lĩnh vực trong và
phạm vi nhà trường. ngoài nhà trường.
+ Hình thức: chủ yếu giáo dục thông + Hình thức: tổ chức giáo dục và rèn
qua tiết Hoạt động đầu tuần, Hoạt các kĩ năng thông qua nhiều hoạt
động cuối tuần. động khác nhau như Hoạt động đầu
tuần, hoạt động Đội trước giờ học,
giờ ra chơi, Hoạt động cuối tuần,
sinh hoạt Sao nhi đồng.
+ Phương pháp: sử dụng chủ yếu + Phương pháp: sử dụng phương
các phương pháp vấn đáp và trò pháp nêu gương, thực hành, trò chơi,
chơi. điều tra, vấn đáp.
13
- + Kết quả thu được, học sinh dễ
+ Kết quả thu được: học sinh chỉ tiếp thu được các kĩ năng mới, củng
nắm được một số kĩ năng chính, ít cố được nhiều kĩ năng đã học, dễ áp
được vận dụng vào thực tiễn. dụng vào thực tiễn.
Giải pháp 3: Tổ chức giáo dục thông Giải pháp 3: Tổ chức giáo dục thông
qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp. qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
+ Về nội dung, chủ yếu là các nhóm + Về nội dung, có nhiều kĩ năng
kĩ năng sống để giúp học sinh tự sống được giáo dục và kết hợp rèn
học, tự chăm sóc bản thân, kĩ năng luyện. Các nội dung này được giáo
thuyết trình, tranh luận. Các nội viên dạy học linh hoạt áp dụng tùy
dung này được thống nhất và áp vào từng hình thức tổ chức.
dụng đại trà. + Hình thức tổ chức: giáo dục kết
+ Hình thức tổ chức: giáo dục kĩ hợp rèn kĩ năng sống thông qua các
năng sống trong giờ học Hoạt động hoạt động ngoài giờ lên lớp do nhà
giáo dục ngoài giờ lên lớp (4 trường và lớp tổ chức là chủ yếu.
tiết/tháng) là chủ yếu. + Phương pháp giáo dục: phương
+ Phương pháp giáo dục: gồm pháp đặt vấn đề, điều tra, vấn đáp,
phương pháp vấn đáp, trò chơi, thực trò chơi, thực hành, nêu gương.
hành. + Kết quả thu được, học sinh tiếp
thu được các kĩ năng mới, củng cố
+ Kết quả thu được: học sinh tiếp được các kĩ năng đã học từ trước.
thu được các kĩ năng cơ bản. Ít được Được tham gia nhiều các hoạt động
tham gia các hoạt động ngoài giờ. đa dạng.
3.2.2. Các giải pháp mới áp dụng
Giải pháp 1: Tổ chức giáo dục lồng ghép vào một số môn học
* Nội dung giải pháp
14
- Giúp cho giáo viên dạy ở lớp 5 nắm được những kĩ năng sống cần thiết
để giáo dục cho học sinh, các bài dạy cần tích hợp, các hình thức tổ chức,
phương pháp giáo dục linh hoạt, có hiệu quả nhất cho học sinh ở từng lớp,
phù hợp với từng thời điểm.
Giúp cho học sinh có được những kĩ năng sống cần thiết, dễ vận dụng
vào quá trình học tập, lao động, vui chơi và các hoạt động hằng ngày.
* Các bước thực hiện
Bước 1, Lựa chọn những kĩ năng sống cần thiết nhất, phù hợp với học
sinh vùng dân tộc.
Giáo viên giảng dạy ở lớp 5 thực hiện ngay từ đầu năm học và có sự
điều chỉnh bổ sung trong quá trình giáo dục. Lựa chọn các kĩ năng sống cần
thiết để giáo dục cho các em nhằm mục đích nâng cao chất lượng học tập,
lao động, vui chơi và phục vụ cuộc sống hằng ngày.
Ví dụ môn Tiếng Việt, được lựa chọn ở các phân môn Tập đọc, Tập
làm văn, Kể chuyện, Luyện từ và câu hoặc Chính tả để giáo dục các kĩ năng
sống như trong giao tiếp, ứng xử phù hợp, rèn tính cẩn thận, rèn các đức tính
tốt...
Ví dụ môn Kĩ thuật, được lựa chọn một số bài để vận dụng một số kĩ
năng thực hành.
Ví dụ môn Khoa học, lựa chọn các kĩ năng có tính thực hành, trải
nghiệm, làm việc nhóm để giáo dục thông qua một số bài học cụ thể.
Ví dụ môn Đạo đức, lựa chọn các bài để giáo dục nhóm kĩ năng giao
tiếp, ứng xử có văn hóa.
Bước 2, Xác định các phương pháp, hình thức tổ chức để giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh.
Về phương pháp, hình thức giáo dục được giáo viên thống nhất sử
dụng ngay từ đầu năm học và trong quá trình giáo dục có sự điều chỉnh để
phù hợp với đặc điểm của mỗi bài học, đặc điểm lớp học.
15
- Ví dụ để tích hợp vào các môn học đã chọn thì hình thức chủ yếu là
hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm. Dùng phương pháp đặt vấn đề, vấn đáp,
thực hành, trò chơi.
Bước 3, Tổ chức các hoạt động giáo dục cho học sinh
Căn cứ vào thời khóa biểu, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã lựa chọn,
giáo viên tiến hành giảng dạy kiến thức, kĩ năng theo mục tiêu bài học đồng
thời tổ chức giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào bài học đó.
Ví dụ 1, môn Khoa học, bài 18 Phòng tránh bị xâm hại.
Đối với giải pháp mới này, giáo viên tổ chức cho học sinh xem vi deo
về tình huống kẻ xấu gạ gẫm lôi kéo trẻ em, đặt vấn đề về các tình huống có
thể xảy ra. Tiếp theo học sinh được bày tỏ quan điểm cá nhân trong từng
nhóm nhỏ về cách xử lý các tình huống mà các em được xem vi deo hoặc
nghe giáo viên nêu. Ở mỗi tình huống, các em được tranh luận, phân tích rõ đó
là việc nên làm hay không nên làm để tránh bị xâm hại. Các em đi đến thống
nhất về cách giải quyết tình huống đó. Như vậy, thông qua tình huống, các
em được tự rút ra các kĩ năng sống cần thiết. Các em được thuyết trình trước
lớp. Cuối cùng giáo viên mới đi đến kết luận và rèn các kĩ năng cho các em,
để các em biết cách xử lý.
Ví dụ vào buổi đêm, không may người nhà em bị ốm thì em phải vượt
qua sự sợ hãi của bản thân để đi gọi người thân ở chỗ khác, tìm y tá thôn bản
về khám, chữa cho người thân. Hoặc khi bị bọn cướp dọa cướp của và giết
thì kĩ năng đầu tiên là chấp hành theo yêu cầu của bọn cướp để cho chúng
cướp được của chứ tuyệt đối không được chống cự thì sẽ dễ bị chúng giết,
quá trình làm theo yêu cầu của bọn chúng cần bình tĩnh và nhớ được một số
đặc điểm của chúng, để sau khi bọn chúng đi thì ta sẽ báo người lớn hoặc
công an.
Ví dụ 2, môn Tập đọc, bài Người gác rừng tí hon.
16
- Đối với giải pháp mới này, giáo viên kết hợp vận dụng câu hỏi trong
sách giáo khoa để giáo dục kĩ năng xử lý tình huống như cậu bé trong bài.
Đồng thời giáo viên đưa thêm tình huống vào phần củng cố bài học: “Khi em
nhìn thấy một tên trộm lẻn vào nhà hàng xóm ăn trộm đồ vật, em sẽ làm gì?”.
Lúc đó cho học sinh được trao đổi trong nhóm, mỗi nhóm cử đại diện nêu
cách xử lý của nhóm mình, học sinh được tranh luận và đưa ra giải pháp xử lý
hợp lý để đảm bảo an toàn cho em mà vẫn bắt được tên trộm. Sau cùng, giáo
viên mới đưa ra những kĩ năng xử lý tình huống cần thiết cho học sinh để các
em vận dụng có hiệu quả.
Ví dụ 3, môn Kĩ thuật, bài Cắt khâu thêu
Đối với giải pháp mới, giáo viên vừa hướng dẫn kĩ thuật cắt, khâu,
thêu theo nội dung bài học, giáo viên vừa đặt vấn đề về những kĩ năng cần
cho cuộc sống để học sinh giải quyết. Học sinh tự nhận thức, nêu cách giải
quyết và đi đến kết luận.
Ví dụ giáo viên đặt vấn đề “Khi quần áo của em bị rách, em sẽ làm
gì?”. Học sinh sẽ nêu các cách giải quyết như: “ bảo bố mẹ mua mới, tự khâu
lại, nhờ người khác khâu lại...” Lúc này giáo viên định hướng: “Các em đã
được học cắt, khâu ở lớp. Vậy các em sẽ tự khâu khi quần áo rách, nếu chỗ
đó khó khâu thì sẽ nhờ người khác khâu hộ để không bị lãng phí của cải” Khi
đó học sinh sẽ rút ra được bài học, cần phải sử dụng đồ dùng cẩn thận, có
thể tự sửa lại đồ dùng bị hỏng, không nên lãng phí...
Hình ảnh giáo dục kĩ năng sống thông qua môn Kĩ thuật (xem phụ lục).
Ví dụ 4, môn Đạo đức, bài Tôn trọng phụ nữ
Hướng dẫn các em biết giao tiếp, ứng xử với bà mẹ, chị em gái, cô
giáo, các bạn gái và những người phụ nữ khác ngoài xã hội một cách phù hợp.
Hình ảnh học sinh tham gia phần thi giao tiếp ứng xử (xem phụ lục).
* Các điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp
Để thực hiện được giải pháp này thành công, đối với giáo viên phải có
17
- kiến thức hiểu biết về xã hội, có vốn kĩ năng sống phong phú, cách truyền
đạt và phương pháp dạy học linh hoạt; thứ hai, có phương tiện, trực quan hỗ
trợ.
Đối với học sinh, các em cần phải có các kĩ năng cần thiết như nghe,
đọc, quan sát, phân tích, thuyết trình và kĩ năng làm việc nhóm để hỗ trợ.
Giải pháp 2: Giáo dục lồng ghép vào các tiết Hoạt động tập thể
* Nội dung giải pháp
Giúp cho giáo viên và Tổng phụ trách Đội nắm được nội dung, hình
thức, phương pháp khi giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 thông
qua các hoạt động tập thể được tổ chức phù hợp với từng lớp, từng thời
điểm.
Giúp cho học sinh có được các kĩ năng sống cần thiết thông qua các
hoạt động tập thể một cách sinh động, vui vẻ và bổ ích.
* Các bước thực hiện
Bước 1, xây dựng kế hoạch thực hiện cho từng tuần, từng tháng, năm
học.
+ Giáo viên dạy lớp 5 phối hợp với Tổng phụ trách Đội tổ chức giáo
dục kĩ năng sống thông qua các tiết Hoạt động đầu tuần của từng tháng;
thông qua các hoạt động của Đội đầu giờ, giữa giờ, sinh hoạt Sao nhi đồng
của từng tuần.
Ví dụ tuần 2 chủ điểm tháng 9, triển khai tuyên truyền Luật An toàn
giao thông cho học sinh ở các điểm trường tại buổi sinh hoạt dưới cờ đầu
tuần thì chúng tôi lồng ghép giáo dục kĩ năng phòng tránh tai nạn; kĩ năng xử
lý tình huống, đảm nhận trách nhiệm vào cùng buổi hoạt động tuyên truyền
đó.
Ví dụ tuần 3 chủ điểm tháng 10, tổ chức cho học sinh xem phim về
tấm gương học sinh nghèo vượt khó. Thông qua đó, chúng tôi giáo dục kĩ
18
- năng sống cho học sinh biết đặt mục tiêu vượt qua khó khăn, vươn lên trong
cuộc sống và trong học tập, kĩ năng tự tin vào cuộc sống.
+ Đối với các tiết Hoạt động cuối tuần, nội dung kĩ năng sống cần giáo
dục được giáo viên chủ nhiệm tổ chức cùng với các hoạt động tập thể của
lớp theo từng tuần.
Ví dụ ở tiết Hoạt động cuối tuần tháng 10, tại lớp 5A1, giáo viên chủ
nhiệm đã đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống cùng với sinh hoạt lớp. Giáo
viên chủ nhiệm đã rèn các kĩ năng tiết kiệm điện, kĩ năng sử dụng điện an
toàn, cho học sinh thông qua việc cho học sinh đóng tiểu phẩm ngắn về sử
dụng điện lãng phí ở nhà.
Ví dụ ở tiết Hoạt động cuối tuần tháng 11, tại lớp 5A3, giáo viên chủ
nhiệm cho học sinh bình chọn những bạn có nhiều thành tích trong học tập,
rèn luyện thi đua chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Thông qua đó, giáo viên
đã rèn được kĩ năng làm việc nhóm, tranh luận, kĩ năng thuyết trình cho học
sinh.
Bước 2, Chuẩn bị cho các hoạt động giáo dục kĩ năng sống.
Theo kế hoạch hoạt động Đội ở mỗi tuần, mỗi điểm trường, Tổng phụ
trách Đội hoặc giáo viên dạy lớp 5 ở điểm trường đó bám vào nội dung đã
xây dựng để chuẩn bị về nội dung kĩ năng cần giáo dục, chuẩn bị về hình
thức, phương pháp, cơ sở vật chất, con người tham gia hoạt động giáo dục kĩ
năng.
Đối với học sinh, các em được giáo viên giao chuẩn bị về cơ sở vật
chất, tham gia vào các hoạt động giáo dục đó.
Ví dụ tuần 2, tháng 9, để triển khai tuyên truyền Luật An toàn giao
thông cho học sinh có hiệu quả thì giáo viên xây dựng kịch bản, nội dung
chương trình tuyên truyền giáo dục kĩ năng sống. Phân công học sinh chuẩn bị
mũ bảo hiểm, xe đạp... để tham gia đóng tiểu phẩm trong hoạt động tuyên
truyền đó.
19
- Ví dụ ở hoạt động giữa giờ ra chơi, để giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh thông qua các trò chơi dân gian thì giáo viên phải nhắc học sinh chuẩn bị
về dụng cụ để tham gia chơi đó.
Ví dụ ở tiết Hoạt động cuối tuần, để rèn các kĩ năng sử dụng điện an
toàn và tiết kiệm điện cho học sinh trong giờ sinh hoạt lớp thì giáo viên phải
chuẩn bị hình thức, phương pháp giáo dục. Đồng thời phân công học sinh
chuẩn bị một số đồ điện như dây điện, ấm đun nước, bóng điện.
Bước 3, thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Sau khi chuẩn bị về nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục các kĩ
năng sống cho học sinh theo kế hoạch từng tuần, từng tháng, chúng tôi tiến
hành giáo dục cho học sinh theo kế hoạch đó. Ở mỗi tuần, mỗi tháng có sự
điều chỉnh bổ sung về nội dung, hình thức hoặc phương pháp để phù hợp với
học sinh.
Ví dụ giáo dục kĩ năng phòng tránh tai nạn thông qua buổi tuyên truyền
về Luật An toàn giao thông ở mỗi điểm trường, chúng tôi tiến hành cho học
sinh lớp 5 tham gia vào quá trình tương tác, xử lý các tình huống do chúng tôi
nêu ra. Sau đó để cho học sinh được tự nhận biết hành vi nào đúng, hành vi
nào sai, làm thế nào để không bị tai nạn giao thông. Cuối cùng các em rút ra
bài học và tự trình bày trước các bạn. Nếu học sinh chưa nêu được những
việc làm cần thiết để phòng tránh tai nạn hoặc trả lời chưa chính xác, chúng
tôi tiến hành trợ giúp các em.
Hình ảnh hướng dẫn học học sinh lớp 5A3 phòng tránh tai nạn đuối
nước (xem phụ lục).
Ví dụ giáo dục kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng giao tiếp, ứng xử đúng
mực thông qua các trò chơi dân gian như trò kéo co ở hoạt động giờ ra chơi,
bịt mắt đánh trống... ở buổi Hoạt động đầu tuần. Chúng tôi tiến hành hướng
dẫn cách chơi, kĩ thuật kéo co, nhắc nhở học sinh về lời nói, cử chỉ, hành
động trước, trong và sau khi kéo co xong. Quá trình học sinh tham gia chơi
20
nguon tai.lieu . vn