Xem mẫu

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN “Một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao kỹ thuật và thành tích môn đá   cầu cho học sinh ở trường Tiểu học” 1. Lời giới thiệu: a. Cơ sở lý luận: Trong hệ  thống giáo dục thể chất  ở trường Tiểu học nói riêng và hệ  thống giáo dục thể  chất nói chung. Đá cầu là một môn thể  thao dân tộc,  nằm trong hệ  thống thi đấu các môn thể  thao quốc gia. Đây là một trong  những nội dung, được sử  dụng để  rèn luyện và giáo dục thể  chất cho các   em học sinh cũng như sinh viên trong các trường chuyên nghiệp ở nước ta.  Chính vì vậy môn đá cầu không những đã được các ngành, các cấp   quan tâm, mà còn được Uỷ ban thể dục thể thao đầu tư và định hướng phát   triển cả  về  bề  rộng lẫn chiều sâu. Đặc biệt vừa qua môn đá cầu lần đầu   tiên   được   đưa   vào   là   môn   thể   thao   thi   đấu   như:   SEAGAMES   2003,   SEAGAMES 2005.  Tuy nhiên từ  năm 1986 trở  về  trước đá cầu là một trò chơi dân gian  nhưng từ  1986 trở  lại đây nó mới trở  thành một môn thể  thao. Tuy nó đã  được quan tâm và chú ý đến, nhưng môn thể thao này vẫn chưa đạt tới đỉnh   điểm cao nhất.  b. Cơ sở thực tiễn: Ngày nay nước ta đang trong thời kỳ  công nghiệp hóa hiện đại hóa  đất nước. nền kinh tế đã phát triển nên nhu cầu về văn hóa thể dục thể thao   ngày một nâng cao. Bởi nhờ  có tập luyện thể  thao mà con người nâng cao  sức khỏe. Từ đó con người làm  việc có hiệu quả  hơn góp phần thực hiện  công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Từ những cơ sở trên cho ta thấy rằng đá cầu là môn thể thao, rất quan  trọng và cần thiết. Và để  nâng cao kỹ  thuật và thành tích môn đá cầu cho   1
  2. học sinh ở trường Tiểu học nói riêng và để nâng cao thành tích thi đấu môn  thể thao này nói chung thì mỗi giáo viên cần phải tự mình nghiên cứu và đưa   ra những giải pháp tối ưu cho bài tập của mình. 2. Tên sáng kiến:  "Một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao kỹ thuật và thành tích môn   đá cầu cho học sinh ở trường Tiểu học".  3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Lê Thị Minh ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Chấn Hưng ­ Số điện thoại: 0974521985   E_mail: khongtu1983@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: ­ Họ và tên: Lê Thị Minh  ­ Chức vụ: Giáo viên ­ Địa chỉ: Trường Tiểu học Chấn Hưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh  Phúc 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 5.1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến. Nghiên cứu một số  bài tập bổ  trợ  nhằm nâng cao kỹ  thuật và thành  tích môn đá cầu cho học sinh  ở trường Tiểu học với một mục đích là: Góp  phần nâng cao sức khoẻ, phát triển các tố chất thể lực, đồng thời góp phần   giáo dục phẩm chất đạo đức, ý chí kiên trì, bền bỉ, tinh thần đoàn kết của  học sinh. Và đồng thời nâng cao thành tích thi đấu môn đá cầu cho người   tập nói chung và cho các em học sinh trường Tiểu học nói riêng. Giúp các em học sinh yêu thích môn học, yêu trường, yêu lớp hơn, góp  phần thực hiện mục tiêu năm học 2019 ­ 2020 và xây dựng trường học thân  thiện, học sinh tích cực.  Nội dung nghiên cứu: Đó là 3 bài tập bổ  trợ nhằm nâng cao kỹ  thuật   và thành tích môn đá cầu. 2
  3. a­ Bài tập bổ trợ đá má ngoài. b­ Bài tập bổ trợ đá má trong. c­ Bài tập bổ trợ đá gót trạm mông.           5.2. Vấn đề mà sáng kiến giải quyết.  Để giải quyết đề tài nghiên cứu trên các nhiệm vụ đặt ra bao gồm: + Đánh giá về  thực trạng của học sinh trong trường Tiểu học Chấn   Hưng. + Nghiên cứu, lựa chọn và đánh giá hiệu quả  qua một số  giai phap ̉ ́  phát triển thể lực cho học sinh hình thành kĩ năng, ki xao vân đông. ̃ ̉ ̣ ̣ 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:  ­ Đề tài được nghiên cứu từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 2 năm 2020. ­ Để thực hiện hoàn thành tốt sáng kiến kinh nghiệm tôi xin trình bày  kế hoạch thực hiện đề tài như sau: ­  Đầu tháng 9 năm 2019 nghiên cứu và đăng ký tên đề tài. ­ Vào tháng 10 năm 2019 tìm tài liệu nghiên cứu, tham khảo và liên hệ  thực tế ở điểm trường cũng như ở địa phương nơi công tác giảng dạy. ­ Tháng 11 năm 2019 lập thành đề cương nghiên cứu. ­ Cuối tháng 02 năm 2020, soạn hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm gửi  về trường. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến.  7.1. Cơ sở lý luận khoa học.  Trong quá trình phát triển người nguyên thủy đã sinh tồn và phát triển   nhờ săn bắn, hiệu quả là kích thích con người luyện tập để chạy nhanh hơn,   bền hơn… Thực tế cuộc sống đòi hỏi con người phải rèn luyện để không ngừng  nâng cao kĩ năng vận động của mình. Trải qua nhiều thế  hệ  kinh nghiệm   luyện tập càng phong phú và sinh động, hoàn chỉnh thành môn học TDTT. Từ thế kỷ XIX đến nay các đại hội, thế vận hội Olimpic cứ 4 năm tổ  3
  4. chức 1 lần trong đó   lực lượng vận động viên  ở  lứa tuổi thanh niên ngày  càng chiếm ưu thế. Điều đó nói rằng: Tập luyện TDTT là nhu cầu của tuổi  trẻ, mà còn nói rằng: Khả  năng của con người là vô tận, nếu được chăm  sóc, tổ  chức rèn luyện ngay từ  nhỏ  có phương pháp, có tổ  chức chặt chẽ,  nhất định còn tiến tới những đỉnh cao mới, tiếp tục cải tạo loài người khỏe   mạnh hơn, tươi đẹp hơn.  Sự nghiệp công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá đất nước đã đặt ra cho giáo  dục, là phải đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, phù hợp với những  yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp phát triển kinh tế ­ xã hội.  Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Mục tiêu   tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế  ­ xã hội năm 2001 ­ 2020 là:   "Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống   vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để  đến năm 2020  nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá". Để đạt được mục tiêu trên giáo dục và khoa học công nghệ có vai trò  quyết định. Nhu cầu phát triển giáo dục là rất bức thiết, bên cạnh việc giáo   dục trí tuệ, giáo dục văn, thể, mỹ cho các em học sinh là vấn đề quan trọng  và cần thiết. Ngày nay, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến đời sống vật chất và   tinh thần của nhân dân, quyết tâm xây dựng cho nhân dân cuộc sống văn  minh, hạnh phúc. Hồ  Chí Minh vị  Lãnh tụ  vĩ đại của dân tộc cũng chỉ  ra  rằng: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có những con người mới” Con người đó là con người có tư  tưởng đúng, có tình cảm đẹp, có  phẩm chất đạo đức tri thức khoa học, có thể lực cường tráng và có tinh thần   lành mạnh. Hay nói như Thủ tướng Phạm Văn Khải: “ Đi đôi với giáo dục tri thức   nghề thì phải coi trọng giáo dục nhân cách, hoài bão, lý tưởng và rèn luyện   thể lực đảm bảo những con người phát triển toàn diện, trung thành với chế   độ hết lòng với sự nghiệp phát triển của đất nước”. Mục tiêu của công tác giáo dục hiện nay là: Làm cho việc tập luyện   4
  5. TDTT trở  thành nếp sống hàng ngày của học sinh, sinh viên, qua đó phát  hiện tuyển chọn, bồi dưỡng  các tài năng, góp phần đào tạo thế hệ trẻ phát   triển toàn diện về  nhân cách, trí tuệ  và thể  chất, phục vụ  sự  nghiệp công   nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ( Hà Quang Dự – Nguyên Bộ  trưởng –  Chủ tịch ủy ban TDTT Việt Nam).  Từ  định hướng trên của Đảng và Nhà nước chúng ta thấy hoạt động   giáo dục thể  chất góp phần vào việc đào tạo con người toàn diện phù hợp  với hoàn cảnh thực tế của nước ta. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có  rất nhiều ưu thế thể hiện điểm mạnh đối với sự phát triển thể chất cho học   sinh, đặc biệt là học sinh Tiểu học.  Trong môn đá cầu có rất nhiều bài tập bổ trợ kỹ thuật, chiến thuật để  nâng cao thành tích học tập của học sinh, trong số đó tôi chọn ra 3 bài tập bổ  trợ để nâng cao kỹ thuật và thành tích môn đá cầu đó là: a­ Bài tập bổ trợ đá má ngoài. b­ Bài tập bổ trợ đá má trong. c­ Bài tập bổ trợ đá gót trạm mông.  Để  đề  tài thành công thì một đối tượng không thể  thiếu đó là các em   học sinh ở 5/ 23 lớp mà tôi đang giảng dạy đó là lớp 5A, 5B, 5C, 5D, 5E bao   gồm cả những em học sinh giỏi, khá và trung bình, để phục vụ đề tài thì cơ  sở vật chất như sân tập, trang phục học sinh cũng là những đối tượng không  thể thiếu cho đề tài. Đối tượng nghiên cứu: “Nghiên cứu một số bài tập bổ trợ nhằm nâng   cao kỹ  thuật và thành tích môn đá cầu cho các em học sinh  ở  trường Tiểu   học”. Phương pháp đầu tiên tôi rút ra từ bài học bản thân khi còn là sinh viên   chưa được học môn đá cầu khi đó kỹ  thuật cá nhân của tôi rất kém nhưng  sau khi được học môn học này thành tích và kỹ  thuật của tôi đã được nâng  cao là nhờ có thường xuyên tập 3 bài tập bổ trợ trên. Trong thực tế giảng dạy tôi đã vận dụng 3 bài tập trên để truyền đạt  lại cho các em học sinh ở 5 lớp 5A, 5B, 5C, 5D, 5E. 5
  6. Tôi đã sử  dụng phương pháp thuyết trình để  giới thiệu cho các em  những điểm cơ  bản trên bàn chân và phân tích cho các em những động tác  khi thực hiện bài tập bổ  trợ. Đồng thời tôi còn sử  dụng phương pháp làm  mẫu thị phạm, sử dụng phương pháp chia nhóm để phát huy tính tự giác tích  cực tập luyện cho học sinh , sử dụng phương pháp sửa sai kịp thời cho các   em.  7.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Từ  cơ  sở  lí luận khoa học trên đây thông qua quá trình nghiên cứu  trong các hoạt động môn đá cầu  ở  trường,  ở  địa phương trong những năm   gần đây có thể đánh giá cơ bản như sau:  Hoạt động ngoại khóa trong nhà trường và hoạt động TDTT ngoại  khóa ngoài nhà trường những năm gần đây đã được coi trọng và đi vào thực  tế trong các giờ học và giờ ra chơi. Về cơ sở vật chất: Nhờ có sự kết hợp chặt chẽ nên nhà trường, cùng   địa phương đã huy động tối đa để có được cơ sở tốt cho hoạt động như: sân   cầu lông, sân đá cầu, sân bóng chuyền… a, Thuận lợi: Do bản thân nhiều năm dạy học lớp 5 nên trong quá trình dạy học tôi  đã đúc rút ra được một số kinh nghiệm hữu ích trong dạy học môn thể  dục  lớp 5. Do tất cả  học sinh trong khối 5 đều là học sinh trong xã nên có điều   kiện thuận lợi đi lại, giáo viên thuận tiện trao đổi với học sinh khi vào các   buổi tập luyện. Do là học sinh tiểu học trong độ tuổi 6­11 các em rất ham học hỏi tìm  tòi hiểu biết, rất nỗ lực rèn luyện thân thể trong mọi điều kiện.  b, Khó khăn ­ Kinh phí hoạt động còn ít.  ­ Số lượng học sinh tham gia chưa đồng đều vì nhiều lý do: Thời gian,   điều kiện thực tế của nhà trường, hoàn cảnh gia đình.  6
  7. ­ Cơ sở vật chất thiếu thốn, hệ thống sân chơi, bãi tập chưa thực sự  đảm bảo cho các hoạt động.  ­ Số lượng giáo viên chuyên trách ít, cán bộ giáo viên có kinh nghiệm  và năng khiếu về hoạt động không nhiều.          ­ Do có nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình còn gặp  khó khăn, đa số  phụ  huynh học sinh đi làm ăn xa nên việc quan tâm hướng dẫn các em còn  hạn chế. ­ Do trình độ  học và khả  năng tập luyện của học sinh trong khối 5   không đồng đều nên còn gặp nhiều khó khăn trong việc kèm cặp và hướng   dẫn các em tập luyện. ­ Phần lớn các em là con nhà nông thôn nên còn nhiều hạn chế về thời   gian, ít thời gian hoạt động so với vùng thành phố, thị xã. Hơn nữa còn có sự  quan tâm chưa đầy đủ  từ  phía gia đình của các em tới hoạt động này. Tuy  nhiên các em đang nỗ lực vượt khó, phát huy những  ưu điểm để  luyện tập   cùng sự hướng dẫn của giáo viên bộ  môn, giáo viên chủ  nhiệm lớp và giáo   viên tổng phụ trách công tác đội.  ­ Một nguyên nhân nữa là một số ít học sinh chưa biết đến trò chơi đá  cầu. Hơn nữa đá cầu hiện nay đòi hỏi học sinh phải tập luyện rất nhiều   động tác như: Đá má trong, Đá má ngoài, Đá gót trạm mông, Tâng cầu bằng   đùi, tâng cầu bằng mu bàn chân, chuyền cầu theo nhóm 2 người… Do đó đòi  hỏi học sinh phải tập luyện thường xuyên và liên tục trong thời gian dài mới   có thể tiến bộ. Nhưng thực tế giảng dạy cho thấy nhiều học sinh khối lớp 5   đá cầu không đảm bảo kỹ thuật. Cụ thể đó là các em tung cầu lệnh hướng,   tung quá xa hoặc quá gần, quá cao hoặc quá thấp, một số học sinh đá không   trúng cầu do phán đoán sai điểm cầu rơi, có em còn chạm cầu không đúng  mu bàn chân … mà thực ra các kỹ năng này các em đã được hình thành ở lớp   4. Cho nên ngay từ khi phân công giảng dạy thể dục khối 5, tôi đã tiến hành   khảo sát khả năng đá cầu của học sinh khối lớp 5. Có kết quả như sau: 7
  8. Số học sinh tham  Số học sinh đạt  Nội dung Tỉ lệ % gia khảo sát được kỹ thuật Đá má ngoài 190 45 24% Đá má trong 190 38 20% Đá gót trạm mông 190 55 29% Tâng cầu bằng  đùi 190 40 21% Phát cầu bằng  mu bàn chân 190 57 30% Chuyền cầu theo  nhóm 2 người 190 63 33%           Quan sát học sinh tập luyện đá cầu từng động tác, tôi thấy: +  Bài tập bổ trợ đá má ngoài: Học sinh thường mắc lỗi: ­ Tung cầu không đúng điểm rơi. ­ Di chuyển không đúng hướng cầu rơi hoặc di chuyển chậm. ­ Đưa chân ra quá sớm hoặc quá muộn. ­ Chạm cầu không đúng vào má ngoài bàn chân. + Bài tập bổ trợ đá má trong Học sinh thường mắc lỗi: –  Tung cầu lệch hướng. –  Đưa chân sớm quá hoặc muộn quá. – Di chuyển không đúng hướng cầu rơi hoặc chậm. – Chạm cầu không đúng vào má trong. + Bài tập bổ trợ đá gót trạm mông. Học sinh thường mắc lỗi: – Đưa chân lên đá gót trạm mông chưa đúng kỹ thuật.  – Đưa chân sớm quá hoặc muộn quá.  – Di chuyển không đúng hướng cầu rơi đưa chân lên nhanh quá hoặc  chậm hơn so với cầu.           Từ thực tế trên cho thấy kỹ năng đá cầu của học sinh còn hạn chế. Vì   biết môn thể thao Đá cầu là môn tự  chọn được đưa vào chương trình lớp 5   ở  tuần 28 nên ngay từ đầu năm học giáo viên có kế  hoạch huấn luyện cho   8
  9. học sinh chơi đá cầu. Để  việc tập luyện cho học sinh có hiệu quả  tôi đã  tiến hành tìm hiểu nguyên nhân việc học sinh đá cầu chưa đạt hiệu quả như  mong muốn. Có nhiều nguyên nhân khác nhưng nguyên nhân chủ yếu là: – Nguyên nhân thứ nhất: Một số học sinh cho rằng môn đá cầu không  phải thi nên không cần học. – Nguyên nhân thứ hai: Các em chưa được tập luyện thường xuyên. –  Nguyên nhân thứ  ba: Các em chưa nắm chắc được kỹ  thuật của  từng động tác. Có lẽ những nguyên nhân đó cũng là nguyên nhân chung ở các  trường Tiểu học. Xét cho cùng những nguyên nhân trên phần lớn thuộc về trách nhiệm   của giáo viên. Thực tế cho thấy, nhiều giáo viên thể dục cũng cho rằng thể  dục không phải là môn học chính, đá cầu chỉ  là môn tự  chọn nên không coi  trọng việc tập luyện cho học sinh. Nhiều giáo viên chỉ để cho học sinh tự do   đá cầu mà không chú ý hướng dẫn kỹ thuật đá cầu. Hoặc có những nguyên   nhân khách quan đó là do đội ngũ giáo viên dạy thể  dục còn thiếu về  nhân   sự, yếu về  chuyên môn, chưa tâm huyết với nghề. Như  vậy qua tìm hiểu   nguyên nhân dẫn đến học sinh bị hạn chế về năng lực đá cầu nêu trên, bản  thân tôi rất trăn trở khi mình là một giáo viên trẻ nên trong quá trình công tác,   giảng dạy bộ môn, tôi đã áp dụng một số việc làm cụ thể  sau để góp phần  nâng cao chất lượng môn thể thao tự chọn đá cầu. 7.3. Các giai pháp gi ̉ ải quyết vấn đề. Qua tham khảo các tài liệu chuyên môn khác nhau, qua thực tiễn quá   trình học tập của các em học sinh khối 5 trường Tiểu học Chấn Hưng tôi  đang giảng dạy và một số  trường khác, qua phỏng vấn trực tiếp các giáo   viên chuyên môn kết hợp với đặc điểm tâm sinh lý, cơ  sở  lý luận và cơ  sở  thực tiễn tôi đã lựa chọn hệ thống sau đây. + Xây dựng khái niệm kỹ thuật và đặc điểm bai h ̀ ọc (thông qua phân   tích và làm thị phạm kỹ thuật, xem ảnh kỹ thuật ...) + Thực hiện kỹ thuật đa câu k ́ ̀ ết hợp với các phương tiện bổ trợ. 9
  10. + Thực hiện kỹ thuật không có khẩu lệnh. + Thực hiện kỹ thuật có khẩu lệnh. Để  khắc phục những sai lầm và góp phần nâng cao hiệu quả  trong   quá trình học kĩ thuật đá cầu, tôi đã nghiên cứu và vận dụng đem vào giảng  dạy các bài tập bổ  trợ  phát triển thể  lực với thời gian liên tục từ  tiết thứ  nhất cho đến tiết cuối cùng của chương trình môn tự chon. ̣          Để  giúp học sinh có đủ  thể lực tập luyện nâng cao kĩ thuật động tác   tôi đã thực hiện một số giai phap nh ̉ ́ ư sau: + Giải pháp 1: Tạo hứng thú cho học sinh yêu thích môn thể thao   tự chọn đá cầu. Để nhiều học sinh yêu thích môn thể thao tự chọn này ngoài việc nói  cho học sinh nghe về lợi ích của môn đá cầu, giáo viên nên cho các em theo  dõi qua màn hình một số trận thi đấu về đá cầu ở một số cuộc thi. Giáo viên   nên chọn những học sinh có năng khiếu đá cầu biểu diễn. Khi xem xong,   giáo viên nên phỏng vấn học sinh để biết cảm xúc, sự ham muốn được chơi  của các em. Giáo viên có thể  tặng cho các em một số  quả  cầu tự  làm để  khơi gợi các em sự yêu thích. Để làm được việc này, mỗi giáo viên chúng ta   cần phải có nhận thức đúng đắn về  nghề  nghiệp mình đã chọn: Dạy thể  dục ở Tiểu học giáo viên cần xác định được nhiệm vụ của môn học tự chọn   đá cầu để từ đó có trách nhiệm hơn trong việc giảng dạy. + Giải pháp 2: Tổ chức hướng dẫn tỉ mỉ các kỹ thuật cơ bản cho   học sinh đá cầu. 2.1: Hướng dẫn học sinh cách cầm  cầu: Tay cầm cầu: (cùng với chân đá) cao ngang thắt lưng và cách người  khoảng 0,3m, để cầu trên ngón tay 3 và 4, bàn tay ngửa khum lại để đỡ cầu,  tay không cầm cầu co tự nhiên. 2.2: Hướng dẫn học sinh cách tâng cầu: * Kỹ thuật tâng cầu bằng đùi. Chuẩn bị 2 chân đứng rộng bằng vai, mũi chân thuận đặt sau gót chân  10
  11. trước khoảng 1/2 bàn chân, chạm đất bằng nửa bàn chân, hai đầu gối hơi   khuỵu, hai tay tự nhiên, trọng tâm cơ thể dồn vào chân trước. Tung cầu lên  cao khoảng 0,3 – 0,5m, cách ngực 0,2 – 0,4m, mắt nhìn theo cầu để dự đoán   hướng cầu rơi. Di chuyển về  nơi cầu rơi rồi co gối chân đá lăng nhẹ  và   lướt lên. * Kỹ thuật tâng cầu bằng mu bàn chân: Chuẩn bị 2 chân đứng rộng bằng vai, mũi chân thuận đặt sau gót chân  trước khoảng 1/2 bàn chân, chạm đất bằng nửa bàn chân, hai đầu gối hơi   khuỵu, hai tay tự nhiên, trọng tâm cơ thể dồn vào chân trước. Tung cầu lên  cao khoảng 0,5m, khi cầu rơi xuống, dùng mu bàn chân tâng cầu lên cao   khoảng 0,5m, khi rơi xuống đến mức hợp lí lại tâng cầu lên. Trường hợp  cầu rơi hơi xa vị  trí đứng cần vươn chân ra hoặc di chuyển đến để  tâng   cầu. 2.3. Hướng dẫn học sinh kỹ thuật phát cầu bằng mu bàn chân Chuẩn bị 2 chân đứng rộng bằng vai, mũi chân thuận đặt sau gót chân  trước khoảng 1 bàn chân (xa hơn tâng cầu), chạm đất bằng nửa bàn chân,   hai đầu gối hơi khuỵu, trọng tâm cơ  thể  dồn vào chân trước. Tung cầu lên   cao khoảng 0,5m, khi cầu rơi xuống dùng mu bàn chân đá cầu cho cầu bay  lên cao – ra xa đến phía bạn hoặc qua lưới sang sân đối phương. 2.4. Hướng dẫn  học sinh kỹ  thuật chuyền cầu bằng bàn chân   (chuyền cầu theo nhóm). Tư thế chuẩn bị 2 chân rộng bằng vai, chân trước chân sau cách nhau   1/2 bàn chân, mắt nhìn theo cầu. Khi bạn chuyền cầu sang cách người 0,5m   bên phải, chân thuận đá lăng từ  dưới lên trên và tiếp xúc với cầu, kết thúc  chân thuận tiếp đất sẽ chuẩn bị các kỹ thuật khác (bên trái thì ngược lại).  2.5. Hướng dẫn học sinh kỹ  thuật bổ  trợ   đá cầu bằng đá má  ngoài. Tư thế chuẩn bị 2 chân rộng bằng vai, tay phải cầu cầu khi tung cầu   lên cao khoảng 0,5m, cầu rơi xuống, dùng má ngoài bàn chân tâng cầu lên  11
  12. cao khoảng 0,5m, khi rơi xuống đến mức hợp lí lại tâng cầu lên. Trường   hợp cầu rơi hơi xa vị trí đứng cần vươn chân ra hoặc di chuyển đến để tâng  cầu.  2.6. Hướng dẫn học sinh kỹ  thuật bổ  trợ   đá cầu bằng đá má  trong. Tư thế chuẩn bị 2 chân rộng bằng vai, tay phải cầu cầu khi tung cầu   lên cao khoảng 0,5m, cầu rơi xuống, dùng má trong bàn chân tâng cầu lên  cao khoảng 0,5m, khi rơi xuống đến mức hợp lí lại tâng cầu lên. Trường   hợp cầu rơi hơi xa vị trí đứng cần vươn chân ra hoặc di chuyển đến để tâng  cầu. 2.7. Hướng dẫn học sinh kỹ  thuật bổ  trợ   đá cầu đá gót trạm  mông. Tư thế chuẩn bị hai chân rộng bằng vai, tay phải cầu cầu khi tung cầu  lên cao khoảng 0,5m, cầu rơi xuống, dùng má ngoài bàn chân đá lên gần   trạm  mông sau đó đá cầu lên cao khoảng 0,5m, khi rơi xuống đến mức hợp  lí lại tâng cầu lên. Trường hợp cầu rơi hơi xa vị trí đứng cần vươn chân ra  hoặc di chuyển đến để tâng cầu.  + Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh các kỹ thuật nâng cao để học  sinh phát triển năng khiếu cá nhân. 3.1. Kỹ thuật chắn cầu bằng ngực. Tư  thế  chuẩn bị  giống như  phát cầu, quan sát thấy cầu bay tới cách   ngực khoảng 0,3 – 0,5cm, cần nhanh chóng chuyển trọng tâm về  chân sau,   thân người hơi ngả  phía sau, hơi xoay sang một bên, hay tay thả  lỏng tự  nhiên. Khi cầu cách ngực 10 cm thì đạp mạnh chân sau, hất nhẹ  ngực đưa   thân trên chuyển động ra trước để phần trước ngực tiếp xúc với cầu sao cho  quả cầu bật ra về phía chân đá cách người khoảng 0,3 – 0,5m, thông thường  nếu chân đá là chân phải thì tiếp xúc với cầu ở phần ngực trái và ngược lại,   kết thúc chuyển trọng tâm về trước, nhanh chóng xử lý thăng bằng. 3.3. Kỹ thuật đánh đầu. 12
  13. Học sinh chuẩn bị đứng tự nhiên như khi chuẩn bị đỡ đùi, khi cầu bay   cao 2m cách đầu 0,5m, dùng sức cả 2 chân bật lên cao, thân người ưỡn cong  hình cánh cung, hai tay đưa sang hai bên để  giữ  thăng bằng, mắt quan sát   cầu. Sau đó gập nhanh đầu xuống chạm cầu, cầu tiếp xúc với trán sẽ  bay  đi. Có thể lắc sang phải hay trái gây khó khăn cho đối phương thì 2 chân tiếp  đất nhanh chóng quay mặt quan sát đường cầu đối phương. 3.4. Kỹ thuật móc cầu bằng mu bàn chân. Chân đá đặt phía sau, trọng tâm để  cơ  thể  dồn vào 2 chân, tay thả  lỏng, mắt quan sát đồng đội nhận cầu của đồng đội, người móc cầu tâng   lần một sau đó chuyển trọng tâm cơ  thể  sang mũi bàn chân trước, kết hợp  kiễng chân trụ, ngả  người ra phía sau, lăng chân thuận ra trước lên cao về  phía có cầu, cổ  chân thả  lỏng, khi tiếp xúc cầu bàn chân gập nhanh, móc  cầu sang  đối phương, khi hai chân tiếp đất   học sinh nhanh chóng xoay  người lại. + Giải pháp 4: Sử dụng hệ thống bài tập luyện. Khi  tôi đã củng cố  được kĩ năng đá cầu và  cung cấp kĩ thuật đá cầu   như  trên, nếu học sinh còn mắc những sai lầm trong từng kĩ thuật, tùy từng  lỗi học sinh mắc phải, giáo viên có thể  áp dụng biện pháp khắc phục với   những bài tập sau: Bài   tập   1:   Đối   với   những  em   học   sinh   sai   về   mặt   di  chuyển   (di   chuyển không đúng hướng cầu rơi hoặc di chuyển chậm) thì giáo viên nên  cho học sinh tập các động tác bổ  trợ  để  tăng độ  linh hoạt của khớp hông,  gối như: – Xoạc ngang, dọc. – Chạy nhẹ kết hợp với đá má trong, má ngoài, đá gót trạm mông. – Đá lăn chân theo chiều ngang, dọc. –   Tập   các   bài   tập   chuyển   vị   trí   kết   hợp   với   xoay   người,   chuyển   hướng. Bài tập 2: Với những học sinh không dự  đoán được điểm rơi của  13
  14. cầu, tốc độ  bay của cầu, giáo viên nên phân tích cho học sinh tầm quan   trọng chú ý theo điểm rơi của cầu, phân tích tầm quan trọng tốc độ bay của  cầu. Giáo viên nên cho học sinh tập: – Tập tung cầu, đúng động tác. – Tự tung bắt cầu. – Tập co chân và hướng mu bàn chân tâng cầu lên cao không cầu và có  cầu. – Tập đón cầu do người khác tung cho. – Treo cầu ở độ cao nhất định và tập đá cầu. + Giải pháp 5: Tăng cường bồi dưỡng kiến thức cho bản than. – Giáo viên cần phải thường xuyên tăng cường học tập, bồi dưỡng  nghiệp   vụ   chuyên   môn   qua   sách   vở,   qua   truyền   hình,   học   tập   ở   đồng   nghiệp. – Thường xuyên rèn luyện thể  dục để  có thể  thị  phạm tốt các kỹ  thuật, động tác đá cầu. – Ngoài những kĩ thuật cơ  bản trên, để  nâng cao chất lượng đá cầu  cho học sinh giáo viên cần quan tâm từ  những học sinh có năng khiếu đá   cầu. Đó là cung cấp cho học sinh những kĩ năng đá cầu như chắn cầu bằng  ngực, đánh cầu bằng đùi, móc cầu bằng mu bàn chân … (như giải pháp 3). + Thường xuyên tổ chức cho học sinh đá cầu trong các hoạt động ngoại   khóa. + Giải pháp 6 đối với môn đá cầu. Việc tổ  chức hoạt động tập luyện, thi đấu môn đá cầu là nội dung   góp phần làm phong phú sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh, tận   dụng được thời gian nhàn rỗi, hướng các em vào hoạt động bổ  ích lành   mạnh, hạn chế hoạt động tự phát được thể hiện cụ thể như sau:  a­   Các   hoạt   động   tập   luyện,   thi   đấu   môn   đá   cầu   ở   trong   nhà   trường. Hình thức này cần chú ý thông qua các hoạt động:  14
  15. + Đá cầu trong chế  độ  sinh hoạt của học sinh trong nhà trường vào  thời gian giải lao giữa tiết học.  + Đá cầu là hình thức tự  nguyện để  lôi cuốn học sinh tham gia, tập   luyện trong các ngày như: Hội khỏe Phù Đổng, giao lưu TDTT… Tập luyện   trong các buổi chuẩn bị cho thi đấu, trình diễn các môn thể thao trên địa dư  nhà trường theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.  b­ Các hoạt động tập luyện, thi đấu môn đá cầu. Đây là hình thức hoạt động khá phong phú. + Thể dục buổi sáng ở nhà. + Học bài thể dục do giáo viên cho về nhà. + Thi đấu đá cầu ở ngoài nhà trường.  + Đá cầu trong các nhóm hoạt động hè.  Về căn bản các hoạt động ngoại khóa còn có ưu điểm sau:  ­ Học sinh tham gia tự nguyện tự giác, có thể lựa chọn theo khả năng   và hứng thú để tham gia vào các hoạt động TDTT nói trên.  ­ Tận dụng được thời gian hợp lí không ảnh hưởng đến quá trình lao   động và học tập.  ­ Đảm bảo yêu cầu phát triển trí tuệ, tâm lý, tình cảm, hành vi và thể  chất học sinh.  ­ Thu hút nhiều người tham gia và cổ vũ cho người tham gia được mọi   điều kiện của nhà trường.  Đối với các em học sinh việc tổ chức đá cầu lành mạnh sẽ giúp các e   có động lực trong học tập và trong rèn luyện thân thể. Đây là những môn  chơi mang tính tập thể, các em có thể kết hợp “ Học mà chơi, chơi mà học”.  Đặc biệt hơn việc đưa môn đá cầu vào trường học đã đem lại hiệu  quả  rất cao trong việc giáo dục đức tính của học sinh, giúp học sinh phát   triển nhân cách toàn diện và đúng đắn.  Để  có thành tích tốt trong môn đá cầu người tập cần phải nắm bắt  được kỹ thuật. Muốn có kỹ thuật thì người tập phải tập luyện để tập luyện  đạt kết quả  cao thì đòi hỏi phải có những bài tập bổ  trợ. Giúp người tập   15
  16. hình thành được kỹ thuật. Vì vậy, để nâng cao thành tích và kỹ thuật cho người tập thì một yếu   tố rất quan trọng không thể thiếu đó là: "Các bài tập bổ trợ". Chính vì vậy  mà tôi đưa ra đề  tài: "Một số  bài tập bổ  trợ  nhằm nâng cao kỹ  thuật và   thành tích môn đá cầu cho học sinh Tiểu học" để nghiên cứu. * Nghiên cứu  đặc điểm sinh lý và tác dụng của TDTT. Xét về  mặt khoa học qua nhiều công trình nghiên cứu cho thấy hoạt  động TDTT là biện pháp rất hiệu quả để phát triển thể lực và hoàn thiện kĩ   năng vận động. Mỗi nội dung đều có tác dụng khác nhau đến việc rèn luyện  cơ thể. Dưới đây là những đặc điểm sinh lý và tác dụng của môn TDTT.  a.1­ Hệ vận động. Tập luyện thể  dục có tác dụng phát triển cơ  bắp, sức mạnh và tính  linh hoạt của thần kinh vận động. Ngoài ra các hoạt động thể  dục có  ảnh   hưởng rất tốt tới sự phát triển các tố chất khác như: Sức nhanh, sức mạnh,   sức bền, khéo léo, mềm dẻo… a.2­ Hệ thần kinh. Tập luyện thể dục có tác dụng rèn luyện các quá trình thần kinh, tăng   cường phối hợp các hoạt động khả  năng điều kiện và thả  lỏng đúng lúc…  nhằm đáp ứng thực hiện kĩ thuật động tác trong bài tập liên hoàn.  a.3­ Các cơ quan phân tích. Tập luyện thể dục phức tạp có tác dụng rèn luyện các cơ  quan phân  tích, cơ  quan thẩm định, phân tích vận động, xúc giác, cảm giác về  không   gian, thời gian, mức độ dừng của cơ. a.4­ Các chức năng thực vật. Tập luyện để  hoàn thiện các chức năng vận động có khả  năng phản   ứng với kích thích của các cơ quan đối với yêu cầu của môn học.  + Tiêu hao năng lượng.  + Hô hấp và tuần hoàn.  a.5­ Rèn luyện đạo đức, ý chí, phẩm chất. 16
  17. Thông qua việc tập luyện, người tập sẽ rèn luyện được tính can đảm,  ý chí vượt khó, mạnh dạn và tinh thần đoàn kết tập thể.  b­ Giá trị tác động của các môn học. Đối với lứa tuổi học sinh thông qua việc chọn chính xác môn học sẽ  có tác dụng củng cố sức khỏe, nâng cao tính tích cực, tự giác, say mê luyện  tập để cơ thể khỏe khoắn và dẻo dai. Mỗi môn học sẽ có tác dụng tới từng  bộ  phận và có năng lực thể  chất do đó sự  lựa chọn môn học thích hợp với  lứa tuổi sẽ có tác dụng tốt tới các bộ phận trên cơ  thể. ở lứa tuổi này thích  hợp với các môn: bóng đá, bóng ném, chạy, nhảy, bóng bàn, cầu lông, đá  cầu… Trong quá trình dạy học tôi đã đưa 3 bài tập bổ  trợ  trên vào giờ  học   chính khoá của phần đá cầu cho 5 lớp 5A, 5B, 5C, 5D, 5E  thực hiện. Sau   khi khởi động chung xong tôi cho các em tập 3 bài tập bổ trợ:  a­ Bài tập bổ trợ đá má ngoài. b­ Bài tập bổ trợ đá má trong c­ Bài tập bổ trợ đá gót trạm mông.  Mỗi bài tập 4 lần 8 nhịp và chia lớp thành 2 nhóm nam riêng, nữ riêng.  Mỗi nhóm cử ra 1 tổ trưởng điều khiển. Tôi thường xuyên kiểm tra bài cũ bằng 3 bài tập bổ  trợ  trên. Sau khi   kiểm tra xong tôi đánh giá và sửa sai chung cho cả lớp.  Sau mỗi giờ học, giờ ra chơi tôi tổ chức cho các em tự tập truyền cầu  bằng mu bàn chân, má bàn chân. Và tổ chức cho các em thi đấu một cách sôi   nổi và hào hứng. Tôi còn đưa cả  3 bài tập trên vào các buổi tập luyện đội   tuyển đi thi đấu.  7.3. Kiến nghị và đề xuất.           Qua quá trình giảng dạy và nghiên cứu đề tài tôi xin đề xuất một vài ý  kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn thể dục cho học sinh trường   tiểu học Chấn Hưng như sau:          + Đối với nhà trường : Nhà trường cần kết hợp với phụ huynh quan   17
  18. tâm chặt chẽ  tới việc học tập và tập luyện của các em học sinh, cung cấp  thêm trang thiết bị  thiết yếu để  phục vụ  cho việc tập luyện của các em  được hiệu quả cao.         + Đối với giáo viên :  Giáo viên phải có lòng nhiệt huyết, yêu nghề, yêu   trẻ, sáng tạo trong việc giảng dạy. Thường xuyên trau rồi kiến thức chuyên   môn. Chuẩn bị  giáo án trước khi lên lớp. Biết giáo dục trẻ  yêu thích môn   học thể dục và luôn tạo ra các trò chơi để thu hút các em vào môn học.       + Đối với Phòng giáo dục nên thường xuyên tổ chức các cuộc thi để các   em học sinh có năng khiếu được thể hiện, và phát triển năng lực các tố chất  của các em.        Trên đây là một số các phương pháp bổ trợ cho học sinh học đá cầu mà  tôi đã đúc rút được trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu vào thực tế  và  cũng đã có những kết quả  thành công   nhất định. Xong không tránh khỏi  những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng khoa học,  quý thầy cô, để tôi có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng   cao trình độ chuyên môn của mình và góp phần vào chất lượng giáo dục học  sinh toàn diện. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. 9.1. Đối với nhà trường và cán bộ quản lý. + Tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất phòng học môn thể dục và đồ  dùng dạy học cho giáo viên và học sinh. + Tăng cường dự giờ và thăm lớp để  xem xét sự  tiến bộ  của các em  học sinh. + Tích cực vận dụng các phương tiện dạy học hiện đại vào giảng   dạy để tạo hứng thú tập luyện cho học sinh. + Quán triệt việc thực hiện năm học của PGD $ ĐT. Cập nhật thường   xuyên kịp thời các văn bản chỉ  đạo của cấp trên về  công tác giảng dạy và   bồi dưỡng học sinh năng khiếu để  tham gia các cuộc thi có hiệu quả  do  18
  19. phòng giáo dục và sở giáo dục tổ chức. + Mỗi năm nhà trường phải mua sắm, nâng cấp thêm một số  thiết bị  dụng cụ để phục vụ cho việc tập luyện của các em. + Tiến tới xây dựng nhà tập đa năng cho các em để bảo đảm khi thời   tiết không thuận lợi. 9.2. Đối với giáo viên.  + Giáo viên cần đưa ra 3 bài tập bổ trợ này vào dạy đại trà các lớp từ  lớp 1 đến lớp 5 nên người giáo viên cần phải có sự chuẩn bị công phu, phải  có kế hoạch cụ thể cho từng lớp. Khi giảng dạy việc sắp xếp v ị trí của các   bài tập vào từng thời điểm, của một tiết học sao cho phù hợp và phải phát   huy được tính tự giác tích cực tập luyện của học sinh. Người giáo viên vừa   có vai trò là chủ đạo, vừa có vai trò là người tập để  tập cùng học sinh. Tôi  hy vọng 3 bài tập trên sẽ  được đưa vào các lớp học để  các em tập luyện   một cách hiệu quả nhất.          + Người giáo viên cần tạo cho học sinh có sự ham thích, say mê hứng  thú vào các bài tập bổ trợ vận động. Qua tiết học giúp các em hiểu được lợi   ích, tác dụng của việc tập luyện thể  dục để  áp dung vào th ̣ ực tế. Trong   cuộc sống hàng ngày rèn luyện cho các em có sức khoẻ  deo dai, tinh th ̉ ần   minh mẫn, tạo cho các em có đức tính tốt như: khiêm tốn, thật thà, dũng  cảm, trung thực và tự giác ngày càng được hoàn thiện hơn. + Giáo viên cần chuẩn bị  tốt, thật đầy đủ  và chu đáo về  sân bãi, đồ  dùng dạy học: giáo viên phải có còi, tranh ảnh trực quan, đồ dùng tự làm… + Phải lao động thực sự, tâm huyết với nghề nghiệp, say mê bộ môn. + Phải nghiên cứu kỹ nội dung các bài và các bài tập bổ  trợ phù hợp   với lứa tuổi và lượng vận động trong 1 tiết đối với HS. + Dự kiến mở rộng các BT cao hơn đối với các em có năng khiếu thực sự. + Dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu các bài tập. + Sắp xếp các  bài tập khoa học theo đúng quy trình từ đơn giản đến phức   tạp. 19
  20. + Cần có sự tham gia góp ý, hỗ trợ của các đồng nghiệp và nhóm bộ môn.           9.3. Đối với học sinh. + Phải luyện tập đúng theo hướng dẫn và nội dung các bài tập một   cách khoa học và đảm bảo an toàn trong luyện tập. + Sau khi được giáo viên hướng dẫn các bài tập trên lớp các em có thể  về nhà tự luyện tập vào các buổi chiều sau giờ tan học. + Mỗi em đều phải có đầy đủ dụng cụ học tập khi học bài. + Chuẩn bị  một tiết học xây dựng một khái niệm tập luyện đối với  từng đối tượng học sinh khi được giao nhiệm vụ cụ thể. Hội đồng tự quản   của lớp giúp giáo viên kiểm tra đôn đốc sự chuẩn bị của mọi thành viên để  báo cáo thành tích khi tập luyện của các bạn đến giáo viên. + Mỗi em cần tự tạo cho mình một nguyên tắc và thói quen tập luyện   nghiêm túc để đạt hiệu quả cao.           10. Kết quả thu được sau khi áp dụng sáng kiến.     10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến   của bản thân tôi  Sau khi nghiên cứu và đưa vào tập luyện 3 bài tập bổ trợ trên tôi thấy   nó đã đem lại kết quả rất cao:  Giúp cho 100% học sinh biết tâng cầu bằng má trong, má ngoài bàn  chân và khả năng phòng thủ cầu bằng đùi của các em rất tốt.  Và đồng thời giúp các em tăng khả  năng linh hoạt của chân, các em   linh động hơn trong khi thi đấu, giúp các em yêu thích môn đá cầu hơn và đã  đạt kết quả cao trong 2 vòng thi đấu cấp huyện và cấp tỉnh môn đá cầu. Khi  chưa học môn đá cầu thì các em học sinh chơi cầu, tập cầu theo thái độ  tự  phát, nhưng sau khi được học môn đá cầu và học 3 bài tập bổ trợ, từ đó các  em yêu thích môn đá cầu hơn, chơi cầu giỏi hơn, yêu trường, yêu lớp hơn.   Những giờ ra chơi các em chơi cầu như là một trò chơi giải trí. Từ  đó giúp  các em đoàn kết hơn. Qua đây ta thấy việc nghiên cứu 3 bài tập trên đã góp phần thực hiện   20
nguon tai.lieu . vn