Xem mẫu
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC TRONG DẠY HỌC
NGỮ VĂN LỚP 10 - TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LĨNH VỰC : PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
THUỘC MÔN: NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2021
1
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC TRONG DẠY HỌC
NGỮ VĂN LỚP 10 - TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LĨNH VỰC : PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
THUỘC MÔN: NGỮ VĂN
TÁC GIẢ: NGUYỄN TRỌNG HÒA
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG THPT TÂN KỲ
ĐIỆN THOẠI: 0942066567
NGHỆ AN - 2021
2
- MỤC LỤC
MỤC LỤC Trang
Phần I. Đặt vấn đề.............................................................................................. 1
Phần II. Nội dung nghiên cứu............................................................................. 3
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng kĩ năng tự học phương
pháp hướng dẫn học sinh tự học ở môn Ngữ Văn lớp 10 – THPT..................... 3
1.1. Cơ sở lí luận …………………………………………………………....… 3
1.2. Hiện trạng hướng dẫn học sinh phương pháp tự học ở môn Ngữ văn chương
trình THPT lớp 10...................................................................................................5
Chương II: Biện pháp hướng dẫn học sinh vận dụng phương pháp tự học ở môn
Ngữ văn lớp 10 - THPT. ……………………………………………..…...........10
2.1. Yêu cầu của việc vận dụng phương pháp tự học ở môn Ngữ văn lớp 10
THPT......10
2.2 Hình thành và vận dụng phương pháp tự học Ngữ văn cho học sinh trong quá
trình dạy học ở trường phổ thông trung học.…………................................14
2.3 Các biện pháp hướng dẫn học vận dụng phương pháp tự học ở môn Ngữ văn
THPT……………………………………....................................................16
2.4. Ý nghĩa của việc hình thành và phát triển phương pháp tự học Ngữ văn cho
học sinh trong quá trình dạy học ở trường phổ thông.……….......................... 25
2.5. Vận dụng thiết kế một giáo án về sử dụng phương pháp tự học trong môn
Ngữ văn - Lớp 10 THPT.……………………………………............................26
Chương III: Thực nghiệm sư phạm.....................................................................36
3.1. Mục đích của thực nghiệm.......................................................................... 36
3.2. Phương pháp thực nghiệm.……………………………………….............. 36
3.3. Nội dung thực nghiệm.……………………………………………............ 36
3.4. Tổ chức thực nghiệm................................................................................... 36
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm .................................................................... 37
3.6. Kết quả thực nghiệm .................................................................................. 37
Kết luận và kiến nghị ........................................................................................ 39
3
- DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PPDH Phương pháp dạy học
THPT Trung học phổ thông
KTDH Kĩ thuật dạy học
GV Giáo viên
HS Học sinh
QĐDH Quan điểm dạy học
LLDH Lí luận dạy học
SGK Sách giáo khoa
CTTHPT 2018 Chương trình trung học phổ thông
2018
4
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại mà khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng như hiện
nay, các nhà trường dù đã cố gằng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng
vẫn chưa đáp ứng hết nhu cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng
cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho HS là một công
việc có vị trí vô cùng quan trọng trong dạy học hiện nay. Chỉ có tự học, tự bồi đắp
tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi HS mới có thể bổ
sung được những thiếu khuyết về tri thức khoa học về đời sống xã hội. Từ đó HS
mới có được sự tự tin trong học tập, cuộc sống, công việc.
Vấn đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm
quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ:
“ Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng
tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát
triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong
toàn dân”.
Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu
chốt có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo của
đất nước. Đối với môn Ngữ Văn ở nhà trường phổ thông thì mục tiêu không chỉ
là cung cấp tri thức một cách có hệ thống mà quan trọng hơn là hình thành cho
người học những năng lực cần thiết để vận dụng vào giải quyết các vấn đề thực
tiễn cuộc sống. Mục tiêu của môn Ngữ Văn – THPT là trang bị cho học sinh
những kiến thức phổ thông, cơ bản, cần thiết. Ngoài ra còn góp phần bồi dưỡng
cho học sinh ý thức kĩ năng giải quyết các tình huống có thực trong thực tiễn, nâng
cao chất lượng cuộc sống nên việc đổi mới phương pháp dạy học là thực sự cần
thiết.
Trong những năm gần đây dạy học Ngữ Văn ở nhà trường phổ thông đã có nhiều
đổi mới cả về nội dung và phương pháp dạy học. Tuy nhiên chất lượng dạy và học
vẫn còn chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu là do GV vẫn chưa biết cách vận dụng hiệu
quả các PPDH tích cực vào trong quá trình dạy học, hoặc nếu có vẫn mang tính hình
thức. Để nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ Văn lớp 10 – THPT, mỗi GV cần vận
dụng linh hoạt các PPDH tích cực.
Đồng thời trong chương trình GDPT theo định hướng phát triển năng lực và phẩm
áp dụng sau năm 2020 hướng tới 5 phẩm chất: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung
thực, trách nhiệm và hình thành phát triển những năng lực cốt lõi: Năng lực tự chủ và
tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Xuất
phát từ yêu cầu đổi mới dạy học, đạt mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông
áp dụng sau năm 2020 và từ thực trạng của bộ môn Ngữ Văn bậc THPT tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu "Vận dụng phương pháp tự học môn Ngữ văn
lớp 10- THPT" để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
5
- 2. Những tính mới, đóng góp mới của đề tài
Hiện nay, xây dựng và tổ chức các hình thức dạy học theo định hướng hình
thành và phát triển năng lực trong môn ngữ văn đã được thực hiện, tuy nhiên đa số
giáo viên còn lúng túng, mang tính thời điểm, thiếu kinh nghiệm trong việc áp
dụng và thực hiện. Trong đó qua khảo sát thực tế nhiều giáo viên và học sinh vẫn
còn mang tính hình thức khi vận dụng phương pháp tự học trong quá trình dạy và
học bộ môn Ngữ văn ở bậc THPT.
Đề tài đã nghiên cứu về thực trạng vận dụng phương pháp tự học trong bộ
môn Ngữ Văn hiện nay ở trường THPT trên địa bàn huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.
Từ đó, đưa ra các giải pháp vận dụng phương pháp tự học trong dạy học , thiết kế
các hình thức dạy học bằng phương pháp tự học trong dạy học bộ môn Ngữ Văn
lớp 10 bậc THPT theo định hướng hình thành và phát triển năng lực học sinh một
cách cụ thể. Mặt khác, thông qua tổ chức dạy học theo định hướng mới thông qua
phương pháp tự học làm cho học sinh yêu thích học bộ môn Ngữ Văn hơn.
Thông qua thiết kế và soạn giảng bài Cảnh ngày hè - Ngữ Văn 10 bậc
THPT theo định hướng mới, để hướng tới các mục tiêu: chiếm lĩnh nội dung kiến
thức khoa học, hiểu biết tiến trình khoa học và rèn luyện các kĩ năng tiến trình
khoa học như: quan sát, thu thập thông tin, dữ liệu; xử lý (so sánh, sắp xếp, phân
loại, liên hệ…thông tin); suy luận, áp dụng thực tiễn nhằm hướng tới việc hình
thành và phát triển năng lực cho học sinh thông qua rèn luyện kĩ năng phương
pháp tự học cho học sinh.Việc vận dụng phương pháp tự học vào dạy học Ngữ
Văn có thể xem một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ một
trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động
sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.
Đề tài cũng đáp ứng được yêu cầu đổi mới toàn diện và đồng bộ trong phương
pháp dạy học và định hướng phát triển phẩm chất năng lực của học sinh, xác định
rõ những yêu cầu cơ bản của phương pháp tự học như: nội dung phương pháp tự
học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để
áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự
học tích cực tương ứng.
Mặt khác, đề tài sáng kiến đáp ứng được một trong những mục tiêu của
đổi mới căn bản, toàn diện về GD&ĐT hiện đại mà trong Nghị quyết số 29 của Hội
nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ ra. Qua đề tài
nghiên cứu nhằm giúp người dạy và người học tiếp cận với xu thế dạy học trong
chương trình giáo dục THPT mới áp dụng sau năm 2020, đó là phát triển con
người mới có năng lực và phẩm chất đáp ứng sự phát triển của xã hội.
6
- PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP HƯỠNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC Ở MÔN NGỮ VĂN
LỚP 10 – THPT
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm tự học và phương pháp tự học
- Khái niệm tự học
Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho HS,SV trong các nhà trường
trung học phổ thông, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt
động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các
phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó
hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của
chính bản thân người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về
khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức
kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình
vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn
đề, thử nghiệm các giải pháp… Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào
tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ và
lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế
hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện
cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học luôn đi
cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của
mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả thông qua các
hoạt động tự thân ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn thiện thì mỗi học sinh phải tự
thân tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn luyện các kĩ năng; Tự thân bồi
dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc.
- Phương pháp hưỡng dẫn học sinh tự học.
Một phương pháp dạy học có hiệu quả trong việc hình thành năng lực của
học sinh là chú ý đến rèn luyện năng lực tự học.
Hoạt động tự học của học sinh thường diễn qua hai giai đoạn chủ yếu: Giai
đoạn học sinh tự lĩnh hội kiến thức ở trên lớp dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo
viên: Giai đoạn này, giáo viên tránh để học sinh ngồi nghe giảng thụ động hoặc ghi
nhớ máy móc mà cần thiết phải huy động học sinh khám phá tri thức. Học sinh
phải được làm việc dưới sự dẫn dắt của giáo viên, giáo viên khuyến khích các em
7
- tích cực phát biểu xây dựng bài bằng phương pháp tích cực như: Tranh luận, nêu
vấn đề, đóng vai, sử dụng các câu hỏi công não, động não, làm việc nhóm…(chú ý
đến cả lớp, tránh tập trung một số học sinh), hướng dẫn học sinh ghi chép một
cách khoa học, ghi ý chính theo sơ đồ tư duy, theo cách sáng tạo của riêng mình;
Giai đoạn học sinh tự củng cố kiến thức và thực hành bài tập ở nhà không có sự
kiểm soát trực tiếp của giáo viên. Gắn liền với nhiệm vụ cơ bản: học bài, củng cố
kiến thức kết hợp làm bài tập và chuẩn bị tiếp thu bài học mới sắp học. Giáo viên
cần chú ý giao nhiệm vụ, bài tập về nhà cụ thể vận dụng các bài tập trong dạy học
nêu vấn đề kết nối giữa các bài học với nhau, có kiểm tra thường xuyên, liên tục để
có sự điều chỉnh kịp thời.
Ngoài ra giáo viên cũng cần chú ý vận dụng hướng dẫn tự học phù với với
kiểu học của học sinh, phù hợp với tình hình thực tế từng lớp học. Giáo viên cần
tìm hiểu và ứng dụng lý thuyết về các kiểu học của học sinh để có sự lựa chọn
phương pháp dạy và hướng dẫn học sinh cách học, cách ôn tập kiến thức phù hợp
với kiểu học. …
1.1.2. Vị trí vai trò của phương pháp tự học
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học.
Trong quá trình hoạt động dạy học GV không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những
tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu HS ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng,
tổ chức cho HS tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới của các vấn đề
khoa học. Giúp HS không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến
những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định
rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới phương pháp dạy
học thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và
nghiên cứu khoa học. Muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu thì
phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống, khoa học
đặt ra. Đây cũng là một yêu cầu quan trong trong CTGDPT mới 2018.
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh
mẽ cho quá trình học tập.
Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ
động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Và một trong những nhiệm vụ quan trọng của
giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới
mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị
trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình
thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách
thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự
gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức
thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú
trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi
8
- nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con
người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự
giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng
định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với
mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân
sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với
những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức
to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương
pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ
tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Bởi vậy, để phát huy hiệu quả phương pháp tự học, tài đề tại này chúng tôi
góp phần làm rõ các biện pháp, cách thức vận dụng phương pháp tự học môn Ngữ
Văn lớp 10 THPT.
1.2. Hiện trạng hướng dẫn học sinh phương pháp tự học ở môn Ngữ văn
chương trình THPT lớp 10.
1.2.1. Hiện trạng hướng dẫn học sinh phương pháp tự học ở môn Ngữ Văn
chương trình THPT Lớp 10
Để hiểu rõ việc tự học cho học sinh nói chung và tự học môn Ngữ Văn 10 –
THPT nói riêng, một cuộc khảo sát đã được diễn ra (thời gian 09/2019 – 2/2020).
Nội dung cuộc khảo sát tập chung vào nhận thức của giáo viên về bản chất, vai
trò, ý nghĩa của tự học; hệ thống các kĩ năng tự học cần hình thành và phát triển
cho học sinh trong quá trình học bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông, các yếu tố
ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển kĩ năng tự học, mức độ tự học
môn Ngữ văn và cách học của học sinh.
Về phương pháp, hai mẫu phiếu điều tra đã được xây dựng (dành cho giáo viên
và học sinh) rồi gửi về một số trường phổ thông, kết quả thu được 158 phiếu giáo
viên và 980 phiếu học sinh. Ngoài ra việc phỏng vấn trực tiếp giáo viên, học sinh
về các vấn đề liên quan đến tự học và dự giờ, thăm lớp cũng được tiến hành. Đồng
thời tập hợp các nguồn tin tức thời sự qua báo chí, các phương tiện thông tin đại
chúng để có sự đánh giá chính xác hơn về thực trạng dạy học và phát triển kĩ năng
tự học cho học sinh. Bản chất của tự học là vấn đề quan trọng, tuy nhiên nhận thức
về nội dung này nhiều HS và ngay cả giáo viên vẫn còn mơ hồ, hiểu một cách
phiến diện. Sau đây là biểu đồ khảo sát thực tế.
9
- BIỂU
BI?B?
BI? U Ð? ĐỒ
U Ð? BẢN
N CH? CHẤT
B? N T
CH? TỰ C
T?T H?
T? HỌC
H? CỦA
C C?
C? HỌC
A H?
A H? SINH
CCSINH
SINH
6,90% 6,90%
24,00% 24,00% Quá
Quá trìnhhọc
trình
Quá h?ctích
h?c tíchcực
tích c? c,chủ
c? c, ch?
ch?
d?ng
động
d?ng
Quá
Quá trình
Quá t?t?học
trìnhtự
trình h?c ?? nhà
h?ctại nhà
nhà
68,90% 68,90%
Tựmình
T? mìnhtìm
tìmrara kiến th?
thức
T? mình tìm raki?n
ki?n th? cc
Tự mình tìm ra hi
Khi được hỏi về bản chất của tự học của học sinh, khảo sát ý kiến của giáo viên,
cụ thể: Số phiếu phát ra là 158 phiếu đã thu được kết quả như sau:
- 68,9% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: Tự học của học sinh là quá
trình học sinh tích cực, chủ động, độc lập nhận thức dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
- 24% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: Tự học của học sinh là quá
trình học sinh tự học tập ở nhà để bổ sung cho kiến thức trên lớp.
- 6,9% giáo viên tham gia cuộc điều tra cho rằng: Tự học của học sinh là tự
mình tìm ra kiến thức mà không cần sự hỗ trợ, giúp đỡ của giáo viên.
Về sự cần thiết của tự học:
- 56,9% giáo viên đồng ý: Tự học không chỉ giúp học sinh mở rộng củng cố mà
còn giúp học sinh khắc sâu kiến thức cơ bản.
- 22,7% giáo viên cho rằng: Tự học giáo dục đạo đức, nhân cách tốt cho học
sinh và rèn luyện thói quen tốt trong học tập.
- 21,4% giáo viên đồng ý: Tự học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo bộ
môn ở trường phổ thông.
10
- BIỂU ĐỒ KHẢO SÁT SỰ CẦN THIẾT CỦA TỰ
HỌC Ở HỌC SINH
Tự học không chỉ giúp học sinh
mở rộng củng cố mà còn giúp
21.40% học sinh khắc sâu kiến thức cơ
bản
56.90%
Tự học giáo dục đạo đức, nhân
22.70% cách tốt cho học sinh và rèn
luyện thói quen tốt trong học
tập.
Tự học góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo bộ môn ở trường
phổ thông
Về phương pháp:
- 33,27% giáo viên nhất trí phát triển kĩ năng tư duy môn ngữ văn cho học sinh.
- 40.92% giáo viên đồng ý với kĩ năng học sinh tự làm việc với SGK và tài liệu
tham khảo.
- 25.81% giáo viên nhấn mạnh kĩ năng phát hiện kiến thức qua đồ dùng trực
quan.
BIỂU ĐỒ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG PHƯƠNG PHÁP
TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
Tự học không chỉ giúp học sinh mở
25.81% 33.27% rộng củng cố mà còn giúp học sinh
khắc sâu kiến thức cơ bản
Tự học giáo dục đạo đức, nhân cách
tốt cho học sinh và rèn luyện thói
quen tốt trong học tập.
40.92%
Tự học góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo bộ môn ở trường phổ
thông
Như vậy, ở mức độ và lựa chọn khác nhau của giáo viên đã phản ánh tính
phong phú của hệ thống kĩ năng tự học trong quá trình dạy học Ngữ văn 10 –
THPT.
11
- Mặc dù nhận thức của giáo viên về vấn đề tự học và kĩ năng phát triển kĩ năng
tự học đúng đắn, nhưng khi được hỏi về phương pháp hình thành và phát triển một
số kĩ năng tự học cơ bản cho học sinh trong dạy học bộ môn Ngữ Văn ở trường
phổ thông, còn nhiều bất cập: chủ yếu giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh đọc SGK
trên lớp và gạch chân những nội dung quan trọng, ít quan tâm đến việc rèn luyện
học sinh kết hợp SGK với nghe giảng và ghi chép chủ động. Các kĩ năng cơ bản
khác như: kĩ năng tư duy, khai thác đồ dùng trực quan, tài liệu tham khảo, làm việc
nhóm,... chưa được chú trọng rèn luyện.
Đối với học sinh, khi nhận thức về vấn đề tự học: giáo viên làm cuộc khảo sát
nhanh với số phiếu phát ra là 980 phiếu, thu được kết quả như sau:
- 52,04% học sinh cho rằng: Tự học là tự mình tích cực, chủ động chiếm lĩnh
kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- 39.79% học sinh cho rằng: Tự học là tự mình đọc SGK, tài liệu tham khảo ở
nhà để soạn bài mới.
- 8,17% học sinh khẳng định: Tự học là học ngoài giờ lên lớp.
BIỂU ĐỒ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG NHẬN THỨC
CỦA HỌC SINH VỀ VẤN ĐỀ TỰ HỌC
8.17% Tự học là tự mình tích cực, chủ
động chiếm lĩnh kiến thức dưới sự
hướng dẫn của giáo viên.
39.79% Tự học là tự mình đọc SGK, tài
liệu tham khảo ở nhà để chuẩn bị
52.04% bài mới.
học sinh khẳng định:Tự học là học
ngoài giờ lên lớp
Như vậy các em đã hiểu được ở mức độ nhất định các hình thức tự học khác
nhau, nhưng về bản chất tự học các em còn mơ hồ.
Thông qua kết quả điều tra cho thấy, việc tự học và phát triển kĩ năng tự học
Ngữ văn cho học sinh còn nhiều hạn chế.
1.2.2. Nguyên nhân của thực trạng hưỡng dẫn học sinh kĩ năng tự học ở
môn Ngữ Văn ở nhà chương trình THPT Lớp 10
Một số giáo viên chưa nhận thức đúng bản chất, vai trò của tự học, chưa xác
định được hệ thống kĩ năng tự học cơ bản và các biện pháp thích hợp để rèn luyện
và phát triển kĩ năng tự học cho học sinh. Một số giáo viên còn dạy học theo lối
12
- đọc – chép, chỉ tập trung vào việc dạy kiến thức, ít dạy học sinh cách học và
khuyến khích học sinh tự học.
Về phía học sinh, tình trạng học tập thụ động đã hạn chế rất nhiều khĩ năng và
hứng thú tự học của học sinh. Ngoài ra nhiều học sinh không còn yêu mến khiến
cho việc tự học môn Ngữ văn càng yếu hơn (cả về hình thức, thời gian, mức độ
hiệu quả).
Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường cũng làm cho chất
lượng dạy học Ngữ văn nói chung, việc tự học của học sinh nói riêng chưa tốt.
Hiện nay, các trường Đại học có tuyển sinh khối C số lượng ít, thực tế sau khi ra
trường, cơ hội có việc làm đúng chuyên ngành thấp hơn các khối khác. Vì thế
trong tình trạng học tập bộ môn Ngữ Văn mang tính hình thức mới xuất hiện và
học chỉ để thi tốt nghiệp
Chương trình đào tạo ở nhiều trường cao đẳng và đại học sư phạm còn nặng về
kiến thức hàn lâm, chưa đầu tư đúng mức cho công tác rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ
cho sinh viên. Việc tự học của sinh viên sư phạm còn hạn chế. Điều này ảnh hưởng
đến việc hướng dẫn học sinh tự học ở trường phổ thông khi họ trở thành giáo viên
thực sự đứng trên bục giảng. Nên thực tế không ít giáo viên bộ môn Ngữ Văn còn
non yếu cả về chuyên môn và năng lực sư phạm.
Từ đó có thể khẳng định, việc đề xuất các biện pháp phát triển hệ thống kĩ năng
tự học cơ bản cho học sinh là một yêu cầu cấp thiết. Để giải quyết được những hạn
chế trên cần có biện pháp đồng bộ từ các cấp quản lí giáo dục, đến giáo viên và
học sinh, có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã hội.
13
- CHƯƠNG II : BIỆN PHÁP HƯỠNG DẪN HỌC SINH VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC Ở MÔN NGỮ VĂN LỚP 10 THPT
2.1. Yêu cầu của việc Vận dụng phương pháp tự học ở môn Ngữ Văn lớp
10 - THPT
2.1.1. Đối với giáo viên
Thứ nhất, muốn học sinh có ý thức tự học thì trước hết học sinh phải yêu
thích môn học đó. Vì vậy GV cần tạo cho HS niềm say mê môn học. GV có thể
dùng tiết dạy để giới thiệu về môn học, về những giá trị của môn học trong thực
tiễn bằng những ví dụ minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em..
Thứ hai, GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ
ban đầu. Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV không cần phải dạy ngay mà
cần giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách
khái quát nhất để HS hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù
hợp. GV phải làm cho HS hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục
tiêu chung và mục tiêu cụ thể và HS hoàn toàn có thể phấn đấu thực hiện được
từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong
quá trình giảng dạy mỗi bài, GV sẽ cung cấp nội dung và thời gian học và kiểm tra
để HS nắm rõ. Đồng thời, GV có thể cho HS đánh dấu vào trong sách bài nào học
ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra. Muốn HS tự xây dựng kế hoạch học tập thì GV
phải là người cung cấp đầy đủ kế hoạch dạy và học của bộ môn. Giáo viên phải
cung cấp phân phối chương trình nôn học để HS dựa vào đó xây dựng kế hoạch
học tập theo tuần.
Thứ ba, GV hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan
đến môn học, hưỡng dẫn cách học online, học trực tuyến trên trang web. GV
cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học không chỉ gói gọn trong nội
dung SGK, trong bài giảng của GV mà đến từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó, GV
cần giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những tài liệu bổ ích liên quan đến
môn học và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích và tổng hợp kiến thức.
GV cũng có thể giới thiệu địa chỉ một số trang web chuyên ngành, hoặc các trang
diễn đàn trao đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm.
Thứ tư, GV nên dạy cho HS cách ghi chép và nghe giảng vì đây là những
kỹ năng học tập vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của
HS. Trình độ nghe và ghi chép của người học ở mỗi môn học khác nhau là khác
nhau, tùy thuộc vào đặc thù của từng môn học và phương pháp giảng dạy của từng
giáo viên. HS thường mang lối học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra
khỏi nhau, thậm chí nhiều HS chỉ chờ GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung
bài học, nếu ngược lại thì bỏ trống vở. Điều này khiến HS có tâm lí ức chế, ảnh
hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Để khắc phục vấn đề này này, GV nên
xây dựng bộ giáo án mẫu, bên cạnh nội dung của bài học có chừa khoảng trắng cho
HS ghi chép những vấn đề mà GV mở rộng. Đối với các vấn đề mà HS còn chưa
14
- rõ, có thể đánh dấu để hỏi lại GV hoặc tìm hiểu thêm. GV phải rèn luyện cho HS
cách ghi chép nhanh bằng các hình thức gạch chân từ khóa, tóm lược bằng sơ đồ
những ý chính. Đối với các vấn đề quan trọng, GV cần nhấn mạnh, lặp lại nhiều
lần để HS tiếp thu dễ dàng hơn.
Thứ năm, GV hướng dẫn cách học bài. GV nên giới thiệu và hướng dẫn cho
HS tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Benjamin S.Bloom. Theo
cách phân chia trong thang nhận thức của Bloom, HS có thể học cách phân tích,
tổng hợp, vận dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học cách nhận xét, đánh
giá, so sánh đối chiếu các kiến thức khác… Cách tự học theo mô hình các nấc
thang nhận thức của Bloom sẽ giúp cho HS có thể học được cách rèn luyện được
năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng và phát triển tư duy sáng tạo trong việc
tìm ra những hướng tiếp cận mới đối với các vấn đề khoa học.
Thứ sáu, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS ở tiết học tiếp theo. Để phát
huy tối đa năng lực tự học và thúc đẩy HS tận dụng hết thời gian tự học, GV cần
giao nhiệm vụ cụ thể cho HS. Có như thế, các em mới định hướng được cụ thể các
nhiệm vụ mình cần làm tiếp theo. Sau khi đã tiếp nhận được kiến thức cũ, các em
có thể tìm hiểu kiến thức mới. Khi có sự chuẩn bị trước ở nhà, việc học trên lớp sẽ
trở nên có hiệu quả hơn rất nhiều.
2.1.2. Đối với học sinh các kĩ năng các em cần phải có
Kỹ năng định hướng
Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công người học cần thiết lập cơ
sở định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có
thể sử dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức năng
nhận thức đối tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo kế
hoạch. Để có được cơ sở định hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi:
- Học nhằm mục đích gì? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với gia
đình và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao…
- Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt
qua loa.
- Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản
thân.
Kỹ năng lập kế hoạch học tập
Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung và
phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng được kế hoạch học tập.
Trên cơ sở bộ khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận và chiếm lĩnh
tri thức một cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học phải chú ý một
số điểm sau:
15
- - Thứ nhất, người học phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể
là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng phần. Kế
hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn
cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình.
- Thứ hai, khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định
được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức
cho nó.
Kỹ năng thực hiện kế hoạch
Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần có một
số kỹ năng sau:
- Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem
truyền hình, tra cứu từ Internet… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để
chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt.
- Xử lí thông tin: việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ
diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá
trình này có thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh
giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh…
- Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri thức
khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí
các tình huống, viết bài …
- Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri
thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận…
Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
16
- Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự
đánh giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái
gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có kỹ năng
tự kiểm tra, đánh giá, học sinh cần:
- Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu
hỏi, dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời
trước nhóm hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục.
- Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè.
- Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm
sau đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm…
Chúng tôi xin dẫn nguồn từ kết quả khảo sát về hoạt động tự học của HS THPT
tại trường THPT Tân Kỳ để nêu lên thực trạng về hoạt động tự học của HS.Chúng
tôi tiến hành phát phiếu khảo sát 100 em học sinh.
100
Theo kết quả khảo
80
sát, có 72,0% HS chọn hình thức học một mình, 21,0% HS
chọn nhóm bạn để cùng học tập và chỉ có 7,0% HS chọn hình thức học với người
60 East
thân. West
40
Kết quả khảo sát20 cũng cho thấy, về kỹ năngNorth tự học: Mức độ sử dụng không
thành thạo các kỹ năng tự học của HS còn quá thấp chiếm 32,0%, có 60,0% HS
0
còn lúng túng khi sử dụng
1st Qtr các kỹ3rd
2nd Qtr năng tựQtrhọc, chỉ có 8,0% sử dụng thành thạo các
Qtr 4th
khả năng tự học
BIỂU ĐỒ KHẢO SÁT KỸ NĂNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
8,00%
32,00%
Mức độ sử dụng không thành
thạo các kỹ năng tự học của HS
HS còn lúng túng khi sử dụng các
kỹ năng tự học
HS sử dụng thành thạo các khả
năng tự học
60,00%
Về ý kiến của GV đối với thời gian tự học của HS chúng tôi tiến hành khảo sát
100 GV, có 68% ý kiến GVcho rằng HS chỉ tự học một ngày từ 1 giờ đến 2 giờ và
có 32% ý kiến GV cho rằng HS tự học 3 giờ và trên 3 giờ mỗi ngày.
17
- Ý kiến của các HS về thời gian tự học cũng tương đối tương tự với các ý kiến
của các GV về vấn đề này khi có 65% cho rằng các em chỉ tự học từ 1 giờ đến 2
giờ trong một ngày và có 35% HS cho biết đã tự học 3 giờ và trên 3 giờ mỗi ngày.
Qua kết quả khảo sát, có thể thấy rằng hoạt động tự học của HS vẫn chưa đạt
hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS tự học từ 1 đến 2 giờ chiếm khá cao. Bên
cạnh đó, nhiều HS vẫn còn lúng túng khi sử dụng các kỹ năng tự học. Nguyên
nhân một phần là do các em chưa có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một
phần khác là do các em chưa được định hướng một cách cụ thể trong hoạt động tự
học của bản thân. Do vậy, vai trò của người GV trong việc phát triển kỹ năng tự
học của HS nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở trường phổ thông là
hết sức quan trọng.
2.2. Hình thành và vận dụng phương pháp tự học Ngữ văn cho học sinh
trong quá trình dạy học ở trường phổ thông trung học.
2.2.1. Hình thành Kĩ năng tự học
Theo Từ điển tiếng Việt: “Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu
thập được được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tiễn”.
Ý kiến khác cho rằng kĩ năng đồng nhất với những kĩ thuật của hành động thao
tác khi làm một việc gì đó. Theo đó, người có kĩ năng là người có hành động đúng
đắn. Hoặc kĩ năng là phương thức vận dụng tri thức vào hoạt động thực hành đã
được củng cố. Kĩ xảo và những hành động đã trở nên tự động hóa nhờ luyện tập.
Xuất phát từ những hiểu biết khác nhau và từ tính khả thi của các biện pháp rèn
luyện kĩ năng tự học môn học, chúng tôi cho rằng, kĩ năng là sự thực hiện có kết
quả một công việc nào đó ( lao động chân tay hay nhận thức) bằng cách vận dụng
những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp hoàn và điều kiện
cho phép. Ở một góc độ nào đó, kĩ năng gần với phương pháp đúng đắn. Điều ấy
có nghĩa là kĩ năng bao gồm những hiểu biết về đối tượng cần tác động, đặc biệt là
những quy luật vận động của đối tượng. Người có kĩ năng là người trước tiên phải
nhận thức đúng, hiểu rõ công việc mà mình phải làm, phải có những hành động
phù hợp với quy luật vận động của đối tượng để đạt được kết quả như mục tiêu đã
đề ra, có thể hành động đạt được kết quả cao với những công việc, tình huông
tương tự. Như vậy kĩ năng không chỉ đòi hỏi con người phải hiểu biết đúng đắn về
đối tượng tác động và các kinh nghiệm cần thiết mà còn phải biết vận dụng vốn tri
thức kinh nghiệm để hành động đúng đắn, đạt kết quả cao. Bản thân con người
sinh ra chưa có kĩ năng hoạt động thực tiễn, nhất là những kĩ năng công việc. Đa số
những kĩ năng có được xuất phát từ hoạt động thực tiễn, từ đào tạo. Khi xem xét kĩ
năng cần phải lưu ý những điểm sau:
- Kĩ năng trước phải được hiểu là mặt kĩ thuật của hành động, kĩ năng bao
giờ cũng gắn với hành động cụ thể.
- Tính đúng đắn, sự thành thạo, linh hoạt, mềm dẻo là tiêu chuẩn quan trọng
để xác định sự hình thành và phát triển kĩ năng. Một hành động chưa được gọi
18
- là có kĩ năng nếu còn mắc nhiều lỗi vụng về, các thao tác diễn ra theo khuôn
khổ cứng nhắc.
- Kĩ năng không phải sinh ra đã có. Đó là sản phẩm của hoạt động thực tiễn,
là quá trình con người vận dụng tri thức và hoạt động kinh nghiệm vào hoạt
động thực tiễn để đạt được mục đích đề ra.
- Kĩ năng là một biểu hiện, một điều kiện cần thiết, một yếu tố quan trọng
trong tổ hợp nhiều yếu tố tạo nên năng lực (yếu tố cần nhưng chưa đủ).
2.2.2. Hình thành và phát triển phương pháp tự học Ngữ văn cho học sinh
trong quá trình dạy học ở trường phổ thông trung học
Kĩ năng tự học nói chung , kĩ năng tự học môn Ngữ văn ở trường phổ thông
trung học nói riêng là khả năng tự mình chiếm lĩnh kiến thức ngữ văn một cách có
hiệu quả. Chương trình quy định cụ thể về những kĩ năng cần đạt cho học sinh ở
trường phổ thông với bộ môn Ngữ văn là:
- Kĩ năng xác định thông tin trong bối cảnh không gian, thời gian của một sự
kiện văn học
- Kĩ năng trình bày (tóm tắt, miêu tả nhân vật, thuyết minh... );
- Kĩ năng khai thác ngữ liệu, tư liệu
- Kĩ năng bộ môn (vận dụng các kiến thức đã học để trả lời các câu hỏi, làm
bài tập môn ngữ văn, có kĩ năng tính toán, vẽ hình, dựng biểu đồ...).
- Hình thành kĩ năng tự học Ngữ văn cho học sinh là một quá trình, không
thể tiến hành một cách tùy tiện, mày mò theo chủ nghĩa kinh nghiệm, mà phải
tiến hành khoa học, tuân thủ một quy trình nhất định. K.K.Platonop đưa ra 5
giai đoạn hình thành kĩ năng như sau:
- Giai đoạn 1: Có kĩ năng sơ đẳng: ý thức được mục đích hành động và tìm
kiếm cách thực hiện hành động dựa trên vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống. Hành
động được thực hiện bằng cách “thử” và “sai”.
- Giai đoạn 2: Biết cách làm nhưng không đầy đủ: có hiểu biết về phương
thức thực hiện hành động; vận dụng các kĩ năng đã có, nhưng không phải
những kĩ năng chuyên biệt dành cho hành động này.
- Giai đoạn 3: Có kĩ năng chung nhưng mang tính riêng lẻ.
- Giai đoạn 4: có kĩ năng phát triển cao, sử dụng sáng tạo vốn hiểu biết và kĩ
năng đã có, ý thức được không chỉ mục đích hành động, mà còn cả động cơ lựa
chọn cách thức đạt mục đích.
- Giai đoạn 5: Sử dụng sáng tạo các kĩ năng trong những điều kiện khác nhau.
Trong thực tế, hình thành quá trình kĩ năng thường diễn ra trong thành 3 giai
đoạn:
Trước hết là sự nhận thức về mục đích, cách thức và điều kiện hành động.
Đây là giai đoạn quan trọng vì mục đích chính là kết quả hành động mà người
ta dự kiến trước khi bắt tay vào hành động. Nếu không xác định được mục đích sẽ
không có hướng hành động và khó có thể nắm được cách thức hành động để đạt
19
- được kết quả mong muốn. Đồng thời với việc nhận thức mục đích cần phải nắm
vững cách tiến hành các thao tác thực hiện hành động. Việc lĩnh hội này có thể do
con người tự học, cũng có thể do người khác hướng dẫn.
Tiếp theo là giai đoạn quan sát mẫu và làm thử theo mẫu.
Công việc này sẽ giúp người ta thấy được khả năng vận dụng tri thức vào hoạt
động, xem hành động có những ưu nhược điểm nào cần phát huy, cần sữa chữa và
có tác dụng củng cố vốn kiến thức đã nắm. Người năng lực yếu thì phải làm thử
nhiều, người có năng lực thực sự thì việc làm thử không cần nhiều. Thông thường
khi làm thử, các tình huống chưa phức tạp bằng điều kiện thực tế. Song giai đoạn
này cũng tạo điều kiện để người hướng dẫn kiểm tra và uốn nắn kịp thời.
Cuối cùng là tiến hành luyện tập.
Ở giai đoạn này, các thao tác, các bước thực hiện hành động dần dần được
chính xác hơn. Đồng thời, các tri thức và cách thức hành động được ôn luyện làm
cho người đọc nắm chắc hành động hơn. Có thể nói, kĩ năng thực sự ổn định khi
trong điều kiện khác nhau, con người vẫn hành động có kết quả cao. Như vậy, để
hình thành một kĩ năng đòi hỏi cả một quá trình. Thời gian dài hay ngắn, kết quả
được cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, sự nỗ lực của người học
giữ vai trò quyết định.
2.3. Các biện pháp hưỡng dẫn học vận dụng phương pháp tự học ở môn
Ngữ văn THPT
2.3.1. Hình thành và phát triển phương pháp tự học với sách giáo khoa
a. Hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng SGK trong giờ học trên lớp.
Mục đích: Giúp HS có ý thức tìm hiểu và nắm được khái quát nội dung bài học
trước khi đến lớp, rút ngắn thời gian đọc tài liệu tại lớp cũng như thời gian GV
thuyết giảng, HS được củng cố kiến thức nhiều lần.
Phương pháp đọc sách này không chỉ có tác dụng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức của HS, mà còn góp phần rèn luyện
cho họ kĩ năng tổng thuật các tài liệu khoa học trên cơ sở có phân tích, đánh giá.
Đây là một trong những kĩ năng cần phải có, cần phải trang bị cho HS để các em
có thể làm chủ trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
-Thứ nhất, Hình thành và phát triển kĩ năng đọc và tự phát hiện kiến thức cơ
bản trong SGK.
Đó là việc học sinh tự đọc sách giáo khoa ở nhà, tìm được các ý quan trọng, cốt
lõi nhất của bài viết, để chiếm lĩnh kiến thức cơ bản và trả lời câu hỏi của giáo
viên. Để hình thành và phát triển kĩ năng này, giáo viên phải hướng dẫn cho học
sinh thường xuyên thực hiện các công việc:
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc lướt rồi đọc kỹ nội dung bài viết
trong sách giáo khoa để tìm ý chính (đặc biệt là phần tiểu dẫn và phần văn bản)
20
nguon tai.lieu . vn