Xem mẫu

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: 1.1. Từ  xưa đến nay, trong giáo dục, vấn đề  tự  học vẫn, đã và đang là một   vấn đề then chốt được đặt ra với cả người dạy và người học. Herrert Spencer   cho rằng: “Chỉ  có qua con đường tự  học, loài người mới có thể  phát triển   mạnh mẽ  lên được”. Chủ  tịch Hồ  Chí Minh cũng từng nhận định: “Trong   cách học, phải lấy tự  học làm cốt”. Hay ngạn ngữ  Trung Quốc cũng đã cho  rằng: “Thầy giáo của anh có thể  dắt anh đến cửa, đạt được sự  học hay   không là tùy  ở  mỗi người”. Nếu không có tự  học thì mọi hoạt động của  người học chỉ  là hoạt động thụ  động: thụ  động tiếp thu tri thức, thụ  động  trong việc thực hiện các hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ  học tập… Nếu   không có tự  học, thì hoạt động giáo dục chỉ  là hoạt động 1 phía của người  dạy. Nếu không có tự  học, thiết nghĩ hoạt động giáo dục chỉ  là một “công   nghệ” nhân bản, xã hội sẽ  chỉ  có nhiều thêm những con người thụ  động,  thiếu khả năng vận dụng, yếu kĩ năng sống cần thiết.  1. 2. Dưới tác động của công cuộc đổi mới và cuộc cách mạng 4.0, giáo dục   trong những năm qua đã có sự  đổi mới mạnh mẽ. Từ  việc dạy và học theo  cách truyền thống, lấy người dạy làm trung tâm truyền đạt tri thức, người  học chỉ  thụ  động tiếp nhận và vận dụng máy móc, thì nay, mọi hoạt động   của quá trình này đều hướng về chủ thể mới – Người học. Với nhận thức đó,   giáo dục hiện nay đang có sự  chuyển mình tích cực. Một không khí đổi mới  sôi nổi trên mọi mặt trận giáo dục. Đó là việc áp dụng hình thức dạy học theo   định hướng phát triển năng lực; vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học   mới, các kĩ thuật dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy; đổi mới sinh   hoạt tổ  chuyên môn bằng cách chuyên đề  dạy học tích cực. Bên cạnh đó,   nhằm phát huy hơn nữa tính tự chủ, tự  giác, tích cực của người học, các nhà  1
  2. sư  phạm cũng đã và đang thực hiện việc tổ  chức hoạt động tự  học cho học   sinh trong từng giờ  học, bài học. Tự  học đang được xem là cần thiết, là tất   yếu trong một nền giáo dục theo định hướng phát triển năng lực cho người  học. Từ đó, giáo dục từ cấp địa phương đến trung ương đang có những bước  chuyển mình trước đáng kể, giúp cho xã hội và người học vững tâm thế hơn  chuẩn bị cho cuộc cải cách giáo dục trong thời gian tới.  1.3.  Tổ  chức hoạt động tự  học của học sinh là tiến trình tổ  chức các hoạt   động để hình thành kiến thức dựa trên cơ sở  tự nhận thức của học sinh. Tuy  mới được vận dụng, nhưng việc tổ chức hoạt động tự học của học sinh đã và  đang tạo nên luồng gió mới trong không khí lớp học, khiến cho những giờ  dạy trước đây nặng về kiến thức, khô khan trở nên sôi nổi, tích cực. Điều đó   tạo nên những tiềm năng để xây dựng lớp học hạnh phúc trong tương lai. 1.4.  Đối với bộ  môn Ngữ  Văn, trong những năm trở  lại đây, tình trạng học  sinh học một cách thụ  động đang trở  thành phổ  biến. Tâm lý “Thi mới học”   và “Học để  thi” khiến cho nhiều học sinh dựa dẫm vào tài liệu, đề  cương  trong khi yếu về  kĩ năng, hạn chế  về  vốn từ. Bên cạnh đó, sự   ảnh hưởng  không nhỏ của các thiết bị Khoa học công nghệ hiện đại cũng khiến học sinh  dành quá ít thời gian cho việc tự học. Kiến thức được tiếp thu một cách máy   móc, mà ít có sự  nghiền ngẫm, suy nghĩ, tự  trải nghiệm của chính học sinh.  Dạy Văn, học Văn như thế đang đứng trước nguy cơ bị quay lưng, lãng quên.   Thực trạng đó đòi hỏi các nhà sư phạm phải lưu tâm. Nhiều câu hỏi đã được  đặt ra: Phải làm sao để nâng cao hứng thú học tập? Phải làm sao để  tạo nên  sự  chủ  động, tự  giác cho người học? Những câu hỏi  ấy đã thôi thúc người   dạy học phải trách nhiệm hơn, sáng tạo hơn trong quá trình giảng dạy. Vấn   đề là phải khơi dậy ý thức, kĩ năng học từ chính bản thân người học.  1.5. Trong số những phân môn của bộ môn Ngữ Văn, bộ môn Đọc Văn chiếm  thời lượng lớn và có vai trò quan trọng. Đây là linh hồn của các giờ học Ngữ  Văn. Kiến thức Đọc Văn không chỉ tái hiện văn học sử nước nhà mà còn góp  2
  3. phần bồi đắp năng lực cảm thụ,  đời sống tình cảm phong phú. Trong số  những bài học gây được hứng thú, phát huy năng lực cảm thụ văn chương của  học sinh phải kể đến bài học “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu   là một nhà thơ  lớn, có đóng góp nổi bật trong nền văn học Việt Nam hiện   đại. Tác phẩm của ông thể hiện triết lý sống tích cực, góp phần giáo dục cho  học sinh lối sống lạc quan, sống nhiệt huyết, biết trân trọng từng giây, từng  phút của đời người để  không phải xót xa ân hận. Với ý nghĩa đó, những  người biên soạn sách đã lựa chọn “Vội vàng” – một thi phẩm xuất sắc, coi đó  là tuyên ngôn nghệ thuật và cũng là tuyên ngôn sống tích cực của nhà thơ  để  giới thiệu với người học. Trải qua nhiều năm học, thi phẩm “Vội vàng” đã  làm tròn vai của mình trong việc đánh thức năng lực cảm thụ và niềm say mê,   hứng thú học Văn của học sinh. Tuy nhiên, mọi sự  tiếp cận thi phẩm còn   diễn ra thụ động, mà ở đó ta thấy giá trị của tự học được thay thế bằng được   học, được tiếp nhận. Thay vì nói tự  hình thành tri thức mà nói Lĩnh hội tri   thức; thay vì nói: tự cảm thụ thi phẩm mà nói: được cảm thụ  thi phẩm; thay   vì nói: tôi tìm thông điệp từ  thi phẩm mà nói: Tôi nhận thông điệp từ  thi   phẩm. Với điểm xuất phát từ xu hướng đổi mới phương pháp dạy học và dạy  học theo định hướng phát triển năng lực, với mục tiêu hình thành năng lực tự  học   cho   học   sinh,   người   viết   tiến   hành   triển   khai   đề   tài   sáng   kiến   kinh  nghiệm: “TỰ HỌC – CON ĐƯỜNG ĐÁNH THỨC TƯ DUY, KHƠI DẬY   SÁNG TẠO CHO HỌC SINH (VẬN DỤNG QUA VIỆC GIẢNG DẠY   BÀI THƠ: “VỘI VÀNG” – XUÂN DIỆU). Qua đó, hiện thực hóa một phần  việc áp dụng những kĩ thuật dạy học tích cực trong quá trình dạy – học tạo  nên sự  thay đổi thái độ  học tập của học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn  không chỉ  một nội dung bài học mà còn mở  đường cho năng lực đọc – hiểu   những văn bản tương tự. 2. Tên sáng kiến:  3
  4. TỰ  HỌC – CON ĐƯỜNG ĐÁNH THỨC TƯ  DUY, KHƠI DẬY SÁNG  TẠO   CHO   HỌC   SINH   (VẬN   DỤNG   QUA   VIỆC   GIẢNG   DẠY   BÀI  THƠ: “VỘI VÀNG” – XUÂN DIỆU). 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Vân Anh ­ Địa chỉ  tác giả  sáng kiến: Trường THPT Nguyễn Thái Học – Khai Quang­  Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại: 0972144867       E_mail: vananh.atvp@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả sáng kiến. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Áp dụng trong công tác giảng dạy của bộ môn Ngữ Văn mà trọng tâm là phân  môn Đọc Văn của chương trình Ngữ Văn 11. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Ngày 22  tháng 02 năm 2018. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: CHƯƠNG 1: TỰ HỌC – TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN KHẢ NĂNG VẬN DỤNG 1. Khái lược về tự học 1.1. Khái niệm và vai trò của tự học 1.1.1. Khái niệm “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là   tự  mình động não, suy nghĩ, sử  dụng các năng lực trí tuệ  (quan sát, so sánh,   4
  5. phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để  chiếm lĩnh   tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội   của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”. Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn   về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra   tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự  thể  hiện mình. Tự  học là   tự  đặt mình vào tình huống học, vào vị  trí nghiên cứu, xử  lí các tình huống,   giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự  học thuộc quá trình cá   nhân hóa việc học”.  1.1.2. Vai trò của tự học * Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học.        Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự  học. Trong quá trình hoạt động dạy học, người thầy không chỉ  dừng lại  ở  việc truyền thụ  những tri thức có sẵn, yêu cầu học sinh ghi nhớ  mà quan  trọng hơn là phải định hướng, tổ  chức cho hoc sinh tự  mình khám phá, hình  thành tri thức mới. Cũng chính từ  bước tự  học  ở  nhà trường Phổ  thông tạo  tiền đề  cho học sinh có năng lực tự  học  ở  những bậc học cao hơn, tự  học   trong nhà trường hay rộng hơn là tự học ngoài xã hội.  * Bồi dưỡng năng lực tự học là phương thức tốt nhất để tạo ra động lực   mạnh mẽ cho quá trình học tập.        Một trong những phẩm chất quan trọng mà giáo dục cần định hướng  ở  học sinh là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Các nhà  sư phạm mong muốn đào tạo ra những cá nhân năng động, sáng tạo, thích ứng  với hoàn cảnh. Tính tích cực như  một điều kiện, kết quả  của sự  phát triển   nhân cách thế  hệ  trẻ  trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự  học là   5
  6. những biểu hiện sự  cố  gắng, nỗ  lực về nhiều mặt của từng cá nhân người  học trong quá trình nhận thức. Từ đó mà tạo nên hứng thú học tập ở học sinh.  Hơn ai hết, các nhà sư phạm hiểu rằng: Giáo dục không phải là sự đổ đầy mà   là thắp lên ngọn lửa. Ngọn lửa đam mê, sáng tạo của người học có được thắp   lên hay không là ở hoạt động tổ chức tự học cho học sinh.  * Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời Tự  học giúp con người thích  ứng với mọi biến cố  của sự  phát triển  kinh tế ­ xã hội. Bằng con đường tự  học mỗi cá nhân sẽ  không cảm thấy bị  lạc hậu so với thời cuộc, thích  ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống   mới lạ  mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể  cả  những thách thức to lớn từ  môi trường nghề  nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có  được phương  pháp, kĩ năng tự  học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực  tiễn thì sẽ  tạo cho họ  lòng ham học, nhờ  đó kết quả  học tập sẽ  ngày càng  được nâng cao.         Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương  pháp tự  học hiệu quả  sẽ  khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực cho  người học. Đó là chìa khóa để  cứu cánh cho tình trạng lười học, chống đối  trong học tập; là bàn đạp để tạo nên lớp học hạnh phúc, thầy cô hạnh phúc.  1.2. Các khả năng tự học trong hoạt động dạy học  1.2.1. Từ góc độ người thầy a. Tự học – con đường tự khám phá và lĩnh hội tri thức của người thấy Cô – men – xki đã từng ca ngợi: “Dưới ánh mắt trời, không có nghề nào   cao  quý   bằng  nghề   dạy   học”.  Cao   quý   không  chỉ   bởi  mục  tiêu   giáo  dục  hướng tới là những cá nhân hội tụ: Đức – Trí – Thể ­ Mỹ mà quan trọng hơn  là bởi nhân cách và nhiệt huyết của người thầy. Người thầy là người “cầm   tay, mở  ra trí óc và chạm đến trái tim” ­ Author Unknown.  Người thầy thấu  6
  7. hiểu, sẻ  chia là điểm tựa tinh thần cho học trò trước “trang sách cuộc đời”:  “Một người thầy thực sự  đặc biệt thì rất hiểu biết và nhìn thấy tương lai   trong đôi mắt của mọi học trò­ Author Unknown. Không chỉ cần có một tầm  hiểu biết phong phú, một vốn tri thức vững vàng, người thầy còn có vai trò  định hướng nhận thức, tư  tưởng cho học trò trước ngưỡng cửa tương lai.  Người thầy là ngọn nến­ “ngọn nến cháy để  soi đường cho những người   khác” ­ Mustafa Kernal Ataturk. Theo quan điểm giáo dục hiện đại, khi đặt  vấn  đề   giáo  dục   lấy  học  sinh   làm   trung   tâm,  người  thầy  có   vai   trò   định  hướng, dẫn dắt  để  học sinh khám phá, lĩnh hội tri thức. Với  ý nghĩa đó,   Người thầy thực sự hiểu biết không bắt bạn bước vào ngôi nhà tri thức của   thầy, mà hướng dẫn bạn đến ngưỡng của tư duy và tri thức của bạn  ­ Khalil  Gibran. Để  dẫn dắt học sinh đến với ngưỡng cửa tư  duy, tri thức, điều người  thầy cần là một vốn tri thức đủ  lớn, một hệ  thống những kĩ năng linh hoạt,  sự sáng tạo trong quá trình giáo dục. Đó “vốn tự có” mà người thầy luôn luôn   phải tự tìm tòi, bồi đắp trong quá trình giảng dạy. Với tiêu chí: “Mỗi thầy cô  giáo là tấm gương tự  học và sáng tạo”, người thầy cần và rất cần không  ngừng tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn. Tự  học là con đường tự  khám phá,   lĩnh hội tri thức của người thầy. Trên cơ  sở  đó, người thầy bằng khả  năng   khái quát, tổng hợp, chọn lọc những tri thức phù hợp, có tính liên hệ  để  học  sinh khai phá. Đây là yêu cầu đầu tiên, bản chất nhất mà người thầy phải  nhận thức được trong hoạt động giảng dạy. Tự  học giúp người thầy tự  tin  hơn vào chuyên môn, vững vàng hơn trong việc giải quyết các tình huống  thực tiễn. Qua tự học, người thầy tìm thấy được niềm say mê, nhiệt huyết và  cả động lực giảng dạy. Mỗi bài dạy, mỗi đơn vị kiến thức qua lăng kính của  người thầy có cái nhìn đa chiều, có nhiều hướng tiếp cận khoa học hơn. Có  thể nói, tự  học là yếu tố  sống còn để  tạo nên niềm tin – trách nhiệm – đam   mê trong sự nghiệp giáo dục của các nhà sư phạm. 7
  8. b. Tự học – bước đột phá phương pháp, kĩ thuật tổ chức giảng dạy Một người thầy giỏi không phải chỉ  là bộ  bách khoa toàn thư  đón đợi  học trò đến đọc mà phải là chiếc la bàn chỉ hướng cho học trò trong quá trình  lĩnh hội tri thức. Để  làm trò vai trò định hướng, dẫn dắt, người thầy phải  thực sự  là những nhà sư  phạm có khả  năng tổ  chức hoạt động học tập của   học sinh. Trước đây, nhà sư phạm thường say sưa tổ chức hoạt động học tập   như một buổi thuyết trình. Ở đó, người thầy là trung tâm, là người rao giảng   về cái hay, cái đẹp, cái cao siêu của tri thức. Học sinh là độc giả lắng nghe và   tiếp thu một chiều. Lý thuyết giáo dục hiện đại đã đập tan quan niệm cố hữu  đó khi xây dựng mô hình:  người học ­ trung tâm; giáo viên – người định  hướng. Để  thay đổi khối trung tâm  ấy, nhất thiết phải tổ  chức đa dạng các  loại hình phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực. Sự tác động của các phương  pháp, kĩ thuật này giúp học sinh phá vỡ  được lối mòn tư  duy, phát huy năng   lực tự  thân, khơi dậy tính tự  giác, chủ  động. Để  làm được điều đó đòi hỏi   người thầy phải tự  tìm tòi, học hỏi, thử nghiệm và vận dụng nhiều phương   pháp kĩ thuật dạy học. Bước tìm tòi, học hỏi, thử  nghiệm này là đột phá về  hình thức tổ chức dạy học, là thước đo khả năng tự học, sáng tạo của người  thầy. Với cố  gắng mang đến những luồng gió mới trong hoạt động giảng  dạy, người thầy đã vận dụng nhiều phương pháp giảng dạy cũng như  kĩ  thuật dạy học hiện đại. Trong đây có thể kể tới các nhóm phương pháp và kĩ   thuật dạy học phổ biến như sau: * Nhóm phương pháp, kĩ thuật dạy học tác động vào tư duy cá nhân: Các nhà sư  phạm tìm tòi và vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy  học như: “Kích não”, “tia chớp”, “bể cá”… Các kĩ thuật dạy học này thưởng   tác động đến một đơn vị  kiến thức nhỏ  có tính liên hệ  đồng đẳng với các  kiến thức đã học. Đồng thời, bằng việc vận dụng kĩ thuật đặt câu hỏi nhằm   tạo nên sự tò mò, mong muốn được tìm hiểu, giải đáp của học sinh.  8
  9. Tạm xếp trong nhóm các phương pháp và kĩ thuật dạy học có tác động  đến tư  duy cá nhân là kĩ thuật “Sơ  đồ  tư  duy”. Sơ  đồ  tư  duy hay Bản đồ  tư  duy (Mindmap) là phương pháp được đưa ra để  tận dụng khả  năng ghi nhận  hình  ảnh của bộ  não. Đây là cách để  ghi nhớ  chi tiết, để  tổng hợp, hay để  phân tích một vấn đề  ra thành một dạng của lược đồ  phân nhánh. Phương   pháp này khai thác khả năng ghi nhớ và liên hệ các dữ kiện lại với nhau bằng   cách sử dụng màu sắc, một cấu trúc cơ bản được phát triển rộng ra từ  trung   tâm, dùng các đường kẻ, các biểu tượng, từ ngữ và hình ảnh theo một bộ các   quy tắc đơn giản, cơ bản, tự nhiên và dễ hiểu. Với sơ đồ tư duy, giáo viên có  thể tạo nên sự đơn giản hóa những đơn vị kiến thức phức tạp.  * Nhóm phương pháp, kĩ thuật dạy học tác động đến tư duy nhóm  Trong hoạt động dạy học, người thầy cần hiểu rằng: học sinh là chủ  thể, là điểm khởi phát của nhiều mối quan hệ  tương tác. Một trong những   mối quan hệ  tương tác cơ  bản chính là tương tác giữa người học với người  học. Sức mạnh nhóm, sức mạnh của tập thể có thể tạo nên sức mạnh để khai  phá những vùng tri thức khó. Chính vì thế, đột phá phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học chính là cách giáo viên tìm tòi các kĩ thuật dạy học tác động lên  đồng thời nhóm đối tượng học sinh. Giáo viên có thể  sử  dụng các kĩ thuật   như: chia nhóm, giao nhiệm vụ, khăn trải bàn… Các kĩ thuật này giúp cho  giáo viên khơi dậy được tính đồng đội, khả  năng chia sẻ  hợp tác của học   sinh. Bên cạnh đó, giáo viên có thể  vận dụng hình thức dạy học dự  án, xây  dựng các chuyên đề dạy học để học sinh có cơ hội được làm việc nhóm hiệu   quả.  Các hình thức, tổ chức dạy học tích cực được sử dụng có hiệu quả hay  không? Đó là ở khâu tìm tòi, học hỏi, khả năng vận dụng của người thầy. Lý  thuyết chỉ là màu xám, chỉ khi có tinh thần đổi mới, có niềm say mê tự học thì  người thầy mới có thể  tạo nên những bước đột phá thực sự  trong sự  nghiệp   9
  10. trồng người. Tự  học thực sự  không chỉ  tạo nên những khả  năng tích cực,  nguồn năng lượng tinh thần mạnh mẽ mà còn tạo nên khả năng sáng tạo dồi  dào cho người thầy.  1.2.2. Từ góc độ người học Xã hội luôn vận động biến đổi không ngừng, khi nhận thức phát triển,  người ta luôn nhìn nhận lại vấn đề, nhiều chân giá trị vì thế đã thay đổi. Ngày   hôm qua, nhân loại ngợi ca thuyết địa tâm để ngày nay, người ta nhận ra rằng   thuyết nhật tâm mới là khoa học của khoa học. Ngày hôm qua, người ta ngợi  ca vai trò trung tâm, truyền thụ kiến thức người thầy; ngày hôm nay, người ta  nhận ra rằng: người học mới là đối tượng chính, là chủ  thể  cần tập trung,  đánh thức năng lực. Tự học từ lâu đã trở thành một yêu cầu cơ bản với người   học. Tự học bằng hình thức: chuẩn bị bài, học bài cũ, làm bài tập về nhà. Và   tất yếu, kết quả  sản phẩm đầu ra của giáo dục cũng phụ  thuộc một phần   đóng góp đáng kể  của hoạt động tự  học. Xem xét các khả  năng tự  học của  người học có thể thấy các cấp độ khả năng tự học của học sinh như sau: a. Tự học như một yêu cầu bắt buộc Tự  học là một yêu cầu mang tính bắt buộc trước hết  ở  phạm vi lớp   học. Khi người học chịu sự  giám sát của giáo viên thông qua các hoạt động   chuyển giao bài tập về nhà, kiểm tra việc học bài, làm bài ở nhà. Khi đó, hoạt  động tự  học mang tính bắt buộc. Học sinh muốn hoàn thành nhiệm vụ  học   tập, bắt buộc phải tự học, tự  chuẩn bị bài  ở  nhà. Dù vậy nhưng đây vẫn là  bước tự học cơ bản nhất của học sinh trên ghế nhà trường. Học sinh thực hiện bước tự  học như  một yêu cầu bắt buộc khi cảm  thấy sự bức thiết của việc tự học. Tự học để hoàn thành nhiệm vụ học tập,   tự  học để  không bị  tụt hậu so với tập thể. Tự học khi cảm thấy bị thôi thúc   bởi một mong muốn hoặc sự đánh giá, nhìn nhận của thầy cô, bạn bè. Bước  10
  11. tự học như vậy đã bắt đầu mở ra bản lề của cấp độ tự học tiếp theo – tự học   như một sự chủ động.  b. Tự học như một sự chủ động, khơi dậy hứng thú, đam mê  Tự  học trong ý thức chủ  động bắt nguồn tự  việc học sinh đã bắt đầu  với việc tự  tìm hiểu, khám phá, giải quyết các yêu cầu cơ  bản của bài học.   Khi đã tìm hiểu sâu hơn, có sự hiểu biết và đạt được kết quả và sự ghi nhận   của thầy cô, bạn bè, khi đó có một nguồn năng lượng tinh thần thôi thúc cá  nhân tiếp tục tự học. Tự học lúc này trở thành mong muốn, tự nguyện. Chủ  động tự  học trở  thành niềm hứng thú, đam mê tự  khám phá, học   hỏi. Học sinh từ việc đơn thuần giải một bài toán Hình học, từ niềm vui, sự  nhẹ  nhõm khi hoàn thành bài tập lại say mê tìm ra những hướng giải khác.  Càng say sưa tìm lời giải, học sinh lại càng củng cố thêm niềm yêu thích với  môn học.  c. Tự học như một thói quen, kĩ năng Khi đã say mê, yêu thích và tự  nguyện tìm tòi, học hỏi, học sinh nhận   thức được tự học như một nhu cầu tự thân. Hoạt động tự học diễn ra thường   xuyên, liên tục, có kế hoạch và có cách thức thực hiện cụ thể. Khi đó, tự học   trở  thành một thói quen tích cực. Thói quen trước khi tìm hiểu một đơn vị  kiến thức cần tìm kiếm, thu thập thông tin; thói quen trong quá trình khám   phá, hình thành tri thức liên tục tư duy, tìm tòi những hướng đi mới; thói quen   sau khi tiếp cận tri thức là tự mình luyện tập.  Tổng hợp những thói quen trong quá trình tự học tạo thành hệ thống các   kĩ năng cần thiết của học sinh – kĩ năng tự  học. Kĩ năng tự  học là hệ  thống   các năng lực, khả năng giải quyết vấn đề linh hoạt, nhuần nhuyễn mà qua đó,  người học có thể vận dụng trong những hoàn cảnh khác nhau. Có kĩ năng tự  học, người học không chỉ  chủ  động, tích cực, tự  giác trong học tập mà còn  chủ động tự giác ngoài đời sống.  11
  12. 1.2.3. Một số cách thức phát huy năng lực tự học ở học sinh Như  đã phân tích, tự  học là năng lực cần thiết cần phát triển  ở  cả  người dạy và người học. Song nhìn từ  bản chất của hoạt động giáo dục, từ  việc xác định đối tượng trung tâm, chủ thể của hoạt động dạy học, xin được  đưa ra một số cách thức phát huy năng lực tự học đối với học sinh như sau: * Xây dựng động cơ học tập cho học sinh Để  việc tự  học trở  thành nhu cầu tự  thân của mỗi học sinh, giáo viên  cần hình thành  ở  học sinh động cơ  học tập. Đó là động lực, là đích đến, là  hướng phấn đấu để  học sinh vươn lên, vượt khó trong học tập. Xây dựng   động cơ  học tập bắt nguồn từ  việc tăng cường hứng thú học tập cho học   sinh. Trong quá trình dạy học người giáo viên cần làm cho bộ  não của học   sinh luôn đặt trong tình trạng mong muốn hiểu biết, làm cho học sinh hứng   thú khi học. Để làm được điều này giáo viên cần phải: ­ Làm cho học sinh ý thức được là họ  cần phải học, thấy được rằng mình  thực sự đang thiếu tri thức mới, cảm nhận được sự  thiếu hụt sẽ  là một yếu  tố  kích thích học sinh tìm kiếm một sự  cân đối mới, thỏa mãn nhu cầu hiểu  biết của mình. ­ Giáo viên phải khơi dậy  ở người học một sự hứng thú thực sự, muốn làm   điều này thì giáo viên phải tạo ra được tình huống thực sự  có vấn đề, có ý  nghĩa với học sinh, làm cho học sinh muốn tự  mình tìm ra giải pháp để  giải  quyết vấn đề. * Cần có những hướng dẫn mang tính chi tiết cụ thể về phương pháp tự   học   Giáo viên cần bắt đầu hướng dẫn tự học từ những việc làm đơn giản   mang tính bắt buộc sơ đẳng như: Đọc sách giáo khoa, trả lời câu hỏi sách giáo  khoa đến các yêu cầu khó hơn như: tập đặt câu hỏi và trả  lời câu hỏi, thu  thập thông tin, xử  lý thông tin, tổng hợp khái quát, rút ra kết luận… Bằng   12
  13. cách đó, giáo viên dần dần hình thành cho học sinh thói quen, kĩ năng tự  học  cho riêng mình.  Song song với đó, giáo viên cần hướng dẫn học sinh chọn lọc tư liệu,   tình huống liên quan đến nội dung bài học qua các kênh thông tin đại chúng  hoặc qua thực tế đời sống phù hợp với bộ môn.            Ngày nay, các điều kiện thông tin rất thuận lợi, học sinh rất nhanh  nhạy, giáo viên có thể khuyến khích học sinh thu thập tài liệu, tình huống liên  quan đến nội dung bài học. Đây cũng là bước đầu tiên tập dượt cho các em  nghiên cứu khoa học, rèn cho các em tinh thần làm việc khoa học, giáo viên có   thể định hướng học sinh thu thập tài liệu bằng cách sau: + Hướng dẫn học sinh chọn lọc tư liệu từng bài học, tiết học hoặc theo chủ  đề. + Cần hướng dẫn học sinh các địa chỉ tin cậy để tìm tư liệu. + Nên   khuyến   khích   học   sinh   tìm   những   tư   liệu,   tình   huống   ở   từng   địa  phương cụ thể nơi học sinh sinh sống. + Hướng dẫn học sinh cách ghi chép, đánh dấu đầu mục các thông tin quan  trọng. Bằng việc làm này, giáo viên có thể giúp cho học sinh cách lưu trữ  tư  liệu để phục vụ cho những mục tiêu khác.  Những tư liệu mà các em tìm được sẽ là những minh chứng sống động  làm cho giờ học trở nên thực tế hơn. Hơn nữa, các em sẽ phấn khởi, tự tin khi  khiến thức mà mình thu thập được thầy cô ứng dụng vào bài học, được các   bạn trong lớp phân tích, mổ xẻ trở thành những kiến thức sống động.  * Tổ chức cho học sinh tích cực hoạt động theo nhóm           Đây là giải pháp nhằm bảo đảm quá trình học tập diễn ra tích cực và   hiệu quả. Thông qua đó, làm cho việc học của học sinh trở  nên linh hoạt,  không máy móc, đồng thời sử  dụng tối đa các nguồn lực dạy học và tạo   không gian hoạt động đa dạng, thoải mái, tràn đầy năng lượng. Môi trường  học tập theo nhóm sẽ  tạo cơ  hội giúp học sinh tự  nghiên cứu, tự  bộc lộ  để  thể  hiện năng lực và kết quả  nghiên cứu của cá nhân. Nhờ  việc thảo luận   13
  14. giữa các thành viên trong nhóm kết hợp với việc thảo luận toàn lớp mà kiến  thức thu được của học sinh bớt phần chủ  quan, phiến diện, làm tăng thêm   tính khách quan, khoa học. Qua việc hợp tác giữa các học sinh mà kiến thức  trở  nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ. Ngoài ra học tập theo nhóm kết hợp với  thảo luận toàn lớp còn giúp các em phát triển ý thức làm việc tập thể, phát  huy trí tuệ tập thể, phát huy tính tích cực học tập, năng lực tự  học, năng lực   tổ chức, quản lý, tự quản của học.  Phát triển năng lực tự học là hình thành cho các em lòng say mê học hỏi,   năng lực độc lập suy nghĩ, tư  duy sáng tạo. Giáo viên phải luôn cố  gắng tạo   cho học sinh một ý thức tự  giác học tập, một phương pháp tự  học, tự  củng   cố, phát triển kiến thức trước và sau giờ  học. Bằng cách này, qua bài học,   giáo viên có thể hình thành cho học sinh một số kỹ năng tự học như kỹ năng  thu thập tư liệu, hình ảnh minh họa, kỹ năng ứng dụng kiến thức đã học vào  thực tiễn… Đây chính là nền móng vững chắc giúp các em học tập tốt hơn   trong trường Đại học hoặc các em vẫn có thể  tự  mình học hỏi, nghiên cứu,  cập nhật kiến thức khi không có điều kiện học tiếp. Có như  vậy thế  hệ trẻ  mới có đủ  bản lĩnh để  vững tin bước vào đời đối mặt với sự  thay đổi của   cuộc sống. CHƯƠNG 2: TỰ HỌC – TỪ LÝ THUYẾT SOI CHIẾU VÀO THỰC TIỄN 2.1. THỰC TRẠNG TỰ HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG Vấn đề  tự  học từ  lâu đã trở  thành yêu cầu sống còn trong nhà trường   phổ thông. “Mỗi thầy cô là một tấm gương tự học và sáng tạo ” vì như cố thủ  tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Dạy học là nghề  cao quý nhất trong những   nghề cao quý, sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo”. Để tạo nên những  con người có ý thức, vận dụng tri thức kỹ năng, kỹ  xảo, con người độc lập,  14
  15. tự  chủ và sáng tạo, đáp  ứng nhu cầu ngày càng cao của sự  nghiệp xây dựng   xã hội mới, người thầy tất yếu phải tự  học. Đối với học sinh, tự  học trong   nhà trường phổ thông là những bước đi đầu tiên trên hành trình khám phá biển  tri thức mênh mông của nhân loại.  Tuy nhiên, một thực trạng đáng báo động hiện nay là tự  học vẫn chưa   được quan tâm đúng mức, hoặc trở nên biến tướng. Học sinh ít có nhu cầu tự  học như  một thói quen, một đam mê mà chủ  yếu tự  học qua một nhiệm vụ  học tập đã được giáo viên chuyển giao trước đó. Tự học trước khi học bài, tự  học khi học trên lớp, tự  học sau khi học bài không còn hiệu quả  với nhiều  hình thức biến tướng. Học sinh làm bài tập về  nhà chống đối, chuẩn bị  bài   đối phó; chưa có sự đầu tư thời gian thực sự; với việc thu thập thông tin, học  sinh chỉ cần một cú nhắp chuột, một thao tác trên chiếc smart phone là có thể  có hàng trăm thông tin hay có, dở có, giá trị có và vô giá trị cũng có. Đôi khi, tự  học chỉ  diễn ra thực sự  khi có hoạt động dự  giờ, thăm lớp hay khi giáo viên   phát động các chương trình dạy học dự án. Tuy nhiên, sau khi tiết học qua đi,  học sinh lại trở về với nếp học cũ, nhận thức cũ: Ngồi nghe giảng – ghi chép   và cố  gắng ghi nhớ  càng nhiều, càng lâu càng tốt. Bên cạnh đó, nhiều học  sinh còn có tâm lý “Chán học”, coi việc học là “vô bổ”. Hiện tượng đó diễn ra   khi học sinh tham gia kinh doanh Online, tham gia các hoạt động giải trí hoặc  mải mê yêu thích, sùng bái các thần tượng…  Người giáo viên đôi khi cũng bị  những guồng quay của các hoạt động   chuyên môn mà sao nhãng ý thức tự học. Tự học là một quá trình, cần kiên trì,  cần bền bỉ, phải làm sao để  học sinh từ  việc bắt buộc thực hiện đến có nhu   cầu tự học, thích thú tự học và hình thành thói quen tự học thì lại càng không   dễ. Để  hình thành năng lực tự học của học sinh, giáo viên phải thực sự  kiên  trì, tránh tâm lý nóng vội, tính chủ  quan, áp đặt, phải gạt bỏ  tư  tưởng “nhồi  nhét kiến thức” để  hướng tới mục tiêu lớn hơn là tính độc lập, tự  chủ  của  học sinh. Đối mặt với những vấn đề đó, nhiều giáo viên vẫn còn ngại ngần,   15
  16. chưa dám mạnh dạn phát huy năng lực tự học của học sinh hoặc có phát triển  mô hình tự học xong chưa có tính bền bỉ, lâu dài. Nguyên nhân tự  học vẫn chưa  được phát huy, chưa khơi dậy  được  niềm ham thích là do sự tác động tiêu cực của Khoa học công nghệ hiện đại.   Khi học sinh chưa điều khiển, kiểm soát được hành vi của mình trước những  cám dỗ  của mạng xã hội, internet… Khi giáo viên phải đối mặt với sự  tác  động của nền kinh tế  thị  trường, áp lực chuyên môn, áp lực cuộc sống là  những sợi dây vô hình trói buộc khả  năng sáng tạo và tự  học bền bỉ  của   người thầy.  2.2. THỰC TRẠNG TỰ HỌC TRONG BỘ MÔN NGỮ VĂN Ngữ  Văn là một trong những bộ  môn quan trọng, bắt buộc được đưa  vào giảng dạy  ở nhà trường phổ  thông. Dạy Văn, dạy chữ, dạy Người. Học  Văn là học cái hay, cái đẹp, học cách cảm thụ. Xưa nay, nhắc tới dạy Văn và  học Văn người ta thường nghĩ tới những giờ  giảng Văn mượt mà, làm say   đắm lòng người hay những bài văn hay giàu cảm xúc của học trò. Thế nhưng,  để  hiểu Văn, dạy Văn và học Văn thì cả  người dạy và người học phải tạo   cho mình một nền tảng kiến thức, một vốn từ phong phú. Điều đó chỉ có thể  có được thông qua con đường tự học.  Đối với giáo viên, tự  học mở  ra khả  năng tự  bồi dưỡng chuyên môn,  đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, tạo nên không khí sôi nổi  trong các giờ học. Tuy hầu hết giáo viên trực tiếp đứng lớp bộ môn Ngữ văn   đã có ý thức và đi vào đổi mới phương pháp dạy – học nhưng việc thực hiện   đôi lúc còn mang tính chất hình thức, hoặc một bộ phận thầy cô giáo qua một   thời gian đổi mới phương pháp dạy ­ học thì quay trở  lại với phương pháp   dạy học cũ. Lí do của thực tại này là thời gian và công sức cho việc chuẩn bị  một giờ  dạy học theo phương pháp mới là quá nhiều, vả  lại cần phải có sự  phối hợp tích cực của người học thì giờ  dạy theo phương pháp mới mới  16
  17. thành công. Nhiều giáo viên hiện nay vẫn còn dùng phương pháp dạy học  theo một chiều: thầy giảng, trò lắng nghe, ghi nhớ  và biết nhắc lại đúng  những điều thầy giảng là đủ. Thầy giáo chủ  động cung cấp kiến thức cho  học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình   đến học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng  kiến thức của học sinh cũng như  việc chỉ  ra cho người học một con đường  tích cực, chủ  động để  thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ  dạy được  giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết, một chiều, chưa phát huy được   tính chủ động, tích cực của học sinh trong việc khám phá, lĩnh hội tri thức. Vì   vậy giờ  học tác phẩm văn chương vẫn chưa thu hút được sự  chú ý và cộng   tác của người học, gây cho một bộ  phận học sinh tỏ ra bàng quan, thờ ơ với  văn chương.  Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự tác động của các yếu  tố  như: áp lực từ  chuyên môn, khối lượng công việc tương đối nhiều, giáo   viên xoay vòng với việc soạn bài – chấm bài – trả bài và các hoạt động khác  theo quy định của ngành. Giáo viên Ngữ  Văn phải cáng khối lượng chuyên   môn lớn với ba phân môn: Đọc Văn – Làm Văn – Tiếng Việt. Dạy học theo   đúng chuẩn kiến thức kĩ năng, phát huy năng lực người học… trong bối cảnh  như vậy là một thách thức đối với người giáo viên.  Đối với học sinh, tự học mở ra khả năng đánh thức hứng thú, ham học  hỏi, từ  đó hình thành thói quen, kĩ năng tự  học khi tiếp cận với mọi vấn đề.  Tuy nhiên, học sinh đa phần vẫn còn thụ  động trong các giờ  học Ngữ  Văn.   Các em không quan tâm đến các hoạt động để  tự  tìm đến tri thức mà quen  nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những  gì mà giáo viên đã giảng. Với tâm lý học để thi, không tự tin với kiến thức mà   mình tự  thu nạp, học sinh không dám bứt phá, sáng tạo, dám thể  hiện chính  kiến của mình. Điều này đã làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người  học, biến người học thành người quen suy nghĩ, diễn đạt bằng ý vay mượn,   lời sẵn có, thành người nô lệ  của sách vở. Không tin tưởng bản thân, không  17
  18. mạnh dạn khám phá tri thức do đó nhiều học sinh quen dựa vào văn mẫu, học   thuộc lòng đề cương một cách máy móc, hoặc sao chép trên mạng những bài  văn mẫu, những lời văn hay và coi đó nhưng kim chỉ nam của mình. Thực tế  này đã và đang diễn ra phổ biến làm mất đi khả năng tự chủ, tích cực của học   sinh. Học sinh không hào hứng với việc tự  học môn Ngữ  Văn nói chung và   phân môn Đọc Văn nói riêng. Một vài cá nhân học sinh có ý thức phản biện,  có tinh thần tự học, tìm tòi sáng tạo song nhiều phát hiện, tìm tòi mới mẻ của  học sinh được trình bày mà không đúng với những gì giáo viên đã đọc được,   đã nghiên cứu thì không được ghi nhận, thậm chí là bác bỏ ý kiến đó làm cho  người học nhụt chí trong việc phát biểu cảm nhận về tác phẩm văn học 2.3. TỰ  HỌC – CON ĐƯỜNG DẪN DẮT HỌC SINH KHÁM PHÁ TRI   THỨC TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN (VẬN DỤNG QUA VIỆC GIẢNG  DẠY BÀI: “VỘI VÀNG” – XUÂN DIỆU) 2.3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BẢN BÀI THƠ “VỘI VÀNG”  Thi phẩm “Vội vàng” của nhà thơ  Xuân Diệu được đưa vào chương  trình Ngữ  Văn 11 thuộc phân môn Đọc Văn. Một văn bản Đọc Văn được bố  trí dạy trong chương trình Ngữ  Văn thường cấu trúc mô hình khám phá tri   thức từ cơ bản đến nâng cao, từ nhận biết đến thông hiểu, vận dụng cao. Cụ  thể: ­ Cấp độ nhận biết: Được thể hiện trong phần Tiểu dẫn, cung cấp tri thức cơ  bản về tác giả, tác phẩm. Một bản tiểu sử tóm tắt được cung cấp cho người  học thấy được cái nhìn khái quát về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả.  ­ Cấp độ thông hiểu: Được thể hiện thông qua hoạt động đọc, suy ngẫm văn   bản; lý giải cách sử dụng các yếu tố ngôn ngữ, biện pháp nghệ  thuật và nội   dung, tư  tưởng của văn bản. Văn bản bài thơ  cùng những chú giải và hệ  thống các câu hỏi hướng dẫn học bài chính là gợi ý cho học sinh trong cấp độ  này. 18
  19. ­ Cấp độ  vận dụng/ vận dụng cao: Thể  hiện trong phần Luyện tập với các  câu hỏi nâng cao hoặc do chính giáo viên đặt ra để học sinh luyện tập.  Để có thể lĩnh hội văn bản bài thơ “Vội vàng”, khiến văn bản văn học  trở thành tác phẩm văn học thực thụ trong lòng người đọc thì nhất thiết việc   dạy học văn bản phải đảm bảo các bước đọc hiểu như sau:  Bước 1: Đọc ­ hiểu tầng ngôn từ: Hiểu được các từ khó, từ lạ, các phép tu  từ, hình  ảnh... Khi đọc văn bản cần hiểu được các diễn đạt, nắm bắt mạch   văn xuyên suốt từ  câu trước đến câu sau, từ  ý này chuyển sang ý khác, đặc  biệt phát hiện ra mạch ngầm – mạch hàm  ẩn, từ  đó mới phát hiện ra chất   văn. Bởi thế, cần đọc kĩ mới phát hiện ra những đặc điểm khác thường, thú  vị. Bước 2: Đọc ­ hiểu tầng hình tượng nghệ  thuật:  Hình tượng trong văn  bản văn học hàm chứa nhiều ý nghĩa. Đọc ­ hiểu hình tượng nghệ  thuật của  văn bản văn học đòi hỏi người đọc phải biết tưởng tượng, biết “cụ thể hóa”  các tình cảnh để  hiểu những điều mà ngôn từ  chỉ  có thể  biểu đạt khái quát.   Đọc ­ hiểu hình tượng nghệ thuật còn đòi hỏi phát hiện ra những mâu thuẫn  tiềm ẩn trong đó và hiểu được sự lôgic bên trong của chúng. Bước 3: Đọc ­ hiểu tầng hàm  nghĩa, tư  tưởng, tình cảm  của tác giả  trong văn bản văn học: Đọc để phát hiện được tư tưởng, tình cảm của nhà  văn   ẩn   chứa   trong   văn   bản.   Tuy   nhiên   tư   tưởng,   tình   cảm   của   tác   giả  trong văn bản Văn học thường không trực tiếp nói ra bằng lời. Chúng thường  được thể hiện  ở giữa lời, ngoài lời, vì thế  người ta đọc – hiểu tư  tưởng tác  phẩm bằng cách kết hợp ngôn từ và phương thức biểu hiện hình tượng. Mặt khác, văn bản “Vội vàng” còn mang đặc điểm của thể loại thơ trữ  tình. Thơ  nói chung và thơ  trữ  tình nói riêng là “hình thức sáng tác văn học,   phản ánh cuộc sống, thể  hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ  bằng ngôn ngữ  hàm súc, giàu hình ảnh, nhất là nhịp điệu”. Tìm hiểu một bài  19
  20. thơ  là khám phá điệu tâm hồn, cảm xúc của nhà thơ; là lắng nghe nhạc điệu  bên ngoài và nhạc điệu bên trong của bài thơ   ấy. Hơn hết, “Vội vàng” là thi  phẩm nằm trong dòng chảy thơ  ca giai đoạn 1930­1945, giữa lúc Thơ  mới  đang nảy nở giữa thi đàn văn học. Vị trí ấy, hoàn cảnh ấy khiến cho mỗi một   điệu tâm hồn, mỗi một cảm xúc, mỗi một hình  ảnh, mỗi một từ  ngữ  trong  thơ  đều có ý nghĩa độc đáo.  Ở  đó, tất yếu có cảm xúc mãnh liệt của cái tôi   trữ  tình, có những cách tân táo bạo của một hồn thơ  mới và có cả  dấu  ấn   phong cách của nhà thơ  Xuân Diệu – “nhà thơ  mới nhất trong các nhà thơ   mới”. Thi nhân lại chọn cho bài thơ  một hình thức thể  hiện phóng khoáng,  phát huy cao độ  cá tính sáng tạo ­ thể thơ tự do. Chỉ riêng 4 câu thơ  đầu tiên  được viết bằng thể  thơ  ngũ ngôn truyền thống, còn lại tất cả  các câu thơ  khác đều tự do co duỗi về vần, nhịp, số câu thơ  dài ngắn khác nhau. Sự linh   hoạt, tự  do đó tạo nên sự  chuyển đổi liên tục về  nhịp điệu, cảm xúc, góp  phần thể hiện được điệu tâm hồn của thi nhân.  Trước khi xây dựng kế hoạch tự học cho học sinh, giáo viên cần nắm   được những đặc điểm cơ bản của văn bản bài thơ, để từ  đó có những hoạch  định cụ thể cho từng cấp độ, giai đoạn tự học.   2.3.2. HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC  2.3.2.1. HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC TRƯỚC KHI HỌC BÀI * Hướng dẫn khai thác sách giáo khoa, thu thập tài liệu ­ Mục tiêu:  Bước làm này được thực hiện trong việc chuyển giao nhiệm vụ  học   tập ở tiết học trước  ở phần củng cố, dặn dò. Mục tiêu của hoạt động này là   để học sinh có ý thức và có phương pháp chuẩn bị  bài khoa học. Đồng thời,   20
nguon tai.lieu . vn