Xem mẫu

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT PHAN THÚC TRỰC =====  =====   SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG PHIẾU HỌC TẬP ĐỂ DẠY ­ HỌC CÁC BÀI “PHONG CÁCH NGÔN NGỮ” TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THUỘC LĨNH VỰC: DẠY HỌC NGỮ VĂN Tác giả   :  Phan Thị Thơm Tổ bộ môn :  Văn ­ Ngoại ngữ Năm thực hiện :  2021
  2. Số điện thoại   :  0368627199 ­ 0949161793 NĂM HỌC 2020 ­2021 2
  3. MỤC LỤC Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................. 6 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI............................................................................................................ 6 II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................. 7 III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU......................................................................... 8 IV. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM................................................................... 9 PHẦN II. NỘI DUNG................................................................................................................. 10 I. Cơ sở lí luận....................................................................................................................... 10 1. Tự học và tầm quan trọng của tự học............................................................................ 10 2. Phiếu học tập và vai trò của phiếu học tập trong dạy - học............................................ 12 3. Sự cần thiết phát triển năng lực tự học thông qua phiếu học tập khi dạy - học các bài “Phong cách ngôn ngữ”................................................................................................ 16 II. Cơ sở thực tiễn.................................................................................................................. 17 1. Thực trạng về phương pháp dạy - học các bài “Phong cách ngôn ngữ” trong sách giáo viên............................................................................................................................... 17 2. Thực trạng thiết kế bài giảng trong các tài liệu tham khảo ............................................. 19 3. Thực trạng xây dựng và sử dụng PHT khi dạy bài “Phong cách ngôn ngữ” của GV......19 4. Thực trạng về người học................................................................................................ 21 IV. NỘI DUNG ĐỀ TÀI “SỬ DỤNG PHIẾU HỌC TẬP ĐỂ DẠY- HỌC CÁC BÀI “PHONG CÁCH NGÔN NGỮ” TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HS”............................................................................................ 21 1. Đặc điểm dung lượng, cấu trúc, kiến thức và kĩ năng cần đạt khi học các bài “Phong cách ngôn ngữ” trong chương trình SGK Ngữ văn THPT hiện hành ........................... 21 2. Thiết kế, sử dụng PHT khi dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ”.............................. 25 III. THIẾT KẾ GIÁO ÁN MINH HỌA ...................................................................................... 54 V. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC CỦA ĐỀ TÀI................................................................................. 72 PHẦN III. KẾT LUẬN................................................................................................................. 74 I. Những ưu điểm của việc sử dụng PHT để dạy các bài “Phong cách ngôn ngữ” - trong chương trình Ngữ văn THPT- nhằm phát triển năng lực tự học cho HS................................ 74
  4. II. Những điều cần lưu ý khi sử dụng PHT trong dạy học nói chung và dạy các bài “Phong cách ngôn ngữ” nói riêng....................................................................................................... 74 III. Kiến nghị, đề xuất............................................................................................................. 74 IV. Lời kết.............................................................................................................................. 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................. 76 4
  5. DANH MỤC VIẾT TẮT GV Giáo viên HS Học sinh PHT Phiếu học tập SGK Sách giáo khoa THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông
  6. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ của hội nhập toàn cầu, với   sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin. Điều đó đã làm cho tri  thức nhân loại tăng lên nhanh chóng từng ngày. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi mỗi   người lao động không những phải có trình độ  học vấn cao và năng lực chuyên  môn giỏi mà còn phải thực sự năng động, sáng tạo trong mọi hoàn cảnh, phải có  năng lực tự  học và tự  rèn luyện kĩ năng thực hành nhằm đáp ứng nhu cầu học   tập suốt đời. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh khi còn đang ngồi   trên ghế  nhà trường phổ  thông là một công việc có ý nghĩa rất quan trọng. Chỉ  có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau  mỗi học sinh mới có thể  bù đắp được những thiếu khuyết về  tri thức về  đời   sống xã hội. Từ đó các em mới có được sự tự tin trong cuộc sống và công việc. 2. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm, quán triệt sâu sắc  nhiều vấn đề  về  giáo dục cụ  thể  là: Tại Hội nghị  lần thứ  8, Ban Chấp hành  Trung  ương khóa XI đã ban hành Nghị  quyết số  29­NQ/TW về  đổi mới căn   bản và toàn diện giáo dục. Nghị quyết chỉ rõ: “ Phát triển giáo dục và đào tạo   là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá   trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiên th ́ ức sang phát triển toàn diện năng lực   và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn; giáo   dục nhà trường kêt h ́ ợp với giáo dục gia đình va giao duc xã h ̀ ́ ̣ ội"; ."... “Đối với   giáo dục phổ  thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể  chất, hình thành phẩm   chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề   nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo   dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và   kỹ  năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả  năng   sáng tạo, tự  học, khuyến khích học tập suốt đời ." Đặc biệt, trong đó có nhấn  mạnh vấn đề bồi dưỡng năng lực tự học: “Tập trung nâng cao chất lượng dạy   và học, tạo ra năng lực tự học, tự  sáng tạo của học sinh, sinh viên; Bảo đảm   mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, sinh viên, phát triển mạnh mẽ   phong trào tự học, tự  đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”. Và  “Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 ” cũng yêu cầu các nhóm năng lực  mà học sinh cần đạt được: Năng lực tự  chủ  và tự  học, Năng lực giao tiếp và  hợp tác, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Trong đó, năng lực tự chủ và  tự học được xem là nhóm năng lực quan trọng nhất đối với học sinh...  3. Để  phát triển năng lực tự  chủ  và tự  học của HS, chúng ta không thể  không   kể   đến   việc   đổi   mới   các   phương   pháp,   hình   thức   tổ   chức,   kĩ   thuật,  phương tiện dạy học. Và phiếu học tập (PHT) được xem là phương tiện, kĩ   thuật có tác dụng cao trong việc phát triển năng lực tự  học, tự  nghiên cứu cho  6
  7. HS. Có thể  nói, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và sử  dụng PHT nói  riêng chính là yếu tố góp phần phát triển năng lực tự học cho HS. Đây là yếu tố  quan trọng góp phần làm nên thành công cho giáo dục, là bánh xe vận hành đưa   con tàu giáo dục đến đích mà ta mong muốn. Dĩ nhiên, để đổi mới phương pháp,   đổi mới các hình thức dạy học đòi hỏi mỗi cá nhân GV, mỗi trường học, mỗi cơ  sở  giáo dục phải thấm nhuần và thực hiện mỗi ngày, mỗi tiết học. Mỗi người   phải xem đó như là huyết mạch để làm nên sự sống cho giáo dục.  4. Trong chương trình Ngữ  văn THPT, các bài “Phong cách ngôn ngữ”  chiếm thời lượng khá lớn và có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc trang bị cho   học sinh những kiến thức nền để rèn kĩ năng nói, viết, tạo lập văn bản phục vụ  cho việc học tập và giải quyết các yêu cầu đặt ra của cuộc sống khi các em  bước vào đời. Bởi vậy, việc dạy ­ học hướng đến phát triển năng lực tự  học   cho HS khi học bài “Phong cách ngôn ngữ” là cực kì cần thiết.Thế nhưng hiện   nay, việc đầu tư  tổ  chức các phương pháp, phương tiện dạy ­ học chủ  đề  này  có nhiều GV còn xem nhẹ. Và việc phát triển năng lực tự  học cho HS khi học   các bài “Phong cách ngôn ngữ”  vì thế  cũng trở  nên ít  ỏi. Mặt khác các bài  “Phong cách ngôn ngữ” trong chương trình Ngữ  văn THPT có cách triển khai  trình tự các phần, mục nội dung trong sách giáo khoa giống nhau nên thiếu đi sự  sinh động, hấp dẫn cho cả GV và HS, chưa kích thích phát riển năng lực tự học   cho HS. 5. Để  giải quyết tình trạng  trên chúng tôi  đã  suy nghĩ và đề  xuất giải  pháp: “Sử dụng phiếu học tập để dạy ­ học các bài PHONG CÁCH NGÔN  NGỮ  trong chương trình Ngữ văn THPT nhằm phát triển năng lực tự học cho  học sinh”. 6. Đề tài này đã được thực hiện thí điểm ở những lớp tôi giảng dạy trong   năm học 2019­2020 và được áp dụng rộng rãi trong năm học 2020 ­ 2021 đem  lại những tín hiệu tích cực, phát huy được năng lực tự học của người học.  II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm này nghiên cứu nhằm hướng đến các mục đích sau   đây:  ­ Góp phần đổi mới phương pháp dạy ­ học, nâng cao hiệu quả  giảng   dạy, đặc biệt là trong tình hình đổi mới giáo dục toàn diện, hướng đến phát  triển năng lực người học như hiện nay. ­ Góp phần hình thành kĩ năng tự  học, tự  tìm kiếm, xử  lí thông tin trong  quá trình học tập các bài “Phong cách ngôn ngữ”.  ­ Giúp HS định hướng hành động, học đi đôi với hành, rèn luyện kĩ năng   giải quyết vấn đề, phát huy năng lực của mình, rèn luyện khả  năng tự  học, tự  quản bản thân. 7
  8. ­ Giúp HS có một giờ  học thoải mái, hứng thú, sôi nổi tránh tình trạng  nhàm chán vì khối kiến thức khô khan, uyên bác, hàn lâm. ­ Giúp HS sau khi học có những kĩ năng: phân tích đánh giá, nhận xét, khả  năng tổng hợp vấn đề, khái quát sơ đồ tư duy. Kĩ năng tạo lập văn bản, kĩ năng   sử dụng CNTT. ­ Góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình làm sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi đã sử  dụng các  phương pháp nghiên cứu sau đây:  ­ Phương pháp thu thập và xử lí thông tin. ­ Phương pháp phân tích ­ tổng hợp. ­ Phương pháp khảo sát thực tế. ­ Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề. ­ Phương pháp so sánh đối chiếu. ­ Phương pháp hoạt động thực hành thực tiễn. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu ­Chùm bài “Phong cách ngôn ngữ” trong chương trình Ngữ  văn THPT,  bao gồm các bài sau đây:  + Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (Ngữ văn lớp 10 cơ bản, tập 1) + Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (Ngữ văn lớp 10 cơ bản, tập 2) + Phong cách ngôn ngữ báo chí (Ngữ văn lớp 11 cơ bản, tập 1) + Phong cách ngôn ngữ chính luận (Ngữ văn lớp 11 cơ bản, tập 2) + Phong cách ngôn ngữ khoa học (Ngữ văn lớp 12 cơ bản, tập 1) + Phong cách ngôn ngữ hành chính (Ngữ văn lớp 12 cơ bản, tập 2) ­ Học sinh bậc Trung học phổ thông. ­ Giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn Trung học phổ thông. ­ PHT sử dụng trong dạy học. 2. Phạm vi nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm này chỉ nghiên cứu ở phạm vi thiết kế và sử dụng  phương tiện PHT để  dạy ­ học các bài “Phong cách ngôn ngữ” trong chương   trình Ngữ văn THPT nhằm phát triển năng lực tự học cho HS. Giờ học từ thiên   về  thuyết giảng kiến thức, chủ  yếu sử  dụng phương pháp đàm thoại sang sử  8
  9. dụng PHT để  học sinh được làm nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn. Tạo thành  môi trường để học sinh tự học, tự tìm tòi, chiếm lĩnh tri thức. IV. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, sáng kiến kinh nghiệm này triển khai  các nội dung sau đây:  I. Cơ sở lí luận 1. Tự học và tầm quan trọng của năng lực tự học  2. Phiếu học tập và tầm quan trọng của phiếu học tập  3. Sự  cần thiết phát triển năng lực tự  học thông qua phiếu học tập khi  dạy ­ học các bài “Phong cách ngôn ngữ” II.Cơ sở thực tiễn 1. Khảo sát thực trạng về  phương pháp dạy ­ học chủ  đề  “Phong cách  ngôn ngữ” trong sách giáo viên Ngữ văn THPT:  2. Khảo sát thực trạng về  nội dung và phương pháp dạy ­ học trong các   tài liệu liên quan đến bài học:  3. Khảo sát thực trạng về người dạy:  4. Khảo sát thực trạng về người học:  III. Đề  xuất giải pháp: Sử  dụng PHT để  dạy ­ học các bài “Phong  cách ngôn ngữ„ trong chương trình Ngữ  văn THPT nhằm phát huy năng  lực tự học cho HS. 1. Thiết kế, sử dụng loại PHT dùng trong hoạt động khởi động. 2. Thiết kế, sử  dụng loại PHT dùng trong hoạt động hình thành kiến thức   mới. 3. Thiết kế, sử dụng loại PHT dùng trong hoạt động luyện tập, thực hành. 4. Thiết kế, sử dụng loại PHT dùng trong hoạt động tìm tòi, mở rộng. IV. Giáo án minh họa V. Kết quả của đề tài 1. Qua phỏng vấn, điều tra  2. Qua bài tập khảo sát 9
  10. PHẦN II. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận Như đã nói ở trên, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, lượng  thông tin ngày càng gia tăng. Theo tính toán của các chuyên gia trong lĩnh vực xã   hội học, thì lượng thông tin tăng gấp đôi cứ  sau khoảng 5­6 năm. Bên cạnh đó,  chương trình dạy học được thiết kế  theo hướng ngày càng tinh gọn. Số  tiết   truyền đạt trực tiếp trên lớp giảm, trong khi yêu cầu đối với người học ngày  càng cao. Do vậy, hơn lúc nào hết, tầm quan trọng của tự học càng tăng. Trong  điều kiện như  vậy thì những gì HS tiếp thu được từ  nhà trường sẽ  ít hơn rất   nhiều so với những điều các em tiếp thu được  ở  gia đình và xã hội. Dạy học   trong nhà trường lúc này không phải cung cấp một khối lượng tri thức hàn lâm,  kinh điển mà là dạy cho người học phương pháp tiếp cận thông tin, phương  pháp tư  duy để  HS có thể  tiếp tục học sau khi rời ghế  nhà trường. Dạy học   hiện nay là phải hướng đến dạy HS cách đọc, cách tự  học để  học tập suốt  đời. Để  làm được điều đó trong quá trình dạy, GV phải bồi dưỡng cho HS   phương pháp tự  học: Chủ động sáng tạo, tự  mình thực hiện nhiệm vụ  học tập  và nghiên cứu.  1. Tự học và tầm quan trọng của tự học a. Khái niệm tự học  Hiện nay có rất nhiều tài liệu nói về vấn đề  tự  học của HS. Cụ thể, tác  giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 bàn về khái niệm tự  học: “Tự  học là người học tích cực chủ  động, tự  mình tìm ra tri thức kinh   nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình.Tự học là tự  đặt mình vào   tình huống học, vào vị  trí nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn   đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. Trong bài phát biểu tại hội thảo “Nâng cao chất lượng dạy học” tổ chức   vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cũng cho rằng: “Học   bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích   lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự  cải tạo tư  duy   của mình và rèn luyện cho mình kỹ năng thực hành những tri thức ấy”. `Nhưng đáng chú ý hơn là quan niệm sát với việc tự  học của HS, SV   của tác giả  Nguyễn Cảnh Toàn “Tự  học là sự  động não, suy nghĩ sử  dụng   năng lực trí tuệ  (quan sát, so sánh, phân tích…) và có khi cả  cơ  bắp (khi sử   dụng công cụ) cùng các phẩm chất chính của chính bản thân ngườ i học (tính   trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa   học) cả  động cơ, tình cảm, cả  nhân sinh quan, thế  giới quan để  chiếm lĩnh   một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó theo sở  hữu   của mình” ­ “Tự  học có thể  hiểu là hình thức hoạt động nhận thức của cá   10
  11. nhân nhằm nắm vững hệ  thống tri th ức và kỹ  năng do chính học sinh, sinh   viên tiến hành trên lớp,  ở  ngoài lớp theo hoặc không theo chương trình và   sách giáo khoa đã quy định, tự  học là một hình thức tổ  chức dạy học cơ  bản   ở  đại học có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân như  có quan   hệ chặt chẽ với quá trình dạy học” ­ theo Lưu Xuân Mới (2000). Từ  những quan niệm trên đây, có thể  nhận thấy rằng, các tác giả  định   nghĩa khái niệm tự  học chủ  yếu nhấn mạnh tự học  chính là tự giác, chủ  động  trong học tập nhằm vươn lên nắm bắt tri thức của cá nhân người học. Từ đó mà  tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của mỗi cá nhân sẽ được phát triển không ngừng  trong quá trình tự học của mình. Nhưng các ý kiến trên chưa chỉ ra và thống nhất  ở  con đường tự  học của người học. Người học tự học bằng hình thức nào, tự  đọc sách, tự  học hoàn toàn hay tự  học có hướng dẫn của GV? Cá nhân người  học ở đây là ở lứa tuổi nào? Bởi vậy chúng ta có thể bổ sung định nghĩa tự học   như  sau:  Tự  học là một quá trình người học tự  giác tìm kiếm, tiếp nhận, lĩnh   hội tri thức có chủ đích nhằm phục vụ nhu cầu học tập, làm việc, hiểu biết của   bản thân. Tự học diễn ra  ở mọi lứa tuổi (tuổi đi học, đi làm, nghỉ hưu …), giới   tính (nam, nữ). Ở mỗi giai đoạn của cuộc đời, con người có nhu cầu tự học các   nội dung khác nhau. Với đối tượng HS đang ngồi trên ghế  nhà trường, tự  học   chủ  yếu là tự  tìm tòi, mở  rộng hiểu biết kiến thức về  các môn học, bài học   nhằm phục vụ nhu cầu hiểu biết, thi cử, nghiên cứu khoa học (ở bước tập làm   quen, HS có sự  hướng dẫn tích cực từ  GV như  các kì thi sáng tạo khoa học kĩ   thuật   dành   cho   HS   THCS,   THPT).Tự   học   được   thực   hiện   bằng   nhiều   con   đường, nhiều cách khác nhau nhưng khởi nguồn trước hết là từ hướng dẫn của   thầy   cô,   bên   cạnh   đó còn học hỏi   ở   bạn   bè,   tìm   tòi   nghiên   cứu   sách   vở,   tự   học hỏi, quan sát từ  thực tế, tự  mình làm việc, hành động để  hình thành thói   quen học tập. Tự  học đóng một vai trò rất quan trọng trên con đường học vấn  của mỗi người.   b. Tầm quan trọng của tự học:  Tự  học có vai trò rất quan trọng đối với bản thân học sinh, gia đình nhà  trường và xã hội. + Đối với HS:  ­ Tự học giúp các em tự khám phá kiến thức một cách tốt nhất.Tự học là  kỹ năng giúp các em tu dưỡng được sự tự giác cao, làm chủ trong suy nghĩ hành   động của mình, tự  bản thân tìm tòi kiến thức, tự  khám phá những điều tốt đẹp  và mới lạ mà trong khuôn khổ một giờ học trên lớp không thực hiện được.  ­ Tự  học giúp HS thể  hiện được khả  năng bản thân một cách thoải mái  nhất, thể  hiện được những điểm mạnh, năng khiếu của bản thân. Tự  học giúp  các em ý thức được bản thân cần gì, đam mê gì để  tự  mình có thể  vạch ra kế  hoạch mục tiêu cho cuộc sống sau này. 11
  12. ­ Tự học giúp HS giải quyết mọi vấn đề trong học tập, lao động một cách   linh hoạt, chủ động. Tự học luôn là yếu tố cần thiết của con người hiện đại. + Đối với gia đình:  ­ Khi con em mình có ý thức trong việc tự học, phụ huynh cũng rất vui và   tin tưởng. Khi thấy con tự giác ngồi bàn học, tất bật với đống kiến thức khi các  kỳ  thi sắp đến thì phụ  huynh càng thấy thương con em mình hơn. Và đầu tư  mọi điều kiện để phục vụ con học tập. ­ Khi con có kỹ  năng tự  học phụ  huynh cũng không mất nhiều thời gian,  công sức hay tiền bạc nhiều vào việc rèn luyện ý thức cho các con. Đồng thời,   khi thấy con em mình thực sự có ý thức học tập ôn luyện thì cha mẹ  luôn thấy   tự  hào, hãnh diện và nỗi lo lắng khi con va chạm cuộc sống bên ngoài cũng  giảm dần.  + Đối với nhà trường:  ­ Tự học trên trường được thể hiện qua việc các em tự giác tập trung lắng  nghe thầy cô giảng dạy, tự  ghi chép kiến thức đầy đủ, tự  nghiên cứu bài tập  trước mỗi buổi học và tự khám phá cách học tốt nhất phù hợp với bản thân khi   học tập. Thầy cô sẽ  không thấy mệt mỏi cũng như  không thấy căng thẳng khi  dạy những em có ý thức học tập tốt. Tự học không chỉ  giúp kiến thức của các  em vững chắc mà còn giúp quá trình dạy học của thầy cô đỡ vất vả, không mất   thời gian công sức trong việc dạy đi dạy lại kiến thức cho những em không có ý  thức trong học tập. c. Những con đường tự học:   Tự  học có nhiều con đường, nhiều hình thức khác nhau. Có thể  kể  đến   như:  ­ Tự học bằng con đường tự đọc sách, tự tìm tòi.  ­ Tự học bằng con đường học hỏi bạn bè, học những người xung quanh;  ­ Tự học dưới sự hướng dẫn của GV… ­ Tự học trên lớp, tự học ở nhà…   Song, với đối tượng HS THPT tự học chủ yếu thực hiện dưới sự hướng   dẫn của GV. Mà một trong những phương tiện để giúp HS tự học là PHT.  Từ những phân tích trên, rõ ràng chúng ta thấy, tự  học có một tầm quan  trọng rất lớn, rất toàn diện. Tự  học có nhiều con đường khác nhau, mỗi con   đường đều có tác dụng giúp cho HS thu nhận được kiến thức, phương pháp học  và hơn cả là giúp HS hình thành và phát triển năng lực cần thiết của con thời đại  mới. Tự học sẽ giúp cho HS hội nhập với xã hội hiện đại vững vàng hơn, tự tin  hơn có nhiều cơ hội chiếm lĩnh thành công hơn. 2. Phiếu học tập và vai trò của phiếu học tập trong dạy ­ học 12
  13. a. Khái niệm phiếu học tập:  PHT là một công cụ  khá quen thuộc đối với giáo viên. Đã có nhiều quan  niệm về  PHT, cụ  thể  như  PGS, TS Đậu Thị  Hòa cho rằng:  PHT là những tờ   giấy rời, có in sẵn những thông tin, số  liệu, sự  kiện cần thiết nhưng không có   trong SGK để yêu cầu HS phân tích, khai thác kiến thức phục vụ  bài học hoặc   có ghi sẵn những nhiệm vụ học tập dưới dạng những vấn đề, các câu hỏi, bài   tập để HS giải quyết. Cũng theo tác giả này, PHT được xem là những phiếu bổ  sung thông tin ngoài SGK, giao nhiệm vụ để HS giải quyết. Cùng quan điểm với  tác giả Đậu Thị Hòa, tác giả Đỗ Thị Hồng Hạnh cũng cho rằng: PHT là những   thông tin bằng giấy hoặc dạng giấy do GV thiết kế, gồm một số tờ có vai trò   học liệu để  bổ  sung cho sách và tài liệu giáo khoa quy định, có chức năng hỗ   trợ  giảng dạy vừa như là công cụ  hoạt động vừa tạo điều kiện cho hoạt động   của người dạy và người học. Nhưng đáng chú ý hơn cả là định nghĩa của tác giả  Hoàng Thanh Tú. Ông cho rằng: “PHT là bản phác thảo những công việc học   tập của HS (có thể  thực hiện  ở nhà hoặc  ở  lớp), làm việc cá nhân hoặc nhóm   trong khoảng thời gian nhất định nhằm đạt được mục tiêu bài học. Hình thức   PHT rất phong phú, đa dạng, có thể  thiết kế  một, hai câu hỏi, bài tập, bảng   biểu, sơ đồ, đề cương... để HS trả lời, trình bày hoặc sắp xếp thông tin... nhằm   hình thành và phát triển kĩ năng nhất định”... Tuy nhiên các quan niệm trên đây  chưa có sự thống nhất về nội dung PHT là kiến thức trong hay ngoài SGK, thời  gian sử  dụng trên lớp hay  ở  nhà, sử  dụng cho cá nhân HS, nhóm HS, hay kết   hợp.  Vì vậy ta có thể bổ sung khái niệm PHT như sau: PHT là một công cụ hỗ   trợ  dạy ­ học do GV thiết kế gồm một hoặc một số tờ giấy rời hiển th ị   bảng   biểu, sơ đồ, câu hỏi, tranh, sơ đồ tư duy… trên đó ghi các câu hỏi, bài tập, tình   huống, nhiệm vụ học tập... theo nội dung bài học để HS hoàn thành ở nhà hoặc   tại lớp trong những thời điểm thích hợp kèm theo các gợi ý, hướng dẫn của giáo   viên. Dựa vào nhiệm vụ đó, học sinh thực hiện hoặc ghi các thông tin cần thiết   để tìm hiểu nội dung, mở rộng kiến thức, bổ sung kiến thức hoặc củng cố bài   học trong một khoảng thời gian nhất định.  b. Vai trò phiếu học tập:  ­ Là một phương tiện dạy học giúp cho GV tổ  chức hoạt động học tập   của HS, yêu cầu HS thực hiện các nhiệm vụ do GV đưa ra.  ­ Là nơi cung cấp thông tin và sự kiện, dữ liệu hoặc sự kiện dùng làm cơ  sở cho một hoạt động nhận thức nào đó.  ­ PHT chứa đựng các câu hỏi, bài tập, yêu cầu hoạt động, những vấn đề  để  yêu cầu HS giải quyết, hoặc thực hiện kèm theo những hướng dẫn, gợi ý  cách làm. ­ PHT là phương tiện hỗ trợ cho việc giao tiếp, tương tác giữa người học   13
  14. và bài học, giữa người học với người học và người học với người dạy. Như  vậy, có thể  nói sử  dụng PHT là điều cần thiết trong tổ  chức hoạt  động học giúp HS tự học, tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự dẫn dắt của GV. Nhằm  giúp HS hình thành kiến thức, kích thích tư  duy độc lập, tính tích cực, tự  giác,   sáng tạo và rèn thói quen tư duy cho HS. c. Yêu cầu của PHT:  ­ Bám sát mục tiêu, nội dung bài học/ hoạt động học. “Mục tiêu của bài học” không chỉ là phần xác định kiến thức, kĩ năng cần   đạt của bài học mà quan trọng hơn là qua đó GV xác định, định hướng sẽ  phát  triển năng lực nào của người học. Bởi vậy trong quá trình sử dụng PHT GV nhất  thiết phải bám sát mục tiêu bài học. Từ  mục tiêu đó GV xây dựng cho mình   những cách thức, phương tiện, PHT nào để  có thể  phát triển được năng lực tự  học của người học. ­ PHT phải đảm bảo tính chính xác. Tính chính xác của PHT trước hết là sự chính xác của kiến thức khoa học,  ngôn từ, diễn đạt, sơ  đồ, bảng biểu phải phù hợp với trình độ  nhận thức của   HS. ­ PHT phải triển khai đủ  các mức độ, từ  dễ  đến khó, từ  nhận biết đến  thông hiểu, vận dụng. ­ PHT về hình thức phải thiết kế khoa học, dễ sử dụng d. Phân loại phiếu học tập:  ­ Dựa vào mục đích PHT gồm có: Phiếu học bài, phiếu ôn tập, phiếu kiểm   tra.  ­ Dựa vào nội dung học tập, có:  + Phiếu thông tin: Nội dung gồm các thông tin bổ  sung, mở  rộng, minh  họa cho các kiến thức cơ bản của bài học.  + Phiếu bài tập: Nội dung là các bài tập nhận thức hoặc bài tập củng cố.  + Phiếu yêu cầu: Nội dung là các vấn đề  và tình huống cần phải giải   quyết.  + Phiếu thực hành: Nội dung liên quan đến những nhiệm vụ  thực hành,   rèn luyện kĩ năng. e. Quy trình thiết kế PHT:  PHT nên thiết kế theo hoạt động của bài học. Tùy vào kiến thức và hoạt   động học tập của mỗi bài học mà GV quyết định lựa chọn, sử  dụng số  lượng  phiếu khác nhau. Mỗi hoạt động học cần thiết kế  2 đến 3 câu hỏi, bài tập   tương ứng. Quy trình thiết kế PHT được thực hiện theo các bước sau đây:  14
  15. Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học/ hoạt động học. Ở bước này GV cần xác định rõ mục tiêu cần đạt của bài học và mục tiêu  của hoạt động học cụ thể để các kiến thức học sinh được định hướng học tập   đi đúng trọng tâm, chính xác, rõ ràng. Bước 2: Xác định nhiệm vụ  học tập cho học sinh  ở từng hoạt động học   tậ p Ở  bước này GV căn cứ  vào mục tiêu của hoạt động học để  xác định  nhiệm vụ học tập, HS cần thực hiện những công việc gì. Bước 3: Xác định những hoạt động cụ thể trong bài cần thiết lập PHT Thông thường, mỗi tiết học theo định hướng phát triển năng lực như hiện  nay được tổ chức theo 5 hoạt động:  Hoạt động 1: Khởi động Hoạt động 2: Hình thành kiến thức  Hoạt động 3: Luyện tập  Hoạt động 4: Vận dụng  Hoạt động 5: Tìm tòi, mở rộng  GV căn cứ vào mục tiêu của các hoạt động này để thiết kế PHT phù hợp. Bước 4: Xác định nội dung, mức độ  đánh giá nhận thức HS của PHT và  cách trình bày phiếu. + GV thiết kế  PHT theo các mức độ  từ  dễ  đến khó để  tất cả  HS với   những năng lực khác nhau có thể tham gia. Cụ thể theo các mức sau:  Mức 1: Nhớ, chỉ ra... (Nhận biết) Mức 2: Hiểu, phân tích (Thông hiểu) Mức 3: Đánh giá, vận dụng sáng tạo (Vận dụng) + PHT được trình bày theo nhiều dạng thức khác nhau:  ­ Dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm khách quan ­ Dạng bài tập, tình huống ­ Dạng sơ đồ, bảng biểu   Bước 5: Viết PHT     PHT được trình bày trên một mặt giấy với ngôn ngữ chính xác, dễ hiểu.  Trên phiếu có thể  được sử  dụng cả  văn bản (chữ) lẫn sơ  đồ, hình thức rất đa  dạng để tạo hứng thú học tập cho các em.    Cấu trúc của PHT gồm:  15
  16. ­ Thông tin: Tên phiếu (phiếu học tập), tên bài học, tên nhóm hoặc tên cá   nhân thực hiện. ­ Thời gian hoàn thành nội dung trên PHT. ­ Yêu cầu cần thực hiện: Là những câu lệnh ngắn gọn cần thực hiện và   những khoảng trống để  học sinh tự  trả  lời. (Nếu là phiếu nêu câu hỏi hay bài  tập hướng dẫn HS tự  học  ở  nhà thì có thể  có hoặc không cần để  các khoảng  trống cho HS trả lời) ­ Nếu trong một tiết dạy, GV dự  định sử  dụng nhiều hơn một PHT thì   nên ghi rõ là PHT số mấy trên các phiếu.    Trên đây là những kiến thức lí thuyết, hiểu biết chung về PHT mà GV   cần nắm khi thiết kế, sử  dụng PHT vào dạy học. Tuy nhiên, vận dụng thành   công PHT  ở  mức độ  nào, phù hợp với loại bài nào còn phụ  thuộc vào mỗi GV   khi thiết kế. Nhưng có thể  khẳng định chắc chắn một điều rằng, PHT là một   phương tiện dạy học quan trọng, nó giúp cho GV và HS hướng đến thực hiện   nhiệm vụ  bài học một cách tốt nhất, giúp HS phát triển khả  năng tư  duy độc   lập, sáng tạo, tăng cường động cơ học tập, bày tỏ cảm xúc chân thật của người  học. 3. Sự  cần thiết phát triển năng lực tự  học thông qua phiếu học tập   khi dạy ­ học các bài “Phong cách ngôn ngữ” Trong quá trình dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ”, GV có thể  sử  dụng nhiều phương pháp, cách thức dạy học khác nhau. Tuy nhiên sử  dụng   phương pháp dạy học nào còn phụ  thuộc vào hoàn cảnh, đối tượng, nội dung   dạy học. Sử dụng PHT cũng là một phương pháp dạy học phát huy được nhiều   năng lực của người học. Trong đó năng lực tự học được kích hoạt và phát triển  mạnh mẽ nhất. Học sinh bậc THPT là đối tượng có tâm lí lứa tuổi đang muốn khẳng định   cái tôi cá nhân, muốn mọi người công nhận. Đồng thời các em có ý thức cao về  việc học và đối mặt với các kì thi nên việc tự  học để  chuẩn bị  kiến thức làm  hành trang vào đời được các em chú trọng.  Một số  nội dung thuộc các bài “Phong cách ngôn ngữ” đã được các em   tiếp xúc ở những lớp học bậc THCS. Cho nên đây là điều kiện để GV tích hợp  các kiến thức nội môn mà HS đã học. Cụ thể là:  TT Lớp Bài Tiết 1 7 ­ Tìm hiểu chung về văn bản hành chính 115 ­ Văn bản đề nghị 120 ­ Văn bản báo cáo 124 2 8 ­ Văn bản tường trình 127 16
  17. ­ Văn bản thông báo 137 3 9 ­ Biên bản 145 ­ Hợp đồng 150 ­ Thư, điện 171, 172  Và trong thực tế cuộc sống các loại văn bản “Phong cách ngôn ngữ” cũng   đã được các em tiếp xúc, ví dụ  như: viết Đơn xin nghỉ  học, Đơn xin vào Đoàn,   Bản tự kiểm điểm... (Phong cách ngôn ngữ  hành chính), viết thư, nhắn tin, gọi   điện (Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt) hay trong tích hợp môn Ngữ văn gồm: các  văn bản thơ, truyện (Phong cách ngôn ngữ  nghệ  thuật) hoặc các em được đọc  các bài báo, nghe tin thời sự... (Phong cách ngôn ngữ báo chí). Bởi vậy đây chính   là những lí do, là điều kiện thuận lợi để  GV có thể  xây dựng và sử  dụng PHT   để phát triển năng lực tự học ở HS.  II. Cơ sở thực tiễn Qua khảo sát phương pháp dạy ­ học các bài “Phong cách ngôn ngữ” trong   các tài liệu sách giáo khoa, sách giáo viên, các bài soạn giảng trên mạng Intrernet   và thực tế  dạy ­ học trên lớp của bản thân, đồng nghiệp trong trường, trên địa  bàn huyện Yên Thành những năm qua, chúng tôi nhận thấy có những thực trạng  sau đây:  1. Thực trạng về  phương pháp dạy ­ học các bài “Phong cách ngôn   ngữ” trong sách giáo viên Sách GV Ngữ văn 10 (tập 1, NXB Giáo dục tr 147), khi hướng dẫn giảng   dạy bài “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” (tiết 1) có viết: “GV cần sử dụng thao   tác khái quát hóa các hiện tượng cụ thể, tức là từ hiện tượng sử dụng ngôn ngữ   để  đi đến khái niệm. Muốn khái quát hóa hiện tượng sử  dụng ngôn ngữ, GV   hướng dẫn HS thực hiện các thao tác:  a, Nêu hiện tượng: đọc ví dụ (yêu cầu đọc đúng và diễn cảm) b,Trả lời câu hỏi và nhận xét về  hiện tượng, rút ra định nghĩa hoặc tính   chất, đặc điểm sơ  bộ.”. Và sau đó sách GV hướng dẫn tiến trình bài học bằng   cách nêu các các câu hỏi đàm thoại, các kiến thức về đặc trưng của phong cách  ngôn ngữ sinh hoạt.  Sách GV Ngữ  văn 10 (tập 2, NXB Giáo dục tr 147), phần hướng dẫn   phương pháp dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ  nghệ thuật” viết: “ Giảng dạy   bài này muốn đạt kết quả cao, GV nhất thiết phải hướng dẫn cho HS chuẩn bị   bài kĩ lưỡng ở nhà, đặc biệt là những câu hỏi trọng tâm. Cũng có thể điều chỉnh   bổ sung câu hỏi, nếu thấy cần thiết. Đến lớp GV có thể chia nhóm để HS phát   17
  18. biểu, thảo luận. Trên cơ  sở  đó GV tổng kết giải đáp, khắc sâu một số  vấn đề   quan trọng.” Sách GV Ngữ  văn 11 (tập 1, NXB Giáo dục tr 144), hướng dẫn phương   pháp dạy học “Phong cách ngôn ngữ báo chí” viết:  “+ Đọc  ở  lớp các bài báo hoặc đoạn trích trong SGK để  HS nhận thức   trực quan về  ngôn ngữ  báo chí. GV không coi nhẹ  và bỏ  qua các ngữ  liệu mà   cần kết hợp dạy cách đọc mạch lạc, tự nhiên, diễn cảm. + Nêu câu hỏi, hướng dẫn HS hình thành khái niệm; khái quát đặc trưng   của ngôn ngữ báo chí. +Cho HS đàm thoại, tổng kết” Sách GV Ngữ  văn 11 (tập 2, NXB Giáo dục tr 126), hướng dẫn phương   pháp dạy học “Phong cách ngôn ngữ chính luận” cũng viết:  “Gv kết hợp trình bày vừa đàm thoại vừa diễn giảng và hướng dẫn HS   trả lời các câu hỏi đã được chuẩn bị trước.” Sách GV Ngữ  văn 12 (tập 1, NXB Giáo dục tr 64) hướng dẫn phương   pháp dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ  khoa học” viết: “  Để  đi tới các khái   niệm trên, GV phải cho HS tìm nhiều ví dụ trong thực tế về hai phương diện:  a, Các dạng và các loại văn bản của ngôn ngữ khoa học +  Các dạng: dạng viết (báo cáo khoa học, luận văn, luận án, sách giáo   khoa...) và dạng nói (bài giảng, nói chuyện khoa học, thảo luận, tranh luận khoa   học...) + Các loại văn bản khoa học: loại văn bản khoa học chuyên sâu, loại văn   bản khoa học giáo khoa, loại văn bản khoa học phổ cập. + Từ nhận xét về các dạng, các loại văn bản khoa học, rút ra định nghĩa   ngôn ngữ khoa học. b, Khái niệm và đặc trưng của phong cách ngôn ngữ khoa học Dù có nhiều dạng và nhiều loại, phong cách ngôn ngữ  khoa học vẫn có   một số yêu cầu cụ thể. HS có thể nêu các yêu cầu này và từ đó GV đúc rút thành   ba đặc trưng, cũng là ba dấu hiệu cơ bản: tính khái quát, trừu tượng; tính lí trí,   lôgic và tính khách quan, phi cá thể.” Sách GV  Ngữ  văn  12  (tập 2,  NXB  Giáo  dục  tr  152)  mục  hướng dẫn   phương pháp dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ hành chính” viết rằng:  “+ GV gợi ý cho HS tự hình thành kiến thức bằng cách nhận xét văn bản   hành chính, những yêu cầu sử dụng ngôn ngữ hành chính. + HS đọc, hiểu, làm một số  bài tập dễ  (ví dụ  điền vào chỗ  trống trong   văn bản in sẵn) để tạo ý thức về văn bản hành chính.” 18
  19. Từ   những   hướng   dẫn   phương   pháp   dạy   học   của   sách   GV   Ngữ   văn  10,11,12, chúng ta có thể nhận thấy:  * Ưu điểm: Sách GV đã hướng dẫn các phương pháp dạy học như: tìm  hiểu phân tích ví dụ mẫu, đàm thoại, diễn giảng để rút ra những kiến thức cần   thiết của bài học. * Nhược điểm: Sách GV đang thiên về  trình bày nội dung kiến thức bài   học, chưa có các phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực tự  học  cho HS cũng như  phát triển phẩm chất người học. Mặt khác, hình thức dạy ­   học, phương tiện dạy học chưa thật đa dạng, sinh động, chưa tạo được hứng  thú cũng như phát triển năng lực tự học cho HS. 2. Thực trạng thiết kế bài giảng trong các tài liệu tham khảo  ­ Sách “Giới thiệu giáo án Ngữ  văn 12, tập 1, Nguyễn Hải Châu (chủ  biên) NXB Hà Nội, tr 62­ tr 65”, viết về  bài “Phong cách ngôn ngữ  khoa học”  chủ  yếu thiết kế  theo phương pháp đàm thoại, sách này nêu những câu hỏi và   định hướng trả lời theo hệ thống kiến thức như sách GV. Ở đây hoạt động chủ  yếu của GV và HS là hỏi ­ đáp, Ví dụ: “Hoạt động của GV và HS” chỉ nêu các   câu hỏi: Thế  nào là văn bản khoa học? Thế nào là ngôn ngữ  khoa học? Phong   cách ngôn ngữ khoa học có mấy đặc trưng? Đặc trưng thứ  ba của phong cách   ngôn ngữ  khoa học là gì?; phần “Yêu cầu cần đạt” là nội dung kiến thức của  bài học. Tương tự  các bài soạn về  “Phong cách ngôn ngữ” khác trong chương   trình Ngữ văn THPT cũng như vậy. Nhìn vào giáo án này, rõ ràng chúng ta thấy:  phương pháp dạy học được thiết kế  rất đơn điệu, chưa đa dạng về  phương   pháp, chưa sử dụng phương tiện nào kích thích và phát triển năng lực tự học cho  HS, chưa hướng đến hình thành phẩm chất năng lực theo yêu cầu của dạy ­ học   hiện nay. ­ Khảo sát thêm các giáo án giảng dạy bài “Phong cách ngôn ngữ” trên các  trang http: //giaoan.violet.vn, http: //Vanhay.edu.vn chúng tôi thấy, những giáo án  đưa lên trước đây chủ yếu sử dụng phương pháp đàm thoại. Song trong vài năm  trở  lại đây phương pháp dạy các bài này đã được cải thiện rõ rệt. Không còn  hiện tượng độc tôn phương pháp đàm thoại mà đã đa dạng hình thức dạy học.   Tuy vậy những giáo án này vẫn chưa sử  dụng nhiều và sử  dụng có hệ  thống   PHT để phát triển năng lực tự học cho HS. 3. Thực trạng xây dựng và sử  dụng PHT khi dạy bài “Phong cách  ngôn ngữ” của GV * Thực trạng sử dụng phương pháp dạy học của GV:  Qua việc khảo sát 22 GV  ở trên địa bàn huyện Yên Thành, chúng tôi nhận   thấy: GV đã bám sát mục tiêu đảm bảo thực hiện đúng nội dung bài học, kiến thức   chính xác, khoa học. GV cũng đã nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học. Bên cạnh   sử  dụng phương pháp đàm thoại GV còn sử  dụng phương pháp thảo luận nhóm,   19
  20. nêu và giải quyết vấn đề. Giờ  học vì thế  cũng trở  nên sinh động, năng lực HS  được phát huy. Tuy nhiên, các hoạt động dạy ­ học này chưa chú trọng đến việc hình  thành và phát triển năng lực tự  học cho HS. Đặc biệt, đại đa số  GV không sử  dụng PHT như một phương tiện kích thích năng lực tự học của người học. Cụ thể bảng khảo sát điều tra như sau:  Mức độ sử dụng Phương pháp dạy học Thường xuyên  Ít sử dụng Không sử dụng sử dụng Thuyết   trình   ­   giảng  18 81,8% 04 18,2% 0 0% giải Hỏi đáp ­ tái hiện 19 86,4% 03 13,6% 0 0% Thảo luận nhóm 05 22,7% 15 68,2% 2 9,1% Nêu   ­Giải   quyết   vấn  8 36,4% 13 59,1% 1 4,5% đề Các phương pháp khác 8 36,4% 10 45,5% 4 18,1% Sử dụng PHT 0 100% 10 45,5% 12 54,5% * Thực trạng xây dựng và sử dụng PHT khi dạy học các bài “Phong cách  ngôn ngữ” trong chương trình Ngữ văn THPT hiện hành của GV. Cũng qua phiếu khảo sát 22 GV trên chúng tôi thu được:  + Thầy/ cô có sử dụng PHT để dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ”? ­   Sử   dụng   thường   xuyên:   0   GV   (0%)   ­   Sử   dụng   thỉnh   thoảng:   12GV   (54,5%) ­ Không sử dụng: 10 GV (45,5%) + Thầy/ cô có cho rằng sử dụng PHT là thực sự cần thiết? ­ Cần thiết: 18GV (81,8%) ­ Rất cần thiết: 3 GV (13,7%)   ­ Không cần  thiết: 1 GV (4,5%) + Thầy/ cô có cho rằng sử  dụng PHT kết hợp với các phương pháp dạy   học khác sẽ đem lại hiệu quả học tập? ­ Hiệu quả  cao: 18 GV (81,8%)   ­ Hiệu quả  thấp: 1 GV (4,5%)   ­ Bình  thường: 3GV (13,7%) + Thầy/cô sử dụng PHT chủ yếu trong hoạt động nào của bài học? ­ Khởi động: 4GV (18,2%) ­ Hình thành kiến thức mới: 15GV (68,2%) ­   Luyện tập: 3GV (13,6%)  Học ở nhà: 0% 20
nguon tai.lieu . vn