- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập để dạy - học các bài Phong cách ngôn ngữ trong chương trình Ngữ văn THPT nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh
Xem mẫu
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT PHAN THÚC TRỰC
===== =====
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG PHIẾU HỌC TẬP ĐỂ DẠY HỌC
CÁC BÀI “PHONG CÁCH NGÔN NGỮ”
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT
NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
CHO HỌC SINH
THUỘC LĨNH VỰC: DẠY HỌC NGỮ VĂN
Tác giả : Phan Thị Thơm
Tổ bộ môn : Văn Ngoại ngữ
Năm thực hiện : 2021
- Số điện thoại : 0368627199 0949161793
NĂM HỌC 2020 2021
2
- MỤC LỤC
Trang
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................. 6
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI............................................................................................................ 6
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................. 7
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU......................................................................... 8
IV. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM................................................................... 9
PHẦN II. NỘI DUNG................................................................................................................. 10
I. Cơ sở lí luận....................................................................................................................... 10
1. Tự học và tầm quan trọng của tự học............................................................................ 10
2. Phiếu học tập và vai trò của phiếu học tập trong dạy - học............................................ 12
3. Sự cần thiết phát triển năng lực tự học thông qua phiếu học tập khi dạy - học các bài
“Phong cách ngôn ngữ”................................................................................................ 16
II. Cơ sở thực tiễn.................................................................................................................. 17
1. Thực trạng về phương pháp dạy - học các bài “Phong cách ngôn ngữ” trong sách giáo
viên............................................................................................................................... 17
2. Thực trạng thiết kế bài giảng trong các tài liệu tham khảo ............................................. 19
3. Thực trạng xây dựng và sử dụng PHT khi dạy bài “Phong cách ngôn ngữ” của GV......19
4. Thực trạng về người học................................................................................................ 21
IV. NỘI DUNG ĐỀ TÀI “SỬ DỤNG PHIẾU HỌC TẬP ĐỂ DẠY- HỌC CÁC BÀI “PHONG
CÁCH NGÔN NGỮ” TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT NHẰM PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HS”............................................................................................ 21
1. Đặc điểm dung lượng, cấu trúc, kiến thức và kĩ năng cần đạt khi học các bài “Phong
cách ngôn ngữ” trong chương trình SGK Ngữ văn THPT hiện hành ........................... 21
2. Thiết kế, sử dụng PHT khi dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ”.............................. 25
III. THIẾT KẾ GIÁO ÁN MINH HỌA ...................................................................................... 54
V. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC CỦA ĐỀ TÀI................................................................................. 72
PHẦN III. KẾT LUẬN................................................................................................................. 74
I. Những ưu điểm của việc sử dụng PHT để dạy các bài “Phong cách ngôn ngữ” - trong
chương trình Ngữ văn THPT- nhằm phát triển năng lực tự học cho HS................................ 74
- II. Những điều cần lưu ý khi sử dụng PHT trong dạy học nói chung và dạy các bài “Phong
cách ngôn ngữ” nói riêng....................................................................................................... 74
III. Kiến nghị, đề xuất............................................................................................................. 74
IV. Lời kết.............................................................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................. 76
4
- DANH MỤC VIẾT TẮT
GV Giáo viên
HS Học sinh
PHT Phiếu học tập
SGK Sách giáo khoa
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ của hội nhập toàn cầu, với
sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin. Điều đó đã làm cho tri
thức nhân loại tăng lên nhanh chóng từng ngày. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi mỗi
người lao động không những phải có trình độ học vấn cao và năng lực chuyên
môn giỏi mà còn phải thực sự năng động, sáng tạo trong mọi hoàn cảnh, phải có
năng lực tự học và tự rèn luyện kĩ năng thực hành nhằm đáp ứng nhu cầu học
tập suốt đời. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh khi còn đang ngồi
trên ghế nhà trường phổ thông là một công việc có ý nghĩa rất quan trọng. Chỉ
có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau
mỗi học sinh mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri thức về đời
sống xã hội. Từ đó các em mới có được sự tự tin trong cuộc sống và công việc.
2. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm, quán triệt sâu sắc
nhiều vấn đề về giáo dục cụ thể là: Tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29NQ/TW về đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục. Nghị quyết chỉ rõ: “ Phát triển giáo dục và đào tạo
là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiên th
́ ức sang phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn; giáo
dục nhà trường kêt h
́ ợp với giáo dục gia đình va giao duc xã h
̀ ́ ̣ ội"; ."... “Đối với
giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm
chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề
nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và
kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng
sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời ." Đặc biệt, trong đó có nhấn
mạnh vấn đề bồi dưỡng năng lực tự học: “Tập trung nâng cao chất lượng dạy
và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, sinh viên; Bảo đảm
mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, sinh viên, phát triển mạnh mẽ
phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”. Và
“Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 ” cũng yêu cầu các nhóm năng lực
mà học sinh cần đạt được: Năng lực tự chủ và tự học, Năng lực giao tiếp và
hợp tác, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Trong đó, năng lực tự chủ và
tự học được xem là nhóm năng lực quan trọng nhất đối với học sinh...
3. Để phát triển năng lực tự chủ và tự học của HS, chúng ta không thể
không kể đến việc đổi mới các phương pháp, hình thức tổ chức, kĩ thuật,
phương tiện dạy học. Và phiếu học tập (PHT) được xem là phương tiện, kĩ
thuật có tác dụng cao trong việc phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho
6
- HS. Có thể nói, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và sử dụng PHT nói
riêng chính là yếu tố góp phần phát triển năng lực tự học cho HS. Đây là yếu tố
quan trọng góp phần làm nên thành công cho giáo dục, là bánh xe vận hành đưa
con tàu giáo dục đến đích mà ta mong muốn. Dĩ nhiên, để đổi mới phương pháp,
đổi mới các hình thức dạy học đòi hỏi mỗi cá nhân GV, mỗi trường học, mỗi cơ
sở giáo dục phải thấm nhuần và thực hiện mỗi ngày, mỗi tiết học. Mỗi người
phải xem đó như là huyết mạch để làm nên sự sống cho giáo dục.
4. Trong chương trình Ngữ văn THPT, các bài “Phong cách ngôn ngữ”
chiếm thời lượng khá lớn và có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc trang bị cho
học sinh những kiến thức nền để rèn kĩ năng nói, viết, tạo lập văn bản phục vụ
cho việc học tập và giải quyết các yêu cầu đặt ra của cuộc sống khi các em
bước vào đời. Bởi vậy, việc dạy học hướng đến phát triển năng lực tự học
cho HS khi học bài “Phong cách ngôn ngữ” là cực kì cần thiết.Thế nhưng hiện
nay, việc đầu tư tổ chức các phương pháp, phương tiện dạy học chủ đề này
có nhiều GV còn xem nhẹ. Và việc phát triển năng lực tự học cho HS khi học
các bài “Phong cách ngôn ngữ” vì thế cũng trở nên ít ỏi. Mặt khác các bài
“Phong cách ngôn ngữ” trong chương trình Ngữ văn THPT có cách triển khai
trình tự các phần, mục nội dung trong sách giáo khoa giống nhau nên thiếu đi sự
sinh động, hấp dẫn cho cả GV và HS, chưa kích thích phát riển năng lực tự học
cho HS.
5. Để giải quyết tình trạng trên chúng tôi đã suy nghĩ và đề xuất giải
pháp: “Sử dụng phiếu học tập để dạy học các bài PHONG CÁCH NGÔN
NGỮ trong chương trình Ngữ văn THPT nhằm phát triển năng lực tự học cho
học sinh”.
6. Đề tài này đã được thực hiện thí điểm ở những lớp tôi giảng dạy trong
năm học 20192020 và được áp dụng rộng rãi trong năm học 2020 2021 đem
lại những tín hiệu tích cực, phát huy được năng lực tự học của người học.
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm này nghiên cứu nhằm hướng đến các mục đích sau
đây:
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng
dạy, đặc biệt là trong tình hình đổi mới giáo dục toàn diện, hướng đến phát
triển năng lực người học như hiện nay.
Góp phần hình thành kĩ năng tự học, tự tìm kiếm, xử lí thông tin trong
quá trình học tập các bài “Phong cách ngôn ngữ”.
Giúp HS định hướng hành động, học đi đôi với hành, rèn luyện kĩ năng
giải quyết vấn đề, phát huy năng lực của mình, rèn luyện khả năng tự học, tự
quản bản thân.
7
- Giúp HS có một giờ học thoải mái, hứng thú, sôi nổi tránh tình trạng
nhàm chán vì khối kiến thức khô khan, uyên bác, hàn lâm.
Giúp HS sau khi học có những kĩ năng: phân tích đánh giá, nhận xét, khả
năng tổng hợp vấn đề, khái quát sơ đồ tư duy. Kĩ năng tạo lập văn bản, kĩ năng
sử dụng CNTT.
Góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp thu thập và xử lí thông tin.
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp khảo sát thực tế.
Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề.
Phương pháp so sánh đối chiếu.
Phương pháp hoạt động thực hành thực tiễn.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Chùm bài “Phong cách ngôn ngữ” trong chương trình Ngữ văn THPT,
bao gồm các bài sau đây:
+ Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (Ngữ văn lớp 10 cơ bản, tập 1)
+ Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (Ngữ văn lớp 10 cơ bản, tập 2)
+ Phong cách ngôn ngữ báo chí (Ngữ văn lớp 11 cơ bản, tập 1)
+ Phong cách ngôn ngữ chính luận (Ngữ văn lớp 11 cơ bản, tập 2)
+ Phong cách ngôn ngữ khoa học (Ngữ văn lớp 12 cơ bản, tập 1)
+ Phong cách ngôn ngữ hành chính (Ngữ văn lớp 12 cơ bản, tập 2)
Học sinh bậc Trung học phổ thông.
Giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn Trung học phổ thông.
PHT sử dụng trong dạy học.
2. Phạm vi nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm này chỉ nghiên cứu ở phạm vi thiết kế và sử dụng
phương tiện PHT để dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ” trong chương
trình Ngữ văn THPT nhằm phát triển năng lực tự học cho HS. Giờ học từ thiên
về thuyết giảng kiến thức, chủ yếu sử dụng phương pháp đàm thoại sang sử
8
- dụng PHT để học sinh được làm nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn. Tạo thành
môi trường để học sinh tự học, tự tìm tòi, chiếm lĩnh tri thức.
IV. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, sáng kiến kinh nghiệm này triển khai
các nội dung sau đây:
I. Cơ sở lí luận
1. Tự học và tầm quan trọng của năng lực tự học
2. Phiếu học tập và tầm quan trọng của phiếu học tập
3. Sự cần thiết phát triển năng lực tự học thông qua phiếu học tập khi
dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ”
II.Cơ sở thực tiễn
1. Khảo sát thực trạng về phương pháp dạy học chủ đề “Phong cách
ngôn ngữ” trong sách giáo viên Ngữ văn THPT:
2. Khảo sát thực trạng về nội dung và phương pháp dạy học trong các
tài liệu liên quan đến bài học:
3. Khảo sát thực trạng về người dạy:
4. Khảo sát thực trạng về người học:
III. Đề xuất giải pháp: Sử dụng PHT để dạy học các bài “Phong
cách ngôn ngữ„ trong chương trình Ngữ văn THPT nhằm phát huy năng
lực tự học cho HS.
1. Thiết kế, sử dụng loại PHT dùng trong hoạt động khởi động.
2. Thiết kế, sử dụng loại PHT dùng trong hoạt động hình thành kiến thức
mới.
3. Thiết kế, sử dụng loại PHT dùng trong hoạt động luyện tập, thực hành.
4. Thiết kế, sử dụng loại PHT dùng trong hoạt động tìm tòi, mở rộng.
IV. Giáo án minh họa
V. Kết quả của đề tài
1. Qua phỏng vấn, điều tra
2. Qua bài tập khảo sát
9
- PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Như đã nói ở trên, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, lượng
thông tin ngày càng gia tăng. Theo tính toán của các chuyên gia trong lĩnh vực xã
hội học, thì lượng thông tin tăng gấp đôi cứ sau khoảng 56 năm. Bên cạnh đó,
chương trình dạy học được thiết kế theo hướng ngày càng tinh gọn. Số tiết
truyền đạt trực tiếp trên lớp giảm, trong khi yêu cầu đối với người học ngày
càng cao. Do vậy, hơn lúc nào hết, tầm quan trọng của tự học càng tăng. Trong
điều kiện như vậy thì những gì HS tiếp thu được từ nhà trường sẽ ít hơn rất
nhiều so với những điều các em tiếp thu được ở gia đình và xã hội. Dạy học
trong nhà trường lúc này không phải cung cấp một khối lượng tri thức hàn lâm,
kinh điển mà là dạy cho người học phương pháp tiếp cận thông tin, phương
pháp tư duy để HS có thể tiếp tục học sau khi rời ghế nhà trường. Dạy học
hiện nay là phải hướng đến dạy HS cách đọc, cách tự học để học tập suốt
đời. Để làm được điều đó trong quá trình dạy, GV phải bồi dưỡng cho HS
phương pháp tự học: Chủ động sáng tạo, tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập
và nghiên cứu.
1. Tự học và tầm quan trọng của tự học
a. Khái niệm tự học
Hiện nay có rất nhiều tài liệu nói về vấn đề tự học của HS. Cụ thể, tác
giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 bàn về khái niệm tự
học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh
nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình.Tự học là tự đặt mình vào
tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn
đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
Trong bài phát biểu tại hội thảo “Nâng cao chất lượng dạy học” tổ chức
vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cũng cho rằng: “Học
bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích
lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy
của mình và rèn luyện cho mình kỹ năng thực hành những tri thức ấy”.
`Nhưng đáng chú ý hơn là quan niệm sát với việc tự học của HS, SV
của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn “Tự học là sự động não, suy nghĩ sử dụng
năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích…) và có khi cả cơ bắp (khi sử
dụng công cụ) cùng các phẩm chất chính của chính bản thân ngườ i học (tính
trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa
học) cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh
một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó theo sở hữu
của mình” “Tự học có thể hiểu là hình thức hoạt động nhận thức của cá
10
- nhân nhằm nắm vững hệ thống tri th ức và kỹ năng do chính học sinh, sinh
viên tiến hành trên lớp, ở ngoài lớp theo hoặc không theo chương trình và
sách giáo khoa đã quy định, tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản
ở đại học có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân như có quan
hệ chặt chẽ với quá trình dạy học” theo Lưu Xuân Mới (2000).
Từ những quan niệm trên đây, có thể nhận thấy rằng, các tác giả định
nghĩa khái niệm tự học chủ yếu nhấn mạnh tự học chính là tự giác, chủ động
trong học tập nhằm vươn lên nắm bắt tri thức của cá nhân người học. Từ đó mà
tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của mỗi cá nhân sẽ được phát triển không ngừng
trong quá trình tự học của mình. Nhưng các ý kiến trên chưa chỉ ra và thống nhất
ở con đường tự học của người học. Người học tự học bằng hình thức nào, tự
đọc sách, tự học hoàn toàn hay tự học có hướng dẫn của GV? Cá nhân người
học ở đây là ở lứa tuổi nào? Bởi vậy chúng ta có thể bổ sung định nghĩa tự học
như sau: Tự học là một quá trình người học tự giác tìm kiếm, tiếp nhận, lĩnh
hội tri thức có chủ đích nhằm phục vụ nhu cầu học tập, làm việc, hiểu biết của
bản thân. Tự học diễn ra ở mọi lứa tuổi (tuổi đi học, đi làm, nghỉ hưu …), giới
tính (nam, nữ). Ở mỗi giai đoạn của cuộc đời, con người có nhu cầu tự học các
nội dung khác nhau. Với đối tượng HS đang ngồi trên ghế nhà trường, tự học
chủ yếu là tự tìm tòi, mở rộng hiểu biết kiến thức về các môn học, bài học
nhằm phục vụ nhu cầu hiểu biết, thi cử, nghiên cứu khoa học (ở bước tập làm
quen, HS có sự hướng dẫn tích cực từ GV như các kì thi sáng tạo khoa học kĩ
thuật dành cho HS THCS, THPT).Tự học được thực hiện bằng nhiều con
đường, nhiều cách khác nhau nhưng khởi nguồn trước hết là từ hướng dẫn của
thầy cô, bên cạnh đó còn học hỏi ở bạn bè, tìm tòi nghiên cứu sách vở, tự
học hỏi, quan sát từ thực tế, tự mình làm việc, hành động để hình thành thói
quen học tập. Tự học đóng một vai trò rất quan trọng trên con đường học vấn
của mỗi người.
b. Tầm quan trọng của tự học:
Tự học có vai trò rất quan trọng đối với bản thân học sinh, gia đình nhà
trường và xã hội.
+ Đối với HS:
Tự học giúp các em tự khám phá kiến thức một cách tốt nhất.Tự học là
kỹ năng giúp các em tu dưỡng được sự tự giác cao, làm chủ trong suy nghĩ hành
động của mình, tự bản thân tìm tòi kiến thức, tự khám phá những điều tốt đẹp
và mới lạ mà trong khuôn khổ một giờ học trên lớp không thực hiện được.
Tự học giúp HS thể hiện được khả năng bản thân một cách thoải mái
nhất, thể hiện được những điểm mạnh, năng khiếu của bản thân. Tự học giúp
các em ý thức được bản thân cần gì, đam mê gì để tự mình có thể vạch ra kế
hoạch mục tiêu cho cuộc sống sau này.
11
- Tự học giúp HS giải quyết mọi vấn đề trong học tập, lao động một cách
linh hoạt, chủ động. Tự học luôn là yếu tố cần thiết của con người hiện đại.
+ Đối với gia đình:
Khi con em mình có ý thức trong việc tự học, phụ huynh cũng rất vui và
tin tưởng. Khi thấy con tự giác ngồi bàn học, tất bật với đống kiến thức khi các
kỳ thi sắp đến thì phụ huynh càng thấy thương con em mình hơn. Và đầu tư
mọi điều kiện để phục vụ con học tập.
Khi con có kỹ năng tự học phụ huynh cũng không mất nhiều thời gian,
công sức hay tiền bạc nhiều vào việc rèn luyện ý thức cho các con. Đồng thời,
khi thấy con em mình thực sự có ý thức học tập ôn luyện thì cha mẹ luôn thấy
tự hào, hãnh diện và nỗi lo lắng khi con va chạm cuộc sống bên ngoài cũng
giảm dần.
+ Đối với nhà trường:
Tự học trên trường được thể hiện qua việc các em tự giác tập trung lắng
nghe thầy cô giảng dạy, tự ghi chép kiến thức đầy đủ, tự nghiên cứu bài tập
trước mỗi buổi học và tự khám phá cách học tốt nhất phù hợp với bản thân khi
học tập. Thầy cô sẽ không thấy mệt mỏi cũng như không thấy căng thẳng khi
dạy những em có ý thức học tập tốt. Tự học không chỉ giúp kiến thức của các
em vững chắc mà còn giúp quá trình dạy học của thầy cô đỡ vất vả, không mất
thời gian công sức trong việc dạy đi dạy lại kiến thức cho những em không có ý
thức trong học tập.
c. Những con đường tự học:
Tự học có nhiều con đường, nhiều hình thức khác nhau. Có thể kể đến
như:
Tự học bằng con đường tự đọc sách, tự tìm tòi.
Tự học bằng con đường học hỏi bạn bè, học những người xung quanh;
Tự học dưới sự hướng dẫn của GV…
Tự học trên lớp, tự học ở nhà…
Song, với đối tượng HS THPT tự học chủ yếu thực hiện dưới sự hướng
dẫn của GV. Mà một trong những phương tiện để giúp HS tự học là PHT.
Từ những phân tích trên, rõ ràng chúng ta thấy, tự học có một tầm quan
trọng rất lớn, rất toàn diện. Tự học có nhiều con đường khác nhau, mỗi con
đường đều có tác dụng giúp cho HS thu nhận được kiến thức, phương pháp học
và hơn cả là giúp HS hình thành và phát triển năng lực cần thiết của con thời đại
mới. Tự học sẽ giúp cho HS hội nhập với xã hội hiện đại vững vàng hơn, tự tin
hơn có nhiều cơ hội chiếm lĩnh thành công hơn.
2. Phiếu học tập và vai trò của phiếu học tập trong dạy học
12
- a. Khái niệm phiếu học tập:
PHT là một công cụ khá quen thuộc đối với giáo viên. Đã có nhiều quan
niệm về PHT, cụ thể như PGS, TS Đậu Thị Hòa cho rằng: PHT là những tờ
giấy rời, có in sẵn những thông tin, số liệu, sự kiện cần thiết nhưng không có
trong SGK để yêu cầu HS phân tích, khai thác kiến thức phục vụ bài học hoặc
có ghi sẵn những nhiệm vụ học tập dưới dạng những vấn đề, các câu hỏi, bài
tập để HS giải quyết. Cũng theo tác giả này, PHT được xem là những phiếu bổ
sung thông tin ngoài SGK, giao nhiệm vụ để HS giải quyết. Cùng quan điểm với
tác giả Đậu Thị Hòa, tác giả Đỗ Thị Hồng Hạnh cũng cho rằng: PHT là những
thông tin bằng giấy hoặc dạng giấy do GV thiết kế, gồm một số tờ có vai trò
học liệu để bổ sung cho sách và tài liệu giáo khoa quy định, có chức năng hỗ
trợ giảng dạy vừa như là công cụ hoạt động vừa tạo điều kiện cho hoạt động
của người dạy và người học. Nhưng đáng chú ý hơn cả là định nghĩa của tác giả
Hoàng Thanh Tú. Ông cho rằng: “PHT là bản phác thảo những công việc học
tập của HS (có thể thực hiện ở nhà hoặc ở lớp), làm việc cá nhân hoặc nhóm
trong khoảng thời gian nhất định nhằm đạt được mục tiêu bài học. Hình thức
PHT rất phong phú, đa dạng, có thể thiết kế một, hai câu hỏi, bài tập, bảng
biểu, sơ đồ, đề cương... để HS trả lời, trình bày hoặc sắp xếp thông tin... nhằm
hình thành và phát triển kĩ năng nhất định”... Tuy nhiên các quan niệm trên đây
chưa có sự thống nhất về nội dung PHT là kiến thức trong hay ngoài SGK, thời
gian sử dụng trên lớp hay ở nhà, sử dụng cho cá nhân HS, nhóm HS, hay kết
hợp.
Vì vậy ta có thể bổ sung khái niệm PHT như sau: PHT là một công cụ hỗ
trợ dạy học do GV thiết kế gồm một hoặc một số tờ giấy rời hiển th ị bảng
biểu, sơ đồ, câu hỏi, tranh, sơ đồ tư duy… trên đó ghi các câu hỏi, bài tập, tình
huống, nhiệm vụ học tập... theo nội dung bài học để HS hoàn thành ở nhà hoặc
tại lớp trong những thời điểm thích hợp kèm theo các gợi ý, hướng dẫn của giáo
viên. Dựa vào nhiệm vụ đó, học sinh thực hiện hoặc ghi các thông tin cần thiết
để tìm hiểu nội dung, mở rộng kiến thức, bổ sung kiến thức hoặc củng cố bài
học trong một khoảng thời gian nhất định.
b. Vai trò phiếu học tập:
Là một phương tiện dạy học giúp cho GV tổ chức hoạt động học tập
của HS, yêu cầu HS thực hiện các nhiệm vụ do GV đưa ra.
Là nơi cung cấp thông tin và sự kiện, dữ liệu hoặc sự kiện dùng làm cơ
sở cho một hoạt động nhận thức nào đó.
PHT chứa đựng các câu hỏi, bài tập, yêu cầu hoạt động, những vấn đề
để yêu cầu HS giải quyết, hoặc thực hiện kèm theo những hướng dẫn, gợi ý
cách làm.
PHT là phương tiện hỗ trợ cho việc giao tiếp, tương tác giữa người học
13
- và bài học, giữa người học với người học và người học với người dạy.
Như vậy, có thể nói sử dụng PHT là điều cần thiết trong tổ chức hoạt
động học giúp HS tự học, tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự dẫn dắt của GV. Nhằm
giúp HS hình thành kiến thức, kích thích tư duy độc lập, tính tích cực, tự giác,
sáng tạo và rèn thói quen tư duy cho HS.
c. Yêu cầu của PHT:
Bám sát mục tiêu, nội dung bài học/ hoạt động học.
“Mục tiêu của bài học” không chỉ là phần xác định kiến thức, kĩ năng cần
đạt của bài học mà quan trọng hơn là qua đó GV xác định, định hướng sẽ phát
triển năng lực nào của người học. Bởi vậy trong quá trình sử dụng PHT GV nhất
thiết phải bám sát mục tiêu bài học. Từ mục tiêu đó GV xây dựng cho mình
những cách thức, phương tiện, PHT nào để có thể phát triển được năng lực tự
học của người học.
PHT phải đảm bảo tính chính xác.
Tính chính xác của PHT trước hết là sự chính xác của kiến thức khoa học,
ngôn từ, diễn đạt, sơ đồ, bảng biểu phải phù hợp với trình độ nhận thức của
HS.
PHT phải triển khai đủ các mức độ, từ dễ đến khó, từ nhận biết đến
thông hiểu, vận dụng.
PHT về hình thức phải thiết kế khoa học, dễ sử dụng
d. Phân loại phiếu học tập:
Dựa vào mục đích PHT gồm có: Phiếu học bài, phiếu ôn tập, phiếu kiểm
tra.
Dựa vào nội dung học tập, có:
+ Phiếu thông tin: Nội dung gồm các thông tin bổ sung, mở rộng, minh
họa cho các kiến thức cơ bản của bài học.
+ Phiếu bài tập: Nội dung là các bài tập nhận thức hoặc bài tập củng cố.
+ Phiếu yêu cầu: Nội dung là các vấn đề và tình huống cần phải giải
quyết.
+ Phiếu thực hành: Nội dung liên quan đến những nhiệm vụ thực hành,
rèn luyện kĩ năng.
e. Quy trình thiết kế PHT:
PHT nên thiết kế theo hoạt động của bài học. Tùy vào kiến thức và hoạt
động học tập của mỗi bài học mà GV quyết định lựa chọn, sử dụng số lượng
phiếu khác nhau. Mỗi hoạt động học cần thiết kế 2 đến 3 câu hỏi, bài tập
tương ứng. Quy trình thiết kế PHT được thực hiện theo các bước sau đây:
14
- Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học/ hoạt động học.
Ở bước này GV cần xác định rõ mục tiêu cần đạt của bài học và mục tiêu
của hoạt động học cụ thể để các kiến thức học sinh được định hướng học tập
đi đúng trọng tâm, chính xác, rõ ràng.
Bước 2: Xác định nhiệm vụ học tập cho học sinh ở từng hoạt động học
tậ p
Ở bước này GV căn cứ vào mục tiêu của hoạt động học để xác định
nhiệm vụ học tập, HS cần thực hiện những công việc gì.
Bước 3: Xác định những hoạt động cụ thể trong bài cần thiết lập PHT
Thông thường, mỗi tiết học theo định hướng phát triển năng lực như hiện
nay được tổ chức theo 5 hoạt động:
Hoạt động 1: Khởi động
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức
Hoạt động 3: Luyện tập
Hoạt động 4: Vận dụng
Hoạt động 5: Tìm tòi, mở rộng
GV căn cứ vào mục tiêu của các hoạt động này để thiết kế PHT phù hợp.
Bước 4: Xác định nội dung, mức độ đánh giá nhận thức HS của PHT và
cách trình bày phiếu.
+ GV thiết kế PHT theo các mức độ từ dễ đến khó để tất cả HS với
những năng lực khác nhau có thể tham gia. Cụ thể theo các mức sau:
Mức 1: Nhớ, chỉ ra... (Nhận biết)
Mức 2: Hiểu, phân tích (Thông hiểu)
Mức 3: Đánh giá, vận dụng sáng tạo (Vận dụng)
+ PHT được trình bày theo nhiều dạng thức khác nhau:
Dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm khách quan
Dạng bài tập, tình huống
Dạng sơ đồ, bảng biểu
Bước 5: Viết PHT
PHT được trình bày trên một mặt giấy với ngôn ngữ chính xác, dễ hiểu.
Trên phiếu có thể được sử dụng cả văn bản (chữ) lẫn sơ đồ, hình thức rất đa
dạng để tạo hứng thú học tập cho các em.
Cấu trúc của PHT gồm:
15
- Thông tin: Tên phiếu (phiếu học tập), tên bài học, tên nhóm hoặc tên cá
nhân thực hiện.
Thời gian hoàn thành nội dung trên PHT.
Yêu cầu cần thực hiện: Là những câu lệnh ngắn gọn cần thực hiện và
những khoảng trống để học sinh tự trả lời. (Nếu là phiếu nêu câu hỏi hay bài
tập hướng dẫn HS tự học ở nhà thì có thể có hoặc không cần để các khoảng
trống cho HS trả lời)
Nếu trong một tiết dạy, GV dự định sử dụng nhiều hơn một PHT thì
nên ghi rõ là PHT số mấy trên các phiếu.
Trên đây là những kiến thức lí thuyết, hiểu biết chung về PHT mà GV
cần nắm khi thiết kế, sử dụng PHT vào dạy học. Tuy nhiên, vận dụng thành
công PHT ở mức độ nào, phù hợp với loại bài nào còn phụ thuộc vào mỗi GV
khi thiết kế. Nhưng có thể khẳng định chắc chắn một điều rằng, PHT là một
phương tiện dạy học quan trọng, nó giúp cho GV và HS hướng đến thực hiện
nhiệm vụ bài học một cách tốt nhất, giúp HS phát triển khả năng tư duy độc
lập, sáng tạo, tăng cường động cơ học tập, bày tỏ cảm xúc chân thật của người
học.
3. Sự cần thiết phát triển năng lực tự học thông qua phiếu học tập
khi dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ”
Trong quá trình dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ”, GV có thể sử
dụng nhiều phương pháp, cách thức dạy học khác nhau. Tuy nhiên sử dụng
phương pháp dạy học nào còn phụ thuộc vào hoàn cảnh, đối tượng, nội dung
dạy học. Sử dụng PHT cũng là một phương pháp dạy học phát huy được nhiều
năng lực của người học. Trong đó năng lực tự học được kích hoạt và phát triển
mạnh mẽ nhất.
Học sinh bậc THPT là đối tượng có tâm lí lứa tuổi đang muốn khẳng định
cái tôi cá nhân, muốn mọi người công nhận. Đồng thời các em có ý thức cao về
việc học và đối mặt với các kì thi nên việc tự học để chuẩn bị kiến thức làm
hành trang vào đời được các em chú trọng.
Một số nội dung thuộc các bài “Phong cách ngôn ngữ” đã được các em
tiếp xúc ở những lớp học bậc THCS. Cho nên đây là điều kiện để GV tích hợp
các kiến thức nội môn mà HS đã học. Cụ thể là:
TT Lớp Bài Tiết
1 7 Tìm hiểu chung về văn bản hành chính 115
Văn bản đề nghị 120
Văn bản báo cáo 124
2 8 Văn bản tường trình 127
16
- Văn bản thông báo
137
3 9 Biên bản 145
Hợp đồng 150
Thư, điện 171, 172
Và trong thực tế cuộc sống các loại văn bản “Phong cách ngôn ngữ” cũng
đã được các em tiếp xúc, ví dụ như: viết Đơn xin nghỉ học, Đơn xin vào Đoàn,
Bản tự kiểm điểm... (Phong cách ngôn ngữ hành chính), viết thư, nhắn tin, gọi
điện (Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt) hay trong tích hợp môn Ngữ văn gồm: các
văn bản thơ, truyện (Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật) hoặc các em được đọc
các bài báo, nghe tin thời sự... (Phong cách ngôn ngữ báo chí). Bởi vậy đây chính
là những lí do, là điều kiện thuận lợi để GV có thể xây dựng và sử dụng PHT
để phát triển năng lực tự học ở HS.
II. Cơ sở thực tiễn
Qua khảo sát phương pháp dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ” trong
các tài liệu sách giáo khoa, sách giáo viên, các bài soạn giảng trên mạng Intrernet
và thực tế dạy học trên lớp của bản thân, đồng nghiệp trong trường, trên địa
bàn huyện Yên Thành những năm qua, chúng tôi nhận thấy có những thực trạng
sau đây:
1. Thực trạng về phương pháp dạy học các bài “Phong cách ngôn
ngữ” trong sách giáo viên
Sách GV Ngữ văn 10 (tập 1, NXB Giáo dục tr 147), khi hướng dẫn giảng
dạy bài “Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt” (tiết 1) có viết: “GV cần sử dụng thao
tác khái quát hóa các hiện tượng cụ thể, tức là từ hiện tượng sử dụng ngôn ngữ
để đi đến khái niệm. Muốn khái quát hóa hiện tượng sử dụng ngôn ngữ, GV
hướng dẫn HS thực hiện các thao tác:
a, Nêu hiện tượng: đọc ví dụ (yêu cầu đọc đúng và diễn cảm)
b,Trả lời câu hỏi và nhận xét về hiện tượng, rút ra định nghĩa hoặc tính
chất, đặc điểm sơ bộ.”. Và sau đó sách GV hướng dẫn tiến trình bài học bằng
cách nêu các các câu hỏi đàm thoại, các kiến thức về đặc trưng của phong cách
ngôn ngữ sinh hoạt.
Sách GV Ngữ văn 10 (tập 2, NXB Giáo dục tr 147), phần hướng dẫn
phương pháp dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật” viết: “ Giảng dạy
bài này muốn đạt kết quả cao, GV nhất thiết phải hướng dẫn cho HS chuẩn bị
bài kĩ lưỡng ở nhà, đặc biệt là những câu hỏi trọng tâm. Cũng có thể điều chỉnh
bổ sung câu hỏi, nếu thấy cần thiết. Đến lớp GV có thể chia nhóm để HS phát
17
- biểu, thảo luận. Trên cơ sở đó GV tổng kết giải đáp, khắc sâu một số vấn đề
quan trọng.”
Sách GV Ngữ văn 11 (tập 1, NXB Giáo dục tr 144), hướng dẫn phương
pháp dạy học “Phong cách ngôn ngữ báo chí” viết:
“+ Đọc ở lớp các bài báo hoặc đoạn trích trong SGK để HS nhận thức
trực quan về ngôn ngữ báo chí. GV không coi nhẹ và bỏ qua các ngữ liệu mà
cần kết hợp dạy cách đọc mạch lạc, tự nhiên, diễn cảm.
+ Nêu câu hỏi, hướng dẫn HS hình thành khái niệm; khái quát đặc trưng
của ngôn ngữ báo chí.
+Cho HS đàm thoại, tổng kết”
Sách GV Ngữ văn 11 (tập 2, NXB Giáo dục tr 126), hướng dẫn phương
pháp dạy học “Phong cách ngôn ngữ chính luận” cũng viết:
“Gv kết hợp trình bày vừa đàm thoại vừa diễn giảng và hướng dẫn HS
trả lời các câu hỏi đã được chuẩn bị trước.”
Sách GV Ngữ văn 12 (tập 1, NXB Giáo dục tr 64) hướng dẫn phương
pháp dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học” viết: “ Để đi tới các khái
niệm trên, GV phải cho HS tìm nhiều ví dụ trong thực tế về hai phương diện:
a, Các dạng và các loại văn bản của ngôn ngữ khoa học
+ Các dạng: dạng viết (báo cáo khoa học, luận văn, luận án, sách giáo
khoa...) và dạng nói (bài giảng, nói chuyện khoa học, thảo luận, tranh luận khoa
học...)
+ Các loại văn bản khoa học: loại văn bản khoa học chuyên sâu, loại văn
bản khoa học giáo khoa, loại văn bản khoa học phổ cập.
+ Từ nhận xét về các dạng, các loại văn bản khoa học, rút ra định nghĩa
ngôn ngữ khoa học.
b, Khái niệm và đặc trưng của phong cách ngôn ngữ khoa học
Dù có nhiều dạng và nhiều loại, phong cách ngôn ngữ khoa học vẫn có
một số yêu cầu cụ thể. HS có thể nêu các yêu cầu này và từ đó GV đúc rút thành
ba đặc trưng, cũng là ba dấu hiệu cơ bản: tính khái quát, trừu tượng; tính lí trí,
lôgic và tính khách quan, phi cá thể.”
Sách GV Ngữ văn 12 (tập 2, NXB Giáo dục tr 152) mục hướng dẫn
phương pháp dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ hành chính” viết rằng:
“+ GV gợi ý cho HS tự hình thành kiến thức bằng cách nhận xét văn bản
hành chính, những yêu cầu sử dụng ngôn ngữ hành chính.
+ HS đọc, hiểu, làm một số bài tập dễ (ví dụ điền vào chỗ trống trong
văn bản in sẵn) để tạo ý thức về văn bản hành chính.”
18
- Từ những hướng dẫn phương pháp dạy học của sách GV Ngữ văn
10,11,12, chúng ta có thể nhận thấy:
* Ưu điểm: Sách GV đã hướng dẫn các phương pháp dạy học như: tìm
hiểu phân tích ví dụ mẫu, đàm thoại, diễn giảng để rút ra những kiến thức cần
thiết của bài học.
* Nhược điểm: Sách GV đang thiên về trình bày nội dung kiến thức bài
học, chưa có các phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực tự học
cho HS cũng như phát triển phẩm chất người học. Mặt khác, hình thức dạy
học, phương tiện dạy học chưa thật đa dạng, sinh động, chưa tạo được hứng
thú cũng như phát triển năng lực tự học cho HS.
2. Thực trạng thiết kế bài giảng trong các tài liệu tham khảo
Sách “Giới thiệu giáo án Ngữ văn 12, tập 1, Nguyễn Hải Châu (chủ
biên) NXB Hà Nội, tr 62 tr 65”, viết về bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học”
chủ yếu thiết kế theo phương pháp đàm thoại, sách này nêu những câu hỏi và
định hướng trả lời theo hệ thống kiến thức như sách GV. Ở đây hoạt động chủ
yếu của GV và HS là hỏi đáp, Ví dụ: “Hoạt động của GV và HS” chỉ nêu các
câu hỏi: Thế nào là văn bản khoa học? Thế nào là ngôn ngữ khoa học? Phong
cách ngôn ngữ khoa học có mấy đặc trưng? Đặc trưng thứ ba của phong cách
ngôn ngữ khoa học là gì?; phần “Yêu cầu cần đạt” là nội dung kiến thức của
bài học. Tương tự các bài soạn về “Phong cách ngôn ngữ” khác trong chương
trình Ngữ văn THPT cũng như vậy. Nhìn vào giáo án này, rõ ràng chúng ta thấy:
phương pháp dạy học được thiết kế rất đơn điệu, chưa đa dạng về phương
pháp, chưa sử dụng phương tiện nào kích thích và phát triển năng lực tự học cho
HS, chưa hướng đến hình thành phẩm chất năng lực theo yêu cầu của dạy học
hiện nay.
Khảo sát thêm các giáo án giảng dạy bài “Phong cách ngôn ngữ” trên các
trang http: //giaoan.violet.vn, http: //Vanhay.edu.vn chúng tôi thấy, những giáo án
đưa lên trước đây chủ yếu sử dụng phương pháp đàm thoại. Song trong vài năm
trở lại đây phương pháp dạy các bài này đã được cải thiện rõ rệt. Không còn
hiện tượng độc tôn phương pháp đàm thoại mà đã đa dạng hình thức dạy học.
Tuy vậy những giáo án này vẫn chưa sử dụng nhiều và sử dụng có hệ thống
PHT để phát triển năng lực tự học cho HS.
3. Thực trạng xây dựng và sử dụng PHT khi dạy bài “Phong cách
ngôn ngữ” của GV
* Thực trạng sử dụng phương pháp dạy học của GV:
Qua việc khảo sát 22 GV ở trên địa bàn huyện Yên Thành, chúng tôi nhận
thấy: GV đã bám sát mục tiêu đảm bảo thực hiện đúng nội dung bài học, kiến thức
chính xác, khoa học. GV cũng đã nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học. Bên cạnh
sử dụng phương pháp đàm thoại GV còn sử dụng phương pháp thảo luận nhóm,
19
- nêu và giải quyết vấn đề. Giờ học vì thế cũng trở nên sinh động, năng lực HS
được phát huy.
Tuy nhiên, các hoạt động dạy học này chưa chú trọng đến việc hình
thành và phát triển năng lực tự học cho HS. Đặc biệt, đại đa số GV không sử
dụng PHT như một phương tiện kích thích năng lực tự học của người học.
Cụ thể bảng khảo sát điều tra như sau:
Mức độ sử dụng
Phương pháp dạy học Thường xuyên
Ít sử dụng Không sử dụng
sử dụng
Thuyết trình giảng
18 81,8% 04 18,2% 0 0%
giải
Hỏi đáp tái hiện 19 86,4% 03 13,6% 0 0%
Thảo luận nhóm 05 22,7% 15 68,2% 2 9,1%
Nêu Giải quyết vấn
8 36,4% 13 59,1% 1 4,5%
đề
Các phương pháp khác 8 36,4% 10 45,5% 4 18,1%
Sử dụng PHT 0 100% 10 45,5% 12 54,5%
* Thực trạng xây dựng và sử dụng PHT khi dạy học các bài “Phong cách
ngôn ngữ” trong chương trình Ngữ văn THPT hiện hành của GV.
Cũng qua phiếu khảo sát 22 GV trên chúng tôi thu được:
+ Thầy/ cô có sử dụng PHT để dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ”?
Sử dụng thường xuyên: 0 GV (0%) Sử dụng thỉnh thoảng: 12GV
(54,5%) Không sử dụng: 10 GV (45,5%)
+ Thầy/ cô có cho rằng sử dụng PHT là thực sự cần thiết?
Cần thiết: 18GV (81,8%) Rất cần thiết: 3 GV (13,7%) Không cần
thiết: 1 GV (4,5%)
+ Thầy/ cô có cho rằng sử dụng PHT kết hợp với các phương pháp dạy
học khác sẽ đem lại hiệu quả học tập?
Hiệu quả cao: 18 GV (81,8%) Hiệu quả thấp: 1 GV (4,5%) Bình
thường: 3GV (13,7%)
+ Thầy/cô sử dụng PHT chủ yếu trong hoạt động nào của bài học?
Khởi động: 4GV (18,2%) Hình thành kiến thức mới: 15GV (68,2%)
Luyện tập: 3GV (13,6%) Học ở nhà: 0%
20
nguon tai.lieu . vn