- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện năng lực tư duy phản biện cho học sinh lớp 10 qua hai văn bản đọc hiểu Tấm Cám, Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy (Ngữ văn 10 - tập 10)
Xem mẫu
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TƯ DUY PHẢN BIỆN
CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA HAI VĂN BẢN ĐỌC - HIỂU
TẤM CÁM (TRUYỆN CỔ TÍCH), TRUYỆN AN DƯƠNG
VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU - TRỌNG THỦY (TRUYỀN
THUYẾT) -
NGỮ VĂN 10, TẬP 1
MÔN: NGỮ VĂN
Tên tác giả: CUNG THỊ THU
Tổ bộ môn: Văn - Ngoại ngữ
Năm thực hiện: 2020 - 2021
SĐT liên hệ: 0966512070
- MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
1.1. Năng lực tư duy phản biện đáp ứng nhu cầu của thời đại 4.0 1
1.2. Năng lực tư duy phản biện đáp ứng Yêu cầu - Mục tiêu cần hướng
tới của ngành giáo dục thế giới nói chung và Giáo dục Đào tạo Việt Nam
nói riêng 1
1.3. Năng lực tư duy phản biện góp phần khắc phục những hạn chế của
phương pháp dạy học ngữ văn kiểu truyền thống tại địa phương 2
1.4. Đáp ứng nhu cầu dạy và học tác phẩm Văn học dân gian nói chung
và hai văn bản Tấm Cám (Truyện cổ tích); Truyện An Dương Vương và
Mị Châu - Trọng Thủy (truyền thuyết) nói riêng (chương trình Ngữ văn
10 - Tập 1) 2
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 3
3. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
PHẦN II. NỘI DUNG 5
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 5
1. Cơ sở lý luận 5
1.1. Thuật ngữ và khái niệm “Phản biện”, “Tư duy phản biện”, “Năng lực
phản biện” 5
1.2. Mối quan hệ giữa “Tư duy phản biện” và “Năng lực phản biện” 5
1.3 Hình thức và cấu trúc của phản biện 6
2. Cơ sở thực tiễn 6
2.1. Phản biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến 6
2.2. Phản biện trong dạy học ở Việt Nam 7
2.3. Tính đặc thù của bộ môn Văn trong trường THPT 7
2.4. Tầm quan trọng việc phát triển năng lực tư duy phản biện trong dạy
học 8
Chương 2. THỰC TRẠNG PHẢN BIỆN CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC
SINH TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VĂN Ở TRƯỜNG TRUNG
- HỌC PHỔ THÔNG 10
1. Thực trạng dạy học, những khó khăn và thuận lợi 10
1.1. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn 10
1.2. Những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện kỹ năng phản
biện của thầy và trò 10
1.3. Những thuận lợi cho hoạt động phản biện theo xu hướng giáo dục
phổ thông mới và dấu hiệu tích cực đã đạt được 12
2. Thực trạng phản biện của giáo viên - học sinh trung học phổ thông nói
chung và thầy trò trường trung học phổ thông Yên Thành 2 nói riêng hiện
nay trong những giờ dạy học văn 13
3. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh lớp 10 trong 2 văn bản Tấm Cám
(truyện cổ tích), An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy (truyền
thuyết) tại trường THPT Yên Thành 2 14
3.1. Văn học dân gian . 14
3.2. Thế giới của những câu chuyện cổ tích 14
3.3. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy 15
Chương 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY KHẢ NĂNG PHẢN BIỆN
CỦA HỌC SINH TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC HAI VĂN BẢN
ĐỌC - HIỂU “TẤM CÁM”, “AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU -
TRỌNG THỦY” 17
1. Một số nguyên tắc dạy học theo hướng phát triển tư duy phản biện và
năng lực phản biện cho học sinh qua hai văn bản 17
1.1. Giáo viên kiến tạo cơ hội cho học sinh được bày tỏ quan điểm, được
thảo luận, tranh biện 17
1.2. Tôn trọng con người cá nhân, tôn trọng sự khác biệt, sẵn sàng đón
nhận năng lực đa chiều của học sinh 17
1.3. Rèn luyện năng lực tư duy phản biện cần đảm bảo thống nhất với các
mục tiêu khác khi tiến hành dạy học văn bản 18
2. Một số biện pháp phát triển tư duy phản biện và năng lực phản biện cho
học sinh qua đọc hiểu văn bản Tấm Cám, Truyện An Dương Vương và Mị
Châu - Trọng Thủy 20
2.1. Xây dựng tình huống dạy học có vấn đề 20
- 2.2. Tiến trình tổ chức trên lớp 22
3. Khả năng ứng dụng của đề tài 48
3.1. Phạm vi ứng dụng và đối tượng sử dụng 48
3.2. Hiệu quả của đề tài 48
3.3. Bảng đối chứng thực nghiệm về hiệu quả của đề tài 48
PHẦN III. KẾT LUẬN 49
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. MỘT SỐ CÁC HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
TRONG QUÁ TRÌNH LÊN LỚP
Phụ lục 2. SẢN PHẨM CỦA 3 NHÓM THEO DỰ ÁN HỌC TẬP
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT Từ viết tắt Từ đầy đủ
1 GV Giáo viên
2 HS Học sinh
3 SGK Sách giáo khoa
4 THPT Trung học phổ thông
- PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Năng lực tư duy phản biện đáp ứng nhu cầu của thời đại 4.0
Đứng trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
như hiện nay, tư duy phản biện trở thành kỹ năng đặc biệt quan trọng giúp cá nhân
trở nên nổi bật và đạt được hiệu quả khác biệt trong công việc. Đây cũng là một
trong 10 kỹ năng quan trọng và thiết yếu nhất trong thế kỷ XXI theo “Diễn đàn
Kinh tế Thế giới 2019”: kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng cộng
tác làm việc nhóm, kỹ năng đánh giá và ra quyết định, kỹ năng đàm phán… Như
vậy, cuộc cách mạng số này đã tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực, nhiều khía
cạnh trong đời sống xã hội, đặc biệt không thể thiếu nguồn lực chất lượng cao; mà
nguồn nhân lực lại là đối tượng trực tiếp của ngành Giáo dục - Đào tạo.
1.2. Năng lực tư duy phản biện đáp ứng yêu cầu - mục tiêu cần hướng tới của
ngành giáo dục thế giới nói chung và Giáo dục đào tạo Việt Nam nói riêng
TS. Hồ Thiệu Hùng trả lời trên diễn đàn báo Giáo dục: “Đổi mới giáo dục
thì phải đổi mới hoạt động dạy và học, muốn đổi mới hoạt động dạy và học mà
không khuyến khích tư duy phản biện, không rèn luyện năng lực phản biện khoa
học cho học sinh thì mất hẳn một nội dung cơ bản của đổi mới”.
Điều đó có nghĩa phản biện là năng lực quan trọng của mỗi con người trong
xu thế hội nhập toàn cầu. Hiện nay, nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới như
Anh, Mỹ đã chú trọng đề cao, tạo điều kiện cho học sinh phát huy tư duy phản
biện, thậm chí coi nó như một môn học chính thức.
Đối với giáo dục Việt Nam những năm gần đây chúng ta cũng đã chú trọng
tới vấn đề này. Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn
diện đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc”. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ngày 06/4/2012, chương II, điều 7, mục
2c có nói: “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và biết phản
1
- biện”. Thông tư này cũng quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở,
trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học về việc đổi mới
kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực. Trên thực tế, dạng đề mở những
năm gần đây cũng đã minh chứng rằng giáo dục của chúng ta đang hướng tới phát
triển kỹ năng phản biện của học sinh.
Giáo dục những con người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc
trở thành mục tiêu hàng đầu. Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có
nghĩa là trang bị cho các em sự tự tin, tính tự lập, khát vọng đổi mới và khát vọng
thành công hơn trong cuộc sống. Chúng ta muốn học sinh, sinh viên của mình có
đủ bản lĩnh, tự tin để tham gia các chương trình đào tạo tiên tiến trên thế giới thì
việc rèn luyện năng lực phản biện cho họ ngay từ khi còn ở cấp THPT là điều thiết
thực và vô cùng quan trọng.
1.3. Năng lực tư duy phản biện góp phần khắc phục những hạn chế của phương
pháp dạy học ngữ văn kiểu truyền thống tại địa phương
Thực tế cho thấy rằng: việc Dạy ngữ văn trên lớp của thầy cô vẫn còn nặng
hình thức truyền thụ kiến thức một chiều. Việc Học của trò vẫn là nghe, hiểu và
làm theo. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan:
- Áp lực chương trình theo phân phối đã được định sẵn.
- Áp lực kiểm tra và thi cử khiến giáo viên và học sinh còn coi trọng kiến
thức hơn là kỹ năng.
- Hạn chế từ phương pháp truyền thụ của thầy và khả năng tiếp nhận của
trò…
Vậy nên dạy học theo hướng phát triển năng lực mặc dù đã được vận dụng
nhưng còn mang tính hình thức, một số giáo viên còn lúng túng, chưa thẩm thấu
nên chưa thực sự hiệu quả.
1.4. Đáp ứng nhu cầu dạy và học tác phẩm văn học dân gian nói chung và hai
văn bản Tấm Cám (Truyện cổ tích); Truyện An Dương Vương và Mị Châu -
Trọng Thủy (truyền thuyết) nói riêng (chương trình Ngữ văn 10 - Tập 1)
2
- Thứ nhất, văn học dân gian là một thành phần chủ lực của chương trình Ngữ
văn lớp 10 (tập 1). Đây là một bộ phận của nền văn học dân tộc đã được đúc kết từ
ngàn xưa của cha ông với những bài học và kinh nghiệm sống vô giá. Dạy học văn
học dân gian để các em tiếp thu nguồn mạch ấy, từ đó ứng xử phù hợp trong thời
đại mới. Tuy nhiên một số giáo viên và học sinh vẫn chưa thực sự chú trọng dạy
học các văn bản thuộc văn học dân gian. Cũng vì lẽ: văn học truyền miệng quy mô
còn nhỏ hẹp, hơi đơn giản, tính khoa học chưa cao. Kiến thức văn học dân gian ít
dính kết với các tác phẩm văn học viết. Hơn nữa, đây là phần kiến thức nằm ngoài
phạm vi các kỳ thi cử quan trọng như thi học sinh giỏi, thi Trung học Quốc gia
hằng năm.
Thứ hai, truyện cổ tích Tấm Cám và truyền thuyết An Dương Vương và Mị
Châu - Trọng Thủy đều được đánh giá là những truyện cổ hay nhất Việt Nam.
Trong quá trình dạy học hai tác phẩm này, có rất nhiều tình huống “có vấn đề” nảy
sinh nên các em tranh luận sôi nổi, hào hứng, khám phá văn bản đa chiều. Là một
giáo viên trực tiếp giảng dạy, trăn trở của chúng tôi là làm sao giúp các em vừa bộc
lộ được quan điểm cá nhân, giải quyết tốt nhất những tình huống nảy sinh, lại vừa
được tôi luyện kỹ năng “phản pháo” trước mọi vấn đề của cuộc sống. Từ việc học
trên trang sách, giúp các em giải quyết những khó khăn mà các em có thể đối mặt
trong thực tế.
Vì tất cả những lí do trên nên chúng tôi lựa chọn đề tài “Rèn luyện năng lực
tư duy phản biện cho học sinh lớp 10 qua hai văn bản đọc hiểu Tấm Cám,
Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy (Ngữ văn 10 - tập 10). Với
cái nhìn và phạm vi ứng dụng cụ thể, chúng tôi hy vọng đề xuất được các biện
pháp để việc dạy học đọc hiểu văn bản, có thể phát triển tư duy phản biện và năng
lực phản biện cho HS một cách hiệu quả, góp phần đổi mới phương pháp dạy học
theo định hướng phát triển năng lực của HS, hướng đến mục tiêu đào tạo những
công dân năng động, sáng tạo, tự tin, đáp ứng tốt yêu cầu của đất nước trong thời
kỳ hội nhập.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đề tài bàn đến giải pháp rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh ở cấp
3
- THPT. Nhưng trong khả năng của người viết, chúng tôi chỉ xin đề xuất một số
cách rèn luyện năng lực tư duy phản biện cho học sinh qua bài đọc hiểu hai văn
bản văn học Tấm Cám, Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy (Ngữ
văn 10).
Đối tượng học sinh mà tôi thực hiện khảo nghiệm và đối chứng kết quả là
học sinh lớp 10 trường THPT trường THPT Yên Thành 2, huyện Yên Thành, tỉnh
Nghệ An trong năm học 2020 - 2021 tại 2 lớp tôi trực tiếp giảng dạy 10A5, 10A7.
Tôi cũng sử dụng phân phối chương trình nhóm văn trường Yên Thành 2 năm học
2020 - 2021(chương trình có tự chọn) để thực hiện sáng kiến này.
3. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề này tài nhằm tìm cách phát huy tối đa năng lực phản biện của
người dạy và người học thông qua hai văn bản rất tiêu biểu của phần tự sự văn học
dân gian Ngữ văn 10. Đồng thời tạo ra được một không khí dạy học dân chủ, thoải
mái, góp phần làm nên sức hấp dẫn cho việc chiếm lĩnh tri thức văn học dân gian,
nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm dân gian trong trường phổ thông.
Nhiệm vụ cụ thể mà tôi tiến hành như sau:
- Nghiên cứu nhiệm vụ năm học thông qua các văn bản chỉ đạo đổi mới căn
bản toàn diện giáo dục của Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục Đào tạo Nghệ An trong
những năm gần đây.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tư duy phản biện, các biện pháp phát triển
năng lực đó trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đổi mới dạy học, năng lực phản biện, bài tập
thực tiễn, dự án học tập… và vai trò của nó trong việc phát triển năng tư duy phản
biện cho học sinh.
- Nghiên cứu hai bài học: An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy, Tấm
Cám trong chương trình Ngữ văn 10, tập 1.
- Đề xuất và áp dụng thực nghiệm các biện pháp phát triển năng lực tư duy
phản biện cho học sinh thông qua dạy học hai tác phẩm nói trên.
4
- 4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm…
Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành khảo sát năng lực phản biện và hứng thú học tập môn
Ngữ văn của học sinh trường THPT Yên Thành 2.
Bước 2: Soạn bài và dạy thể nghiệm theo hướng phát triển tư duy phản biện
ở một số lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy.
Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau khi lên lớp.
Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.
5
- PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1 Thuật ngữ và khái niệm “Phản biện”, “Tư duy phản biện”, “Năng lực phản
biện”
1.1.1. Thuật ngữ “Phản biện” (Opponency) là dùng lý lẽ và dẫn chứng để lập
luận chống lại một ý kiến, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá, hành động, việc
làm… nhằm thuyết phục người nghe nhìn nhận, đánh giá vấn đề theo cách khác có
đúng đắn hơn, khách quan hơn. Mục đích phản biện là chống đối một luận điểm
bằng cách đề xuất một cách nhìn hay một góc nhìn khác để người bị phản biện
phải cố gắng chứng minh quan điểm của mình là đúng đắn nhất, từ đó thúc đẩy
mọi người có thể lựa chọn cân nhắc một phương án tối ưu. Phản biện không đồng
nghĩa là bác bỏ, đả kích hay phê phán mà dựa trên tinh thần đối thoại, và do đó nó
có tính tích cực và xây dựng.
1.1.2. Tư duy phản biện là thuật ngữ chỉ một quá trình tư duy biện chứng, bao gồm
phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã
đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Muốn có
phản biện trước hết phải có tư duy phản biện. Lập luận phản biện phải rõ ràng,
logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm. Cũng có nghĩa là quá trình tiếp nhận
không hề là đơn thuần, duy trì thông tin thụ động mà là tìm lập luận phản bác lại
kết quả của một quá trình tư duy khác để xác định lại tính chính xác và độ tin cậy
của thông tin.
1.1.3. Năng lực phản biện
Năng lực phản biện là huy động vốn tri thức, kinh nghiệm và năng lực lập
6
- luận, biện bác của mình để chỉ ra những điểm đúng - sai, hợp lý - bất hợp lí, khả thi
- bất khả thi của vấn đề được đưa ra. Đó là khả năng phát hiện ra những bất cập,
bất hợp lý từ một vấn đề sẵn có, để từ đó nhận thức lại một cách đúng đắn hơn,
hợp lý hơn.
Bởi vậy, việc phát huy năng lực phản biện sẽ huy động tổng hợp các kiến
thức, trí tuệ, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý
chí... để giúp thực hiện một nhiệm vụ có hiệu quả trong một số bối cảnh nhất định.
1.2. Mối quan hệ giữa “Tư duy phản biện” và “Năng lực phản biện”
Theo cách hiểu thông thường thì năng lực là sự kết hợp của tư duy, kỹ năng
và thái độ. Năng lực là một khái niệm rộng với nhiều nội hàm, trong đó năng lực
phản biện là một trong các năng lực cốt lõi: năng lực toán học, năng lực giao tiếp,
năng lực ngôn ngữ... Theo tác giả Nguyễn Thành Thi - Cần rèn luyện năng lực phản
biện trong học tập cho học sinh, sinh viên (Tạp chí Khoa học văn hóa và du lịch,
số 13, tháng 9 năm 2013), từ việc rèn luyện năng lực phản biện sẽ giúp học sinh
hình thành tư duy phản biện. Vì vậy, muốn có lối mòn tư duy phản biện thì đầu
tiên phải rèn luyện năng lực phản biện ở người học.
1.3 Hình thức và cấu trúc của phản biện
1.3.1 Một phản biện có thể tồn tại ở hai dạng: nói - viết dưới nhiều hình thức: phản
biện cá nhân, phản biện nhóm; phản biện đơn, phản biện kép; dạng trả lời câu hỏi,
đóng vai, phỏng vấn, phản biện lại phản biện... Hình thức phản biện nào cũng có
khả năng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, góp phần rèn luyện kỹ năng
sống, hoàn thiện nhân cách con người - một mục tiêu quan trọng trong giáo dục
phổ thông.
1.3.2 Cấu trúc của một phản biện bao gồm các yếu tố sau
- Mục tiêu phản biện: hướng tới chân lý của vấn đề. Hiểu đúng nhất, tối ưu
nhất. Phản biện không nhằm hạ thấp vai trò của người khác để nâng vai trò của
người phản biện.
- Nhân vật phản biện: gồm hai hay nhiều người tham gia vào quá trình phản
biện được quy thành hai đối tượng: người phản biện và người được phản biện.
7
- - Nội dung phản biện: là vấn đề đang được nói đến nhưng chưa thỏa đáng,
chưa thuyết phục người đọc, người nghe.
- Lập luận phản biện là cách dùng các thao tác lập luận để đưa ra phản biện.
Các thao tác gồm: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh… kết hợp
với lí lẽ, dẫn chứng (có thể kèm thêm thái độ, cử chỉ, cảm xúc của người phản
biện).
- Kết quả của phản biện có thể đúng, có thể không đúng. Nếu đúng sẽ là
chân lý được rút ra. Nếu chưa đúng sẽ là tiền đề cho những phản biện tiếp theo.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Phản biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến
Nhìn ra thế giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy hầu hết các quốc gia có nền
giáo dục phát triển mạnh, cụ thể là các nước phương Tây, đều coi trọng tư duy
phản biện. Ở Mỹ, người ta đề cao tính dân chủ trong giáo dục, tạo điều kiện cho
người học, phát huy khả năng phản biện của học sinh THPT. Phó giáo sư lịch sử
Johann N. Neem thuộc Đại học Western Washington (Mỹ), trong một bài viết đăng
trên tạp chí The Chronicle of Higher Education, đã thúc giục nhà chức trách và
những nhà giáo dục Mỹ cần thực hiện tốt hơn việc giáo dục lịch sử dân tộc và phải
dạy với tinh thần phản biện. Nước Anh coi dạy học tư duy phản biện như một môn
học chính quy. Trình độ A dành cho học viên 16-18 tuổi. Họ phải làm 2 bài kiểm
tra chính: "Sự đáng tin của dẫn chứng" và "Phát triển tranh luận". Đối với học
sinh dưới 16-18 tuổi, tư duy phản biện được đưa xen kẽ vào trong bài giảng của
giáo viên. Còn ở các quốc gia Đông Nam Á, cụ thể là Singapore, một đất nước có
nền giáo dục khá tiên tiến trên thế giới hiện nay, người ta quan niệm tư duy phản
biện sản sinh ra tư duy sáng tạo.Vì thế họ luôn đặt trọng tâm phát triển tư duy phản
biện cho người học để nâng cao khả năng đối đầu với sự thay đổi nhanh chóng của
nền kinh tế dưới ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa. Cụ thể, năm 1997, Bộ Giáo
dục Singapore đã chính thức thành lập một trung tâm nghiên cứu có tên là “Cục tư
duy phản biện”.
Các nước tiên tiến đã coi trọng phản biện trong dạy học, đây là cơ sở đáng
8
- tin cậy để chúng ta mạnh dạn đưa phản biện vào trong dạy học ở cả bậc đại học và
bậc THPT.
2.2. Phản biện trong dạy học ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nhà giáo dục cũng đã quan tâm đến phát triển tư duy phản
biện: “Hướng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và biết phản
biện”. Theo tác giả Tố Tâm - Giảng viên Global Education: “Tư duy phản biện rất
cần thiết trong phương pháp đào tạo ngày nay. Học các kỹ năng đọc, viết, hay số
học là chưa đủ. Điều quan trọng là họ phải biết cách tự đặt vấn đề, đánh giá,
nghiên cứu và giải quyết vấn đề” [14]. Tiến sĩ Bùi Trân Phượng - Hiệu trưởng
Trường Đại học Hoa Sen, nói: “Giáo dục, nhất là giáo dục Đại học, không chỉ
cung cấp kiến thức mà quan trọng hơn là rèn luyện phương pháp tư duy. Người
học phải biết đánh giá thông tin, có quan điểm phản biện để làm rõ vấn đề”. Dạy
học theo định hướng phát triển năng lực hiện nay thực chất là phát huy tối đa sức
sáng tạo ở các em. Mặt khác, việc đổi mới kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn
theo hướng tăng tính mở trong đề bài, nhất là phần nghị luận xã hội cũng đã tạo
điều kiện thuận lợi cho học sinh chủ động, sáng tạo trong trình bày, lập luận theo
quan điểm của mình. Đó chính là cơ hội thuận lợi nhằm phát huy khả năng phản
biện của học sinh.
2.3. Tính đặc thù của bộ môn Văn trong trường THPT
“Văn học là nhân học”, (M. Gorki), môn văn là môn học đặc thù về con
người và đời sống - vốn rất phong phú và bí ẩn. Văn học vừa là khoa học vừa là
nghệ thuật (nghệ thuật ngôn từ). Bởi vậy, nhiều “khoảng trắng” vẫn làm đau đáu
lòng người, mở ra nhiều hướng suy tư đa nghĩa, thậm chí gây tranh cãi nhiều thập
kỷ mà vẫn chưa tìm ra chân lý cuối cùng. Hơn thế, đời sống hiện thực, thời đại xã
hội và cả con người không ngừng đổi mới, vì vậy trong học văn, rất cần có cái nhìn
mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới.
PGS Đỗ Ngọc Thống trong bài trả lời phỏng vấn trên báo Giáo dục và Thời
đại ngày 15/1/2019 chỉ ra mục tiêu của môn Ngữ văn trong Chương trình Giáo dục
phổ thông mới: Giáo dục tích hợp rèn luyện kỹ năng đáp ứng nhu cầu thời đại.
Cần giáo dục kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp (đọc, viết, nói, nghe), kỹ năng
9
- đọc - hiểu và tạo lập văn bản. Cũng theo PGS, yêu cầu dạy học theo định hướng
phát triển năng lực là phân hóa năng lực sở trường của cá nhân người học được chú
trọng. Đặt trong xu hướng phát triển chung này, phát triển tư duy phản biện trong
dạy và học môn Ngữ văn là một nhiệm vụ cốt lõi và thiết thực.
2.4. Tầm quan trọng việc phát triển năng lực tư duy phản biện trong dạy học
2.4.1 Phát triển năng lực tư duy phản biện trong dạy học nhằm vào việc xây dựng
kỹ năng tư duy có lợi cho cả cộng đồng và toàn xã hội
Tư duy phản biện đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế hiện nay- nền kinh tế
toàn cầu trong thời đại 4.0 được kiểm soát và định hướng bởi thông tin, dữ liệu và
công nghệ. Nền kinh tế mới cho thấy nhu cầu cao về các kỹ năng tư duy linh hoạt,
khả năng phân tích thông tin và hòa hợp các nguồn kiến thức đa dạng để giải quyết
vấn đề. Do vậy, một cái tôi cá nhân cần phải có khả năng nhanh chóng đối mặt với
những thay đổi và thích nghi hiệu quả, biết hòa nhập mà không hòa tan.
2.4.2. Phát triển tư duy phản biện nâng cao năng lực nghề nghiệp cho người thầy.
Một thầy giáo giỏi sẽ nuôi dưỡng tư duy phản biện cho học sinh trong mọi giai
đoạn của việc học kể cả giai đoạn bắt đầu. Điều quan trọng ở đây là, người thầy
vun đắp tư duy phản biện cho học sinh bằng cách đưa ra những câu hỏi, bài tập
kích thích tư duy, là điều cốt lõi trong việc kiến tạo tri thức. Người thầy giáo giỏi
nhận thức được điều này và tập trung vào những câu hỏi, bài đọc và những hoạt
động kích thích suy nghĩ để học sinh tự mình làm chủ những khái niệm cốt lõi và
những nguyên tắc ẩn dưới sự vật hay sự việc.
Mặt khác, rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh còn giúp các giáo viên
thu được những thông tin phản hồi hữu ích để điều chỉnh phương pháp dạy học của
mình. Thông qua việc phản biện của trò, người dạy sẽ phân loại được đối tượng.
Qua đó có sự điều chỉnh dạy học phù hợp cho mỗi đối tượng khác nhau.
2.4.3 Phát triển tư duy phản biện tăng cường khả năng ngôn ngữ, thuyết trình, sự
sáng tạo, rất cần thiết cho việc tự nhận thức bản thân của học sinh.
Việc suy nghĩ một cách rành mạch và hệ thống có thể cải thiện cách mà các
em bày tỏ ý tưởng của mình. Thông qua học cách phân tích các cấu trúc logic trong
10
- câu, đoạn văn, lời nói. Kỹ năng này cũng giúp học sinh nâng cao khả năng đọc -
hiểu, nghe - hiểu và khả năng sử dụng ngôn từ của bản thân khi nói hoặc viết tùy
từng hoàn cảnh cụ thể.
Để đưa ra một giải pháp sáng tạo cho một vấn đề yêu cầu người học không
chỉ đơn thuần nghĩ ra ý tưởng mới. Quan trọng là ý tưởng đó có hữu ích và liên
quan tới vấn đề hoặc nhiệm vụ của bạn hay không. Tư duy phản biện trở nên cần
thiết, giúp các em đánh giá các ý tưởng, lựa chọn ý tưởng tốt nhất cũng như có sự
điều chỉnh nếu cần thiết. Bởi vậy nó là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình tự
đánh giá, tự nhận thức này ở các em.
2.4.4 Phát triển năng lực tư duy phản biện là nền tảng cho sự phát triển khoa học
và một nền giáo dục dân chủ
Phản biện trong dạy học có khả năng phát huy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học, trang bị kỹ năng phản biện xã hội khi tham gia vào cuộc
sống. Đồng thời góp phần đào tạo nguồn nhân lực năng động, sáng tạo, đáp ứng tốt
yêu cầu của nhịp sống hiện đại.
Phản biện trong dạy học giúp cho cả thầy và trò có cái nhìn khách quan,
công tâm về chân lí của mọi vấn đề. Ở đó trò được tư duy, được tranh luận, trình
bày chính kiến, trao đổi cởi mở mà không bị thầy ấn, quy chụp kiến thức… Vậy
nên phản biện trong dạy học khẳng định tính dân chủ trong tiến bộ của một nền
giáo dục.
Đặt trong bối cảnh hiện nay, phản biện trong dạy học cũng còn góp phần
tích cực vào phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”.
11
- Chương 2
THỰC TRẠNG PHẢN BIỆN CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH TRONG
QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VĂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Thực trạng dạy học, những khó khăn và thuận lợi
1.1. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn
Vấn đề dạy học ngữ văn gắn với sự phát triển năng lực cho học sinh, chú
trong dạy học theo định hướng giao tiếp nhằm phát triển năng lực hùng biện, phản
biện đã được đề cập nhiều và đã được áp dụng ở nhiều trường học, nhiều cơ sở
giáo dục. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ của đồng
nghiệp, tôi thấy việc dạy - học bộ môn trong chương trình tại đơn vị chưa thật phát
huy và khơi dậy tối đa các năng lực, đặc biệt là năng lực hùng biện, phản biện.
Thứ nhất: dạy học mang nặng tính truyền thụ một chiều, chủ yếu cung cấp
kiến thức, mục đích phục vụ cho kiểm tra, thi cử mà chưa thật sự chú trọng phát
triển các kỹ năng mềm cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp. Giáo viên ít chú
ý dạy học vận dụng, không phù hợp với nhịp sống đang diễn ra sôi động hiện nay
nên thực sự không thu hút được sự quan tâm từ phía học sinh. Chính vì vậy, các
giờ học này khá khô khan, nhàm chán; chưa phát huy được sự tích cực, chủ động
từ phía người học.
Thứ hai: việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học mới tích cực ít
hoặc còn mang tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng
chủ yếu dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại
dựa dẫm, ỉ lại. Bên cạnh đó, kĩ thuật tranh biện chưa được giáo viên chú trọng. Vì
vậy mà học sinh ít có cơ hội bày tỏ thái độ, quan điểm của mình.
1.2. Những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện kỹ năng phản biện của
thầy và trò
Mặc dù cũng đã có giáo viên thực hiện thay đổi phương pháp dạy học, thay
đổi cách thức tổ chức giờ học song kết quả chưa đạt được như mong muốn. Có rất
nguyên nhân được đặt ra:
1.2.1. Khó khăn từ rào cản về văn hóa
12
- Theo các chuyên gia trong ngành giáo dục, rào cản đầu tiên của con người là
giáo dục gia đình. Có thể thấy hầu hết các gia đình Việt Nam đều muốn con cái
nghe lời bố mẹ, tiêu chí đánh giá con là phải ngoan, nghe lời. Khi con trẻ có biểu
hiện “cãi lời” thì thường đồng nhất đó là biểu hiện của “bướng”, “hỗn” mà không
có sự chấp nhận, khuyến khích sự khác biệt của con. Tâm lý thường thấy ở các ông
bố bà mẹ Việt Nam là luôn lo lắng các con sẽ gặp phải chuyện không may, khả
năng tương lai không trở thành ông này, bà kia, áp đặt tương lai, mong muốn cho
con mình phải trở thành kỹ sư, bác sĩ, phải đỗ đại học, lo sợ thua chị kém em, luôn
đôn đốc các cháu học thêm, luôn sợ bị điểm xấu và không hài lòng về điểm số…
Việc dạy học ở nước ta trong nhiều năm qua chịu ảnh hưởng rất lớn của nho
giáo. Người Việt coi trọng “dĩ hòa vi quý”, “một điều nhịn chín điều lành”, vì thế
tinh thần phản biện xã hội rất yếu. Tư duy số đông hầu như rất ngại tranh luận,
phản biện với cấp trên, hoặc chính quyền nơi mình làm việc hoặc sinh sống. Nó có
thể tạo ra một xã hội bình yên, sống tình cảm, nhưng khó phát triển và con người
cá nhân ít được coi trọng. Mặt khác, quan niệm “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một
chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy) đã quá đề cao vai trò của thầy mà chưa thật
sự chú trọng đến tính tích cực trong hoạt động giáo dục của người học. Điều đó
góp phần làm HS trở nên thụ động, lười biếng trong suy nghĩ, thậm chí chán học,
buông học.
1.2.2. Khó khăn từ đội ngũ giáo viên
Thực tế vẫn nhiều giáo còn đồng nhất việc tranh biện kiến thức với việc gây
sự, biểu hiện của thái độ “hỗn” hay là hành vi vô lễ. Đa số giáo viên chúng ta
thường thích học sinh ngoan (chăm chú nghe giảng, ghi chép bài đầy đủ…) hơn là
các em cá tính. Bằng chứng cho thấy, khi tôi khảo sát học sinh về thái độ của giáo
viên khi các em có ý kiến phản biện kiến thức bài học thì được biết thầy cô thường
có phản ứng không thích điều này. Ở chiều ngược lại, nhiều GV tích cực, thường
xuyên tổ chức hoạt động cho HS tranh luận, phản biện thì gặp phải thái độ thờ ơ,
thiếu hợp tác, hoặc rất thụ động của HS. Giáo viên cũng không đủ kinh nghiệm,
kiến thức, kỹ năng và tư tưởng cởi mở để phát triển tư duy phản biện . Bởi chính
thầy cô cũng là sản phẩm của một nền giáo dục truyền thống.
13
- 1.2.3. Khó khăn từ phía học sinh
Kết quả khảo sát cho thấy một thực trạng đáng buồn: hầu như HS không
quan tâm nhiều đến việc rèn luyện phát triển tư duy phản biện và năng lực phản
biện cho bản thân. Khi giáo viên tổ chức, hoặc nêu các vấn đề để học sinh tranh
luận, nhưng hầu hết các em lúng túng, không tự tin, mạnh dạn, không chủ động
bày tỏ ý kiến của bản thân; tâm lý sợ sai kiến thức; hoặc không phát hiện ra vấn đề
để phản biện…
Ngoài ra, ngày nay không có nhiều học sinh thật sự yêu thích, say sưa môn
văn. Mà không đam mê thì không có động lực, hứng thú để tìm tòi, nghiên cứu,
sáng tạo. Vì thế, thầy nói sao thì trò nghe vậy.
1.2.4. Khó khăn về phía chương trình
Nguyên nhân chính được xác định là từ hệ thống văn bản SGK, hệ thống câu
hỏi hướng dẫn học bài ở SGK (nhất là ở bộ cơ bản), còn mang tính tái hiện, nhận
biết mà rất ít câu hỏi mang tính tranh luận phản biện. Đó còn là lượng kiến thức
còn khá nặng, vì thế thời gian để tổ chức các hoạt động thảo luận, tranh biện sẽ
khiến tình trạng “cháy” giáo án, chưa kể thầy cô ngại cho các em thảo luận vì khó
tránh khỏi “ồn ào”, ảnh hưởng lớp học xung quan. Điều kiện kiến thức, môi trường
học tập, thời gian tiết học, bài học cũng còn nhiều bất cập. Chương trình vẫn ôm
đồm, nặng tính hàn lâm, nhiều đơn vị kiến thức không cần thiết nhưng vẫn phải
học, gây nhàm chán. Kiến thức nặng, quá tải thì học sinh chỉ lo “tải” đã đủ mệt,
còn đâu mà nghĩ để nghi ngờ hay phản biện.
1.2.5. Khó khăn riêng của trường trung học phổ thông Yên Thành 2
Trường tôi - THPT Yên Thành 2 là một ngôi trường làng thuần nông nghèo
nằm trên địa bàn phía Nam của tỉnh Nghệ An - vùng dân cư sống bằng nghề trồng
lúa, lại đông dân cư nên đời sống vật chất và tinh thần còn lạc hậu, nghèo nàn. Khu
vực tuyển sinh của trường hầu hết lại rơi vào các xã nghèo như Đồng Thành, Nam
Thành, Tiến Thành, sinh sống bằng nghề nông nghiệp nền kinh tế hộ gia đình đề ở
mức thấp hoặc trung bình. Địa bàn dân cư lại nằm ở vị trí địa lý không thuận lợi
cho các đầu mối giao thông trong và ngoài tỉnh nên ít giao lưu và giao thương. Vì
14
- vậy nhân dân có nếp sống chậm, ít lưu chuyển. Thực tế hằng năm nhà trường tuyển
sinh không mấy dễ dàng, điểm đầu vào của trường là không cao, thuộc diện thấp
nhất trong huyện Yên Thành, mặt bằng chất lượng nhà trường còn thấp. Mặt khác
các khối thi C và D không mạnh nên ý thức đối với bộ môn Ngữ văn là chưa cao.
Trong tình hình ấy, dạy học nói chung dạy học môn văn nói riêng gặp không ít khó
khăn. Từ phía các em học sinh là lối tư duy chậm, ngại bộc lộ quan điểm ý kiến cá
nhân, ngại giao tiếp. Đại đa số học trò còn thiếu tự tin, chưa dám “phản pháo”
trước thầy cô, bạn bè những điều mà bản thân thấy chưa đúng, chưa đồng tình. Các
em tiếp thu kiến thức thụ động, một số em chưa xác định động cơ học tập rõ ràng.
Phụ huynh là dân lao động thuần túy, điều kiện kinh tế gia đình túng thiếu, khó
khăn nên không có thời gian và điều kiện quan tâm con. Từ phía nhà trường là
trang thiết bị dạy học còn hạn chế, cũ kỹ, hoặc chưa đồng bộ. Từ phía giáo viên lên
lớp là sự e dè trong tiếp cận tiếp cận cái mới, tư duy vẫn chủ yếu là truyền thống,
chưa nhạy bén với công nghệ thông tin. Thiết nghĩ, việc dạy học chú trọng rèn
luyện năng lực tư duy phản biện vừa là một thử thách nhưng cũng mở ra nhiều cơ
hội cho cả học sinh và giáo viên.
1.3. Những thuận lợi cho hoạt động phản biện theo xu hướng giáo dục phổ
thông mới và dấu hiệu tích cực đã đạt được
Mặc dù có những khó khăn như đã nói trên nhưng vẫn có những dấu hiệu
khả quan của phản biện trong dạy học văn hiện nay.
Thứ nhất, các hoạt động của tổ chuyên môn luôn nhận được sự chỉ đạo sát
sao từ ban chuyên môn của trường, từ lãnh đạo Sở, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thứ hai, việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá được
tổ chuyên môn quan tâm chỉ đạo thực hiện thao giảng nhân các ngày lễ lớn trong
năm học, khuyến khích sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đặc biệt là đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực).
Thứ ba, đội ngũ giáo viên trong nhóm ngữ văn giàu trách nhiệm và tâm
huyết với nghề, giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn vững vàng, được đào
tạo đạt hoặc trên chuẩn và đã được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng về chuyên
môn do Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức hàng năm.
15
nguon tai.lieu . vn