- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp dạy học bằng tình huống bài: Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân lớp 12 môn GDQP,AN cho học sinh trường THPT Huỳnh Thúc Kháng
Xem mẫu
- SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG
------------ ------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG BÀI: ‘‘MỘT SỐ HIỂU BIẾT
VỀ NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN” LỚP 12 MÔN
GDQP,AN CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG
(Bài 2 - Môn Giáo dục quốc phòng - An ninh, lớp 12)
Giáo viên thực hiện : Trần Ngọc Hùng
ĐT : 0949 557 486
Tổ chuyên môn : Xã hội
NĂM HỌC: 2020 - 2021
- MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................1
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT..............................................................................2
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ......................................................................3
PHẦN I: MỞ ĐẦU...................................................................................................4
PHẦN II: NỘI DUNG..............................................................................................9
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN..........................................................................................................................9
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực bằng tình huống...........................................................9
1.2. Dạy học bằng tình huống trong bài “ Một số hiểu về nền quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân”.....................................................................................................19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ GDQP-AN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG................................................................................21
2.1. Thực trạng về nhận thức vị trí, tầm quan trọng công tác GDQP - AN của cán
bộ, giáo viên và học sinh..........................................................................................21
2.2. Thực trạng về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực và dạy học
theo phương pháp tình huống trong GDQP-AN .....................................................23
CHƯƠNG 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN...........................26
3.1. Một số tình huống trong bài “Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân”.........................................................................................................26
3.2. Thực hành dạy học theo những tình huống.......................................................32
3.3. Đánh giá kết quả dạy học bằng phương pháp tình huống.................................33
CHƯƠNG 4: KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI..............34
4.1. Thực nghiệm sư phạm dạy học “Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân” trong trường THPT Huỳnh Thúc Kháng....................................34
4.2. Tổng hợp, nhận xét kết quả thực nghiệm theo đối chứng ................................36
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.....................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................39
1
- KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANND An ninh nhân dân
CĐN Cao đẳng nghề
DN Dạy nghề
ĐH, CĐ Đại học, cao đẳng
GDQP – AN Giáo dục quốc phòng - an ninh
HS Học sinh
PPDH Phương pháp dạy học
QPTD Quốc phòng toàn dân
QP, AN Quốc phòng, an ninh
XHCN Xã hội chủ nghĩa
SV Sinh viên
2
- DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Ký hiệu Nội dung các bảng, biểu đồ Trang
Bảng 2.1 Kết quả nhận thức về GDQP-AN của học sinh 23
Nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
Bảng 2.2 24
cực
Kết quả cụ thể dạy học theo phương pháp truyền thống
Bảng 4.1 35
(thuyết trình) “Xây dựng nền QPTD, ANND”- đối chứng.
Kết quả cụ thể dạy học bằng tình huống “Xây dựng nền
Bảng 4.2 36
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân”- lớp thực nghiệm.
3
- PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục Quốc phòng-An ninh (GDQP-AN) là một bộ phận của nền giáo
dục quốc dân, là môn học chính khóa trong chương trình giáo dục, đào tạo trung
học phổ thông đến đại học và các trường chính trị, hành chính, đoàn thể. Trong
giáo dục phổ thông, các môn văn hóa nói chung, môn Giáo dục quốc phòng - an
ninh nói riêng có vai trò rất quan trọng hình thành nhân cách, bản lĩnh, năng lực, tư
duy của con người Trong đó học sinh là một đối tượng đông đảo của GDQP-AN.
Môn học GDQP-AN được luật định, thể hiện rõ đường lối giáo dục của Đảng,
được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu
của GDQP-AN là giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa
xã hội, niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống dựng nước và giữ nước
của dân tộc, của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, trang bị cho học sinh, sinh
viên một số hiểu biết về chiến tranh nhân dân Việt Nam, bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa trong tình hình mới; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phòng chống chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch và một số kỹ năng quân sự
cần thiết..., tạo điều kiện để học sinh, sinh viên tham gia vào các hoạt động về công
tác quốc phòng, quân sự trong nhà trường và địa phương, sẵn sàng thực hiện nghĩa
vụ công dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Từ vấn đề trên, nâng cao chất
lượng dạy học môn học GDQP-AN cho học sinh, sinh viên là một yêu cầu khách
quan của môn học nói riêng, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung. Một trong
những yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng dạy học môn học là đổi mới phương
pháp dạy học.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Thực hiện đồng bộ các
giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; Đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng
hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý
tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng
tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội…” [74].
Mục tiêu của nền giáo dục nước ta hiện nay là hướng đến đối tượng người học, để
cung cấp cho người học những tri thức, kỹ năng, phương pháp và kinh nghiệm học
tập có hiệu quả nhất. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, vấn đề rèn luyện kỹ năng
nhận thức cho học sinh, phương pháp học tập mang tính chủ động, có tính tích cực
dần được trú trọng. Giáo dục quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là một nội
dung quan trọng của việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
GDQP-AN cho học sinh, sinh viên thuộc nội dung của nền giáo dục quốc gia, có ý
nghĩa quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mới XHCN. Ngày
03/05/2007, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 12/CT-TW về “tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới”. Ngày
10/07/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2007 ND-CP về “Giáo dục
4
- quốc phòng - An ninh”. Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an ban hành chương trình GDQP-AN
cho học sinh và bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho các đối tượng và các văn bản
hướng dẫn tổ chức thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN. Những năm gần đây, công tác
GDQP-AN cho học sinh đã dần đi vào nền nếp ổn định. Tuy nhiên, chất lượng
GDQP-AN còn rất hạn chế, nhất là ở các trường THPT. Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến chất lượng GDQP-AN còn thấp như đội ngũ giáo viên GDQP-AN còn thiếu,
chưa được đào tạo dài hạn, chính quy, chất lượng yếu; cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học GDQP-AN thiếu, không đồng bộ, khai thác, sử dụng kém hiệu quả; hình thức
tổ chức, phương pháp dạy học lạc hậu, chưa phù hợp; nhiều trường chưa được lãnh
đạo quan tâm đúng mức, tổ chức “Huấn luyện quân sự” cho xong chương trình…
Chính vì vậy nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo là yếu tố hàng đầu cho sự phát
triển nguồn nhân lực đất nước.
Nâng cao chất lượng GDQP-AN cho học sinh cần phải có sự chỉ đạo, tổ
chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương tới các cơ sở bằng các hình
thức phù hợp với từng đối tượng, một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu có
tính quyết định tới chất lượng môn học GDQP-AN là đổi mới phương pháp dạy
học (PPDH) theo hướng tích cực. Đổi mới phương pháp dạy học GDQP-AN theo
hướng tích cực là đổi mới cách thức giảng dạy phù hợp với quá trình nhận thức của
của người học, phát huy yếu tố chủ động, tích cực của người học. Đổi mới phương
pháp dạy học GDQP-AN không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn PPDH cũ, thay vì
PPDH hoàn toàn mới, mà là sự chọn lọc, kế thừa, vận dụng linh hoạt những ưu
điểm, kết quả tích cực vốn có của PPDH truyền thống. Muốn thực hiện được
PPDH theo hướng tích cực giáo viên phải có công tác chuẩn bị nội dung bài giảng
cũng như mọi điều kiện bảo đảm cho dạy và học đầy đủ, khoa học, có nhiều vấn
đề, nhiều tình huống được đặt ra.
Phương pháp dạy học tích cực bao gồm phương pháp như nêu và giải quyết
vấn đề, phương pháp trực quan, phương pháp giảng dạy bằng tình huống, phương
pháp làm mẫu - Tái tạo; phương pháp tìm tòi, phương pháp nghiên cứu…Trong đó
phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giáo viên phải có trình độ chuyên
môn chuyên sâu, có tay nghề vững vàng, có kinh nghiệm trong giáo dục đào tạo.
Mục đích của PPDH bằng tình huống giúp cho học sinh tránh được tình trạng học
tập thụ động, hạn chế được cách học chỉ vội vàng, đắm chìm vào những dòng chữ
ghi chép. Tính tích cực của PPDH bằng tình huống là cả người dạy và người học
luôn phát huy khả năng vốn có của bản thân để giải quyết vấn đề được đặt ra trong
bài học. Phương pháp dạy học bằng tình huống còn giúp cho người học luôn có sự
suy nghĩ, tư duy độc lập, sáng tạo, có cả chiều rộng và độ sâu khi muốn hiểu biết
và giải quyết vấn đề nào đó. Chính vì vậy PPDH bằng tình huống là phương pháp
có nhiều ưu điểm, lợi thế hơn các PPDH khác. Phương pháp dạy học bằng tình
huống đòi hỏi cả người dạy và người học phải có thái độ hoạt động nghiêm túc, có
khả năng nhận biết được mâu thuẫn và giải quyết được từng vấn đề mà tình huống
5
- đặt ra. Hiện nay, PPDH bằng tình huống đang được sử dụng hết sức có hiệu quả và
rất phổ biến ở các trường đào tạo hàng đầu trên thế giới.
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn GDQP-AN được đào tạo chính khóa
hệ chính quy tôi nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới PPDH để tạo được hứng
thú cho người học, đặc biệt khi đối tượng tiếp thu là học sinh THPT. Vì vậy
mục tiêu chung đối với giảng dạy bộ môn GDQP-AN đòi hỏi phải sử dụng tổng
hợp nhiều phương pháp nhằm gây hứng thú học tập và giúp học sinh biết cách
lĩnh hội tri thức.
Như vậy vấn đề đặt ra là trong quá trình giảng dạy người giáo viên phải
chọn phương pháp dạy học tích cực nào, vận dụng và kết hợp các phương pháp đó
ra sao để đạt được mục tiêu của bài học là vấn đề đang đặt ra nhiều thử thách mà
người giáo viên cần phải nghiên cứu, đưa ra các giải pháp và giải quyết các giải
pháp đó. Từ những lý do khách quan và chủ quan đó, để giải quyết phần nào khó
khăn nói trên, nên tôi chọn đề tài nghiên cứu là Phương pháp dạy học bằng tình
huống bài: ‘‘Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân”
lớp 12 môn GDQP,AN cho học sinh trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. Với
hy vọng góp phần nâng cao hứng thú học tập từ đó nâng cao chất lượng học tập
môn GDQP-AN .
2. Mục đích
Tôi thực hiện đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng dạy học môn Giáo dục quốc
phòng - An ninh ở trường phổ thông, qua đó mạnh dạn nghiên cứu PPDH bằng
tình huống trong bài học “Một số hiểu biết về nền quốc QPTD, ANND”. Từ tình
huống được xây dựng, tiến hành cách dạy mới, cách học mới cho học sinh. Trên cơ
sở đó, giúp cho giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn, biết xây dựng các tình
huống trong bài giảng, biết cách dạy học bằng tình huống trong môn GDQP-AN;
giúp cho HS biết cách học tập bằng tình huống, nâng cao chất lượng môn học
GDQP-AN.
3. Ý nghĩa
Phương pháp giảng dạy bằng tình huống có ý nghĩa khoa học, giá trị thực
tiễn cao, giúp cho cán bộ chỉ đạo đổi mới PPDH; giúp đội ngũ giáo viên, HS thay
đổi suy nghĩ, tư duy và biết vận dụng PPDH tích cực vào môn học GDQP-AN để
nâng cao chất lượng môn học.
4. Những nội dung nghiên cứu
4.1. Lý luận chung về phương pháp giảng dạy bằng tình huống.
4.2. Đánh giá thực trạng về cách dạy học môn GDQP-AN hiện nay của đội
ngũ giáo viên trường THPT Huỳnh Thúc Kháng liên quan tới đổi mới PPDH theo
hướng tích cực, đặc biệt là cách dạy học bằng tình huống.
4.3. Xây dựng một số tình huống trong bài “ Một số hiểu biết về nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân” (Bài 2, SGK lớp 12).
6
- 4.4. Thực hành giảng dạy bằng phương pháp tình huống.
4.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm theo PPDH bằng tình huống.
5. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận, thực tiễn về phương pháp dạy học bằng tình huống.
- Các bước xây dựng tình huống và vận dụng thực hành phương pháp dạy
học bằng tình huống tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng.
- Học sinh lớp 12 trường THPT Huỳnh Thúc Kháng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu lý luận, thực tế.
Trên cơ sở lý luận, tiếp cận cách dạy học bằng tình huống trong GDQP-AN
để thấy được kết quả dạy học có tính đổi mới, sáng tạo theo nhận thức, tư duy của
giáo viên và học sinh. Trên cơ sở thực tiễn về dạy học bài “Một số hiểu biết nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân” theo phương pháp truyền thống sẽ thấy
được những hạn chế trong việc truyền thụ và tiếp nhận tri thức GDQP-AN trong
hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh trường THPT Huỳnh Thúc Kháng.
- Điều tra, khảo sát.
Tiến hành điều tra, khảo sát một số lớp học trong trường THPT Huỳnh Thúc
Kháng trong dạy học bài “Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân”.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá.
Trên cơ sở nghiên cứu, điều tra, khảo sát tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh
giá, rút ra yếu tố cần thiết cho phương pháp dạy học bằng tình huống.
- Thực nghiệm.
Từ thực tế và kết quả nghiên cứu, đề tài tiến hành thực nghiệm theo phương
pháp đối chứng để thấy được cái mới, cái hơn hẳn của dạy học bằng phương pháp
tình huống với dạy học bằng phương pháp truyền thống.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài đã khẳng định tính cấp thiết về dạy học theo phương pháp tình huống
trong GDQP-AN nói chung và trong bài “Một số hiểu biết nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân” nói riêng; phản ánh đầy đủ, tính sát thực và hiệu quả cao
của các biện pháp dạy học bằng tình huống. Kết quả nghiên cứu không những có
giá trị khoa học về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tiễn cao, đáp ứng đầy đủ mục
tiêu, yêu cầu của đề tài.
7
- 7. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm, bài viết chỉ tập
trung nghiên cứu vấn đề trong phạm vi sau:
- Lý luận chung về phương pháp giảng dạy bằng tình huống.
- Đánh giá thực trạng về cách dạy học môn GDQP-AN hiện nay của đội ngũ
giáo viên trong trường THPT Huỳnh Thúc Kháng về phương pháp dạy học bằng
tình huống.
- Xây dựng Phương pháp dạy học bằng một số tình huống trong bài “ Một số
hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bài 2 lớp 12”.
8. Kết cấu đề tài
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu lý luận và thực tiễn
Chương 2 Thực trạng về GDQP-AN và phương pháp dạy học bằng tình
huống bài một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong
trường THPT Huỳnh Thúc Kháng.
Chương 3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
Chương 4 Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai.
Phần III: Kết luận và Khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
8
- PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phương pháp dạy học và đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực bằng tình huống
1.1.1 Thuận lợi của việc dạy học môn Giáo dục quốc phòng - an ninh ở
trườngTHPT Huỳnh Thúc Kháng
- Trường trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kháng là mái trường nổi tiếng
bởi truyền thống dạy tốt - học tốt, nơi đây đã là một trong những chiếc nôi đào tạo
nhiều hiền tài cho đất nước. Trường có đội ngũ cán bộ, giáo viên có năng lực
chuyên môn vững vàng, tâm huyết vì mục tiêu phát triển của nhà trường, nhiều
thầy cô giáo là Nhà giáo ưu tú, tài năng sư phạm, giáo viên dạy giỏi, Chiến sỹ thi
đua các cấp… Các thầy cô thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, trở
thành niềm tự hào của các thế hệ học sinh. Trường đã được tặng nhiều Bằng khen,
cờ thi đua của Chính phủ, Bộ giáo dục và đào tạo, UBND tỉnh. Trường được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Lao động, Huân chương Độc lập và đặc biệt là
trường THPT đầu tiên của Nghệ An được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
- Đối với môn Giáo dục quốc phòng - An ninh. Nhà trường cùng các cấp
lãnh đạo luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục
quốc phòng - An ninh đều được đào tạo vững về chuyên môn, nhiệt tình và tâm
huyết với môn học.
- Điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết cho môn học
Giáo dục quốc phòng - An ninh tương đối đầy đủ.
- Nề nếp, kỷ cương của nhà trường chặt chẽ qua từng cấp, từng khâu nên đa
phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt.
1.1.2. Khó khăn của việc dạy học môn Giáo dục quốc phòng - An ninh ở
trường THPT
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng - An ninh ghép môn và phải giảng
dạy hai môn thể dục và quốc phòng nên thời gian nghiên cứu dành cho bộ môn còn
hạn chế.
- Đối với học sinh: Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời
bình, do yêu cầu về lượng kiến thức của các môn học, giờ học cộng thêm áp lực từ
phía không ít phụ huynh đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ, ý thức học tập và việc
xác định nhiệm vụ học tập của học sinh đối với môn Giáo dục quốc phòng - an
ninh chưa cao.
9
- - Tức thời tình trạng học sinh chưa trang bị đầy đủ sách giáo khoa về môn
giáo dục quốc phòng - An ninh cũng làm cho việc giảng dạy theo phương pháp
mới còn bị hạn chế nhất định.
- Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tương đối đầy đủ từ nguồn được Sở
giáo dục - Đào tạo cấp và một số tự trang bị nhưng vẫn còn thiếu: Tranh ảnh giảng
dạy còn hạn chế ở một số nội dung.
- Bản thân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm tài liệu phục vụ cho đề tài.
1.1.3. Phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học
Khi đề cập đến phương pháp dạy và học, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu,
chuyên gia, nhà khoa học và đội ngũ giáo viên trong các nhà trường trao đổi vấn đề
này, thậm chí một số nhà khoa học, nhà giáo đã nghiên cứu sâu một vấn đề nào đó
trong phương pháp dạy học. Các nhà trường từ bậc phổ thông đến đại học, cao
đẳng còn được biên soạn các giáo trình về phương pháp dạy học bộ môn. Những
năm gần đây, nhiều hội thảo khoa học cũng đã được tổ chức với quy mô lớn ở tầm
quốc gia, trong các trường đại học. Nhiều bài viết về đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực cũng đã được trình bày khá công phu. Tuy nhiên, các ý kiến
trong hội thảo cũng như trong các bài viết của tác giả còn có nhiều vấn đề khác
nhau. Có ý kiến, bài viết cho rằng đã đổi mới thì phải đổi mới hoàn toàn, phải thay
đổi cái mới thì mới có hiệu quả trong phương pháp dạy học; hoặc không nên thay
đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cũ bằng phương pháp dạy học mới, chỉ nên
thay đổi một phần hoặc một nửa mới không bị hẫng hụt. Khi nghiên cứu về
phương pháp dạy học trên thế giới, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách dạy
học, nhiều phương pháp dạy học. Nhưng cách dạy học nào, phương pháp dạy học
nào thì mục đích cuối cùng cũng là đem lại chất lượng, sản phẩm đào tạo, chất
lượng, hiệu quả dạy và học cho giáo viên và học sinh, sinh. Một phương pháp dạy
học mới, tích cực phải là phương pháp mà trong đó, các chủ thể phải có những
hoạt động mới, hoạt động tích cực, hoạt động hăng say, chuyên cần, sáng tạo để
tạo ra giá trị sản phẩm cao hơn. Không thể nói ở phương pháp dạy học mới thì hoạt
động của trò phải hơn thầy hoặc thầy phải hơn trò. Phải khẳng định và thống nhất,
nhất quán trong phương pháp dạy học mới, dạy học tích cực là không thể không có
những hoạt động của người dạy và người học. Điều đó có nghĩa, cả người dạy và
người học đều tham gia vào một quá trình nhận thức, quá trình vận động của sự
vật, hiện tượng. Trong phương pháp dạy học không thể nói, không thể khẳng định
ai là trung tâm, chủ thể nào là trung tâm; ai ở ngoại biên, chủ thể nào ở ngoại biên
hoặc ai là nội hàm, chủ thể nào là nội hàm; ai ở ngoại diên, chủ thể nào ở ngoại
diên. Phương pháp dạy học mới, phương pháp dạy học tích cực, trước hết phải là
hoạt động của hai chủ thể thầy và trò. Sau đó, tùy theo tính chất, đặc điểm, yêu cầu
ở từng vấn đề mà đòi hỏi hoạt động của các chủ thể. Đôi khi, những mâu thuẫn và
vấn đề đặt ra cần giải quyết đòi hỏi rất cao cường độ, khả năng hoạt động của
người thầy. Cũng có khi hoạt động của người học phải nhiều hơn mới bảo đảm yêu
cầu vấn đề đặt ra.
10
- Ngày nay, từ một phương pháp dạy học cũ, phương pháp dạy học truyền
thống, phương pháp dạy học một chiều, độc thoại đã tồn tại hàng nghìn năm nay,
người ta bắt đầu đổi mới sang cách dạy học mới. Chủ đạo của phương pháp dạy
học truyền thống là dạy học theo cách thuyết trình, phương pháp thuyết trình.
Trong phương pháp thuyết trình (phương pháp dùng lời) người ta chia ra thành các
nhóm dùng lời như phương pháp kể chuyện, phương pháp giảng giải, phương pháp
trần thuật, phương pháp diễn giảng, phương pháp đàm thoại…Trong đổi mới
phương pháp dạy học đã có nhiều khuynh hướng hết sức khác nhau hoặc là đổi
mới ngay, đổi mới toàn bộ, hoặc đổi mới một phần. Khi chuyển sang phương pháp
dạy học mới, tích cực có những quan điểm cho rằng hoạt động của các chủ thể phải
hơn, kém nhau.
Chúng ta đều biết, phương pháp dạy học thuyết trình là phương pháp truyền
thống (phương pháp cổ điển) nhưng nó lại là phương pháp cơ bản được sử dụng và
tồn tại hàng nghìn năm nay. Phương pháp thuyết trình có ý nghĩa lớn lao trong hoạt
động nhận thức của học sinh, sinh viên trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dạy học theo phương pháp thuyết trình là phương pháp tốn ít thời gian, chỉ cần
thời gian nhất định ta có thể truyền đạt một khối lượng kiến thức khổng lồ. Sử
dụng phương pháp thuyết trình giúp cho người học hiểu được khái niệm tri thức,
làm cơ sở cho quá trình nhận thức. Hạn chế của phương pháp dạy học theo phương
pháp thuyết trình là người học luôn ở thế bị động, luôn bị điều khiển theo phương
thức hoạt động của người dạy. Cần chú ý khi sử dụng phương pháp trong quá trình
dạy học sao cho có hiệu quả đối với người học. Dạy học không có nghĩa là bắt
người học phải có được kiến thức vững vàng ngay khi học ở trên lớp, mà là thấy
được vấn đề cốt lõi, biết được cách tiếp cận dần với tri thức. Cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng viết “Dạy học không phải là cố nhồi nhét cho học trò một mớ kiến thức,
tuy rằng kiến thức là cần thiết, điều chủ yếu là giáo dục cho học sinh phương pháp
suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp diễn tả, rồi phương pháp nghiên
cứu, phương pháp học tập” [114].
Như vậy, cần phải có cách nhìn nhận đúng đắn giữa cách dạy học cũ với
cách dạy học mới. Không nên khư khư giữ nếp cũ, đã quá cũ mà không có cải tiến,
thay đổi, đổi mới. Cần mạnh dạn, nghiêm túc tìm ra cái tiến bộ hơn, cái mới hơn,
cái đem lại chất lượng hiệu quả hơn, nhất là cách dạy, cách học trong giáo dục và
đào tạo. Nhưng đổi mới cách dạy học là đổi mới cái gì, đổi mới như thế nào là vấn
đề cần phải suy nghĩ, tư duy nghiêm túc, không đơn giản, chủ quan, phiến diện.
Trong từng cấp học, bậc học, từng trình độ, khả năng của học sinh, để những có
thử nghiệm chính xác, khoa học rồi mới vận dụng đại trà, phổ biến. Tránh tình
trạng đưa ra một vài quan điểm, một vài số liệu về phương pháp dạy học mà đã
khẳng định cách dạy học ấy là duy nhất đúng, mọi người phải theo, các nhà trường
phải theo. Chúng ta biết, đã có rất nhiều vấn đề được đưa ra nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo cho phù hợp với xu thế mới như cải cách hệ thống giáo
dục, thay đổi hệ thống sách giáo khoa, thay đổi chữ viết, thay đổi cách dạy, cách
học…, thậm chí có những vẫn đề đã được “thực nghiệm” hơn chục năm, tốn kém
11
- không ít tiền của, công sức nhưng chưa được thực tế xã hội chấp nhận. Phương
pháp dạy học là một điều khó, đổi mới phương pháp dạy học càng khó hơn, nhưng
không có nghĩa, khó mà không thay đổi để có cái mới hơn, đem lại chất lượng đích
thực hơn. Nhưng đồng thời, không vội vàng, áp đặt bất cứ một cách dạy học nào
khi chưa được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng và phải được kiểm nghiệm, đánh giá
qua thực tiễn có căn cứ khoa học, có giá trị lý luận và thực tiễn cao thì mới được
thực hiện.
1.1.4. Phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là việc đưa ra các tình huống (có thật
hoặc hư cấu) chứa đựng nội dung bài giảng để người học có bối cảnh trải nghiệm,
có điều kiện đưa ra các ý kiến cá nhân, qua đó phát huy tính tích cực của người học
trong việc tự phân tích tìm đường đi đến chân lý. Phương pháp tình huống thuyết
phục người học bằng chính kinh nghiệm và những suy luận cá nhân rút ra sau khi
tham gia vào tình huống. Do đó, những tri thức, kỹ năng, tình cảm, thái độ mà học
viên thu nhận được trở thành của chính họ, do họ tự nhận thức, không bị áp đặt bởi
giáo viên.
Hiện nay, phương pháp dạy học bằng tình huống không còn xa lạ với các
nước trên Thế giới và ở Việt Nam, nhưng với tính ưu việt, phương pháp dạy học
tình huống luôn tồn tại trong các hệ thống giáo dục quốc tế, đặc biệt một số trường
đại học hàng đầu như: HaBớt, Ofot… và các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục
Liên hiệp quốc (Unesco) rất chú trọng phổ biến giảng dạy phương pháp này để
nâng cao và phát huy năng lực của người học tại mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, việc
áp dụng phương pháp dạy học tình huống trong hệ thống GDQD đã và đang được
quan tâm rất nhiều. Phương pháp dạy học bằng tình huống không những đem lại
chất lượng, hiệu quả giảng dạy rất cao cho người thầy mà còn đem lại chất lượng
học tập rất tốt cho người học. Phương pháp dạy học bằng tình huống còn phát huy
được óc tư duy, khả năng tư duy, óc phê phán, óc sáng tạo của người dạy và người
học. Đặc biệt, phương pháp dạy học bằng tình huống có tác dụng khuyến khích
học sinh phát triển cách tự học, tự nghiên cứu, có khả năng độc lập giải quyết vấn
đề mà thực tiễn đặt ra. Giảng dạy theo phương pháp tình huống đòi hỏi người thầy
giáo phải giỏi cả lý thuyết và thực hành, phải công phu sưu tầm những tình huống
có thật và cụ thể có liên quan đến môn giảng, phải tâm huyết dành toàn bộ tâm trí
và thời gian cho công tác giáo dục và đào tạo, cho giảng dạy.
Khi nói đến tình huống, chúng ta thường thấy tình huống được diễn ra cũng
có thể trong thời gian ngắn, phạm vi hẹp; cũng có thể xẩy ra trong thời gian khá
dài với quy mô rộng lớn, tùy theo tính chất, đặc điểm, diễn biến và vận động của
sự vật. Nói đến tình huống là nói đến sự việc xảy ra, mà xung quanh sự việc đó có
nhiều mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nhưng lại hết sức mâu thuẫn với nhau cần
được giải quyết. Trong hoạt động, nhất là hoạt động quốc phòng, an ninh thường
có tình huống xảy ra, thậm chí có nhiều tình huống xẩy ra ngay cùng một lúc rất
phức tạp. Xử lý như thế nào, xử lý ngay mới giải quyết được tình thế, mới đem lại
12
- hiệu quả là cả vấn đề không dễ đối với một cá nhân hay một tập thể. Thông
thường, một tình huống đơn giản thì vai trò cá nhân được thể hiện ngay, nhưng
tình huống phức tạp thì đòi hỏi trí tuệ cả một tập thể mới giải quyết được, và lúc ấy
vai trò cá nhân là người định hướng, hướng dẫn cách giải quyết vấn đề. Tình
huống xảy ra thường khác nhau lúc nhanh, lúc chậm; tính chất của tình huống có
lúc đơn giản, lúc phức tạp. Dù tình huống đơn giản hay phức tạp cũng cần có sự
suy nghĩ, tư duy nghiêm túc, bài bản, khoa học mới giải quyết được. Giải quyết
tình huống phải được dựa trên nhiều yếu tố, nhiều bằng chứng khoa học. Giải
quyết tình huống trong quốc phòng, an ninh phải căn cứ vào nguyên tắc, tư tưởng
chỉ đạo, mục đích, yêu cầu đạt được; căn cứ vào những yếu tố tác động, quan hệ
trực tiếp với tình huống như tình hình địa hình, tình hình địch, đơn vị xung quanh,
vũ khí trang bị kỹ thuật, dân chúng…
Như vậy, “Tình huống là sự việc có mâu thuẫn, có tính vấn đề cần giải
quyết”.
Tình huống “đơn giản” là tình huống có “mâu thuẫn” có “một vấn đề” cần
giải quyết.
Tình huống “phức tạp” là tình huống có “mâu thuẫn” có “nhiều vấn đề” cần
giải quyết.
Trong hoạt động quốc phòng, an ninh, tình huống trở thành phổ biến vì quốc
phòng, an ninh là hoạt động rất đặc thù. Trong GDQP-AN, tình huống cũng
thường xảy ra trong quá trình dạy học, ta gọi là tình huống sư phạm. Nhưng ngay
trong nội dung GDQP-AN cũng đã chứa đựng nhiều tình huống cần giải quyết như
trong dạy học kỹ thuật, khoa mục chung, công tác quốc phòng an ninh, đường lối
quân sự, đặc biệt là trong chiến thuật.
1.1.5. Quy trình xây dựng, xử lý và soạn bài giảng tình huống về giáo dục
quốc phòng - An ninh
a) Xây dựng được tình huống thực tế
Muốn có phương pháp dạy học bằng tình huống thì phải xây dựng được tình
huống thực tế, phù hợp cho từng trình độ, khả năng dạy học. Một điều kiện mang
tính tiên quyết để đạt được hiệu quả của phương pháp tình huống là phải có tính
thực tế. Trong GDQP-AN có thể có rất nhiều tình huống để phân tích nhưng để có
được phương án tối ưu nhất không phải dễ. Xây dựng được tình huống sẽ cần
nhiều thời gian, đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng nhất định trong chuyên môn
quốc phòng, an ninh, trong hoạt động thực tiễn GDQP-AN, nhất là kinh qua các
cuộc chiến tranh.
Khi xây dựng tình huống về chiến thuật, giáo viên cần nắm chắc tư tưởng
chỉ đạo, yêu cầu đạt được của chiến thuật, nắm chắc tình hình địch, ta, quan hệ với
đơn vị xung quanh, thực tế, trang bị vũ khí bảo đảm cho trận đánh có hiệu quả. Ví
dụ: Tình huống chiến thuật: Từng người tiến công địch trong ụ súng, lô cốt, chiến
hào, giao thông hào, căn nhà. Trong khi đó địch có hệ thống hàng rào dây thép gai,
13
- có xe tăng, xe bọc thép án ngữ. Tình huống được xây dựng để mọi người phải thấy
được đâu là mâu thuẫn, đâu là vấn đề khó khăn cần giải quyết, khó khăn khi đánh
chiếm mục tiêu. Trong ụ súng, lô cốt địch có mấy tên, chúng đang dùng hỏa lực gì
bắn trực tiếp vào hướng tiến công. Bên trái, bên phải địch trong lô cốt, ụ súng có
lực lượng nào chi viện cho chúng không. Người chiến sĩ phải làm như thế nào để
vận động tới gần địch, vận động theo hướng nào, lợi dụng địa hình, địa vật ra sao,
có cần người khác chi viện hay không, một loạt vấn đề của tình huống đặt ra cần
giải quyết. Muốn giải quyết được tình huống chiến thuật, người dạy và người học
phải căn cứ vào các yêu cầu chiến thuật như: Bí mật, bất ngờ, tinh khôn, mưu mẹo;
dũng cảm, linh hoạt, kịp thời; biết phát hiện và lợi dụng nơi sơ hở, hiểm yếu của
địch, tiếp cận đến gần tiêu diệt địch; độc lập chiến đấu, chủ động hiệp đồng, liên
tục chiến đấu; phát huy cao độ hiệu quả của vũ khí, trang bị để tiêu diệt địch, tiết
kiệm đạn dược; đánh nhanh, sục sạo kỹ, vừa đánh vừa địch vận.
Khi xây dựng tình huống về kỹ thuật giáo viên cần nắm chắc từ hiện tượng
đến bản chất của từng nội dung về kỹ thuật. Nếu ta xây dựng tình huống “Hiện
tượng bắn”, “Sức giật và sự hình thành góc nảy” thì vấn đề (tình huống) đặt ra là tại
sao đầu đạn lại vận động được trong nòng súng và trong không gian, mối quan hệ
giữa đầu đạn và áp lực khí thuốc ra sao, cần bao nhiêu áp lực khí thuốc để đầu đạn
tách khỏi vỏ đạn bắt đầu vận động, cần bao nhiêu áp lực khí thuốc (P mắc) để đầu
đạn vận động trong nòng súng có độ xoáy lớn khi ra khỏi mặt cắt phía trước của
nòng súng có vận tốc lớn nhất (V mắc). Tại sao khi bắn súng có hiện tượng súng
giật về sau, bị vai ta chặn lại, người bắn có cảm giác ê vai hoặc bị đau vai. Tại sao
súng giật về sau, súng giật gây ra góc nảy như thế nào, có mấy nguyên nhân gây ra
góc nảy, góc nảy có ảnh hưởng tới bắn trúng mục tiêu như thế nào, biện pháp hạn
chế góc nảy ra sao? Muốn giải quyết được tình huống kỹ thuật, người dạy và học
phải nắm rất chắc nguyên lý bắn súng bộ binh, đồng thời phải có những kinh
nghiệm nhất định trong cuộc sống, trong thực tế sử dụng các loại vũ khí.
Khi xây dựng tình huống thuộc phần lý luận, đây là vấn đề khó, đòi hỏi giáo
viên phải có trình độ lý luận, khả năng khái quát cao, có nhiều thông tin, nhưng
thông tin đó phải được cập nhật, mang tính thời sự. Giáo viên cần có thời gian,
kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, những dẫn chứng minh họa sát thực, tính khoa
học cao. Ví dụ “Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, vấn đề tình huống được đặt ra: Thế
nào là khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); tại sao ta lại phải xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh (thành phố); khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) có vị trí tác dụng,
vị trí chiến lược quan trọng như thế nào trong từng giai đoạn lịch sử - trong thời
bình và trong thời chiến; nhiệm vụ, nội dung, biện pháp chủ yếu xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh (thành phố).
Tình huống được đặt ra trên đây được giải quyết như thế nào là cả một quá
trình học hỏi, tích lũy kinh nghiệm của giáo viên. Không thể nói là “Có”, “Không”,
14
- “Rất quan trọng”, nhưng có như thế nào, tại sao không, quan trọng đến mức nào, là
sự thể hiện trình độ lý luận, thực tiễn của giáo viên.
b) Xử lý tình huống (giải quyết vấn đề trong tình huống)
Muốn xử lý đúng đắn một tình huống phải qua 4 bước:
- Điều tra, nghiên cứu tình hình trên quan điểm hệ thống, toàn diện để thấy
được bản chất của sự mâu thuẫn trong tình huống.
- Phân tích các tình huống, mâu thuẫn trên cơ sở lý luận và thực tiễn.
- Tổng hợp, đề ra những chủ trương, biện pháp, phương pháp, cách làm cụ
thể để xử lý, giải quyết tình huống.
- Hành động trả lời câu hỏi làm gì, làm thế nào, ai làm, bao giờ làm, những
điều kiện cần có để làm ra sao.
c) Soạn bài giảng theo phương pháp tình huống
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài mục
- Giới thiệu lý thuyết hoặc những nguyên tắc cơ bản. Giới thiệu tài liệu, sách
mà người học có thể cần đọc, nghiên cứu, tham khảo.
- Giới thiệu tình huống - nghiên cứu cá nhân hoặc nghiên cứu thảo luận theo
nhóm, hoặc thảo luận ở lớp tùy thuộc vào không gian, thời gian, tính chất của tình
huống.
- Tổng kết thời gian tranh luận của học sinh, sinh viên, củng cố nâng cao
phần lý thuyết và khả năng thực hành.
Kết quả bài giảng theo phương pháp tình huống được đánh giá bởi sức thu
hút, hấp dẫn của buổi học, ai cũng động não, phát huy óc phê phán, óc tư duy sáng
tạo, tích cực tham gia thảo luận để tìm ra phương án xử lý tối ưu.
1.1.6. Tổ chức lớp (đơn vị) khi thực hiện phương pháp dạy học bằng tình
huống GDQP-AN
Trong phương pháp dạy học bằng tình huống tình huống, giáo viên thực
hiện những công việc sau đây:
- Phân chia thành các (nhóm tổ) học sinh trong lớp.
- Phân tình huống cho các nhóm học sinh giải quyết.
- Hướng dẫn các nhóm thảo luận, phân tích tình huống bằng cách đặt ra
những câu hỏi quan trọng hoặc những vấn đề then chốt của tình huống.
1.1.7. Quy trình giải quyết một bài tập tình huống
Giải quyết bài tập tình huống trên lớp tiến hành theo trình tự các bước:
Nghiên cứu cá nhân, thảo luận theo nhóm, viết báo cáo phân tích tình huống, thảo
luận chung cả lớp.
15
- a) Nghiên cứu cá nhân
Trong bước nghiên cứu cá nhân, học sinh phải đọc kỹ toàn bộ bài tập tình
huống để nắm bắt tình hình thực tế đang diễn ra, xác định vấn đề trung tâm đang
phải đối phó, cần phải giải quyết để có cơ sở đánh giá, phân tích định ra phương
án tối ưu nhất.
b)Thảo luận nhóm
Sau khi học sinh hoàn thành bước nghiên cứu cá nhân, giáo viên yêu cầu lớp
tiến hành thảo luận theo nhóm đã chia. Mỗi nhóm sẽ tập trung vào thảo luận các
thông tin và các đề xuất của các thành viên trong nhóm. Trong trường hợp bài tập
có nhiều vấn đề cần giải quyết, mỗi nhóm có thể tập trung vào một hoặc vài yêu
cầu cụ thể. Ví dụ: Trong quá trình tuần tra chúng ta gặp tình huống địch đang thám
hiểm, trinh sát trận địa quân ta. Vậy để giải quyết tình huống này chúng ta cần
phân tích và xác định các tình huống sẽ xảy ra như:
- Khu vực địch địch tập trung, xác định khu vực trọng tâm để quyết chiến.
- Xác định vị trí chặn đầu, khóa đuôi,
- Tập trung bao nhiêu binh lực, hỏa lực cho khu vực đánh địch tập trung, cho
chặn đầu, khóa đuôi, lực lượng đối diện cần bao nhiêu, sử dụng lực lượng nào.
Mục đích thảo luận nhóm không nhằm đạt đến một sự thống nhất trong
nhóm mà là giúp cho từng cá nhân có thể chắt lọc, điều chỉnh và phát triển ý kiến
riêng của mình. Bước thảo luận này cũng là cơ hội để học sinh làm quen và tập
luyện phương pháp làm việc nhóm, một phương pháp thể hiện được nhiều ý kiến,
trình bày được nhiều quan điểm cho riêng mình. Qua giai đoạn này, giáo viên có
thể trực tiếp hoặc thông qua các nhóm trưởng (tiểu đội trưởng) đánh giá tính chủ
động, tự giác của các thành viên trong nhóm, đặc biệt là khả năng tổ chức làm việc
trong mỗi nhóm.
c) Viết báo cáo phân tích tình huống
Sau khi thảo luận xong, học sinh sẽ phải viết một báo cáo cá nhân hoặc
chung cả nhóm. Nội dung của một báo cáo bao gồm phần giới thiệu tình huống,
phần phân tích tình huống, các biện pháp đề xuất.
Việc viết một báo cáo phân tích tình huống sau khi thực hiện xong các bước
nghiên cứu cá nhân, thảo luận nhóm là yêu cầu bắt buộc đối với từng học sinh,
sinh viên hoặc nhóm học sinh. Để đáp ứng những yêu cầu đối với một bài biết
phân tích tình huống, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh, sinh viên cách viết,
cách trình bày. Thông thường một bài viết phân tích tình huống có ba phần: phần
giới thiệu, phần phân tích và phần đề xuất.
- Phần giới thiệu tình huống là phần trình bày vắn tắt những gì đang thực
hiện trong GDQP-AN, quá trình phát triển của công tác GDQP-AN, những vấn đề
16
- gì mà GDQP-AN đang gặp phải và cách thức tiếp cận các vấn đề mà người viết sẽ
phải trình bày trong bài.
- Phần phân tích tình huống là phần trình bày toàn bộ nội dung của tình
huống ứng với từng bài học cụ thể trong GDQP-AN. Từng tình huống cụ thể sẽ
được phân tích kỹ từ tính chất, đặc điểm đến quy mô của diễn biến, mức độ ảnh
hưởng và khả năng thực hiện. Khi phân tích hiện tượng súng giật mạnh về sau đối
với người sử dụng súng, thì cần phân tích nguyên nhân gì làm cho súng giật; súng
giật về sau bị vai người sử dụng súng chặn lại sinh ra mô men quay quanh điểm tỳ
vai, làm cho súng xoay đi một góc so với vị trí ban đầu, qua đó sinh ra góc nảy.
Cần phân tích góc nảy càng lớn, mức độ bắn chính xác vào mục tiêu càng nhỏ.
Hay nói cách khác, người sử dụng súng bắn vào mục tiêu trúng nhiều hay ít phụ
thuộc vào góc nảy lớn hay nhỏ. Tình huống được đặt ra góc nảy sinh ra đối với
từng loại súng như tiểu liên AK, súng trường K44, CKC, súng ngắn K54, súng
trung liên RPD có gì khác nhau, ảnh hưởng góc nảy của từng loại súng với bắn
trúng mục tiêu ra sao.
- Phần thứ ba của bài viết là trình bày những phương pháp, biện pháp và
những kiến nghị, đề xuất. Cần chú ý các biện pháp, đề xuất đưa ra phải phù hợp
với những phân tích trước đó để những đề xuất, biện pháp thống nhất với nhau,
lôgic với nhau hơn. Chất lượng của những biện pháp, đề xuất là yếu tố hết sức
quan trọng để đánh giá sự hiểu biết, sáng tạo, đầu tư công sức cho giải quyết một
tình huống về GDQP-AN. Chẳng hạn, để bắn được trúng, chụm mục tiêu khi sử
dụng vũ khí thì cần có cách gì, biện pháp hạn chế góc nảy khi chế tạo vũ khí và
trong quá trình sử dụng vũ khí ra sao, đưa ra đề xuất cho người chế tạo vũ khí phải
cấu tạo, chế tạo các bộ phận giảm giật cho từng loại vũ khí nhằm hạn chế đến mức
thấp nhất sinh ra sức giật và góc nảy. Đưa ra những biện pháp khắc phục cho
người sử dụng vũ khí từ tư thế, động tác, yếu lĩnh bắn mục đích để hạn chế góc
nảy, bảo đảm cho mỗi phát bắn được trúng đích.
Thông qua báo cáo phân tích tình huống, giáo viên có thể đánh giá được khả
năng lập luận, phân tích thông tin và diễn đạt ý tưởng của học sinh, sinh viên.
d) Thảo luận chung cả lớp
Trong bước thảo luận chung của cả lớp, các nhóm phải cử ra một hoặc hai
đại diện của nhóm trình bày báo cáo phân tích tình huống và cách giải quyết trước
lớp (trung đội) và bảo vệ những đề xuất do nhóm đưa ra. Do đặc trưng của phương
pháp tình huống là mang tính mở, tức là có thể có nhiều phương án để giải quyết
các vấn đề đặt ra, nên đòi hỏi người thuyết trình phải có lập luận chặt chẽ khi đưa
ra phương án của nhóm và phải trả lời rất nhiều câu hỏi phản biện liên quan đến
những phương án do nhóm đưa ra. Như vậy, kết quả đánh giá trong giai đoạn này
sẽ phụ thuộc khá nhiều vào khả năng của người đại diện nhóm, nhưng nó cũng
phản ánh nỗ lực làm việc của nhóm.
17
- 1.1.8. Những điều kiện áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
Dạy học bằng phương pháp tình huống trong GDQP-AN sẽ đem lại nhiều
kết quả tốt. Tuy nhiên, áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống để bảo đảm
chất lượng cần có các điều kiện sau:
a) Về quy mô lớp học
Do điều kiện giáo viên và cơ sở vật chất còn thiếu nên vẫn bố trí một lớp
học đông, đây là cản trở rất lớn đối với việc áp dụng phương pháp tình huống. Một
lớp học đông sẽ có nhiều nhóm học tập (nhiều tiểu đội), do đó giáo viên không thể
đánh giá được hết sự chuẩn bị cũng như năng lực của học sinh. Mặt khác, quy mô
một lớp học lớn cũng dẫn đến việc quản lý trong thời gian nhóm thảo luận gặp khó
khăn đối với giáo viên và đồng thời tác động trực tiếp đối với học sinh có thái độ
không tích cực trong học tập. Khi triển khai làm bài tập tình huống và thảo luận
(thường chiếm khoảng 30% thời gian của môn học), lớp lớn sẽ được phân chia
thành các lớp nhỏ, lớp nhỏ sẽ được phân chia thành các nhóm học tập, như vậy sẽ
bảo đảm chất lượng, hiệu quả cho việc áp dụng phương pháp tình huống.
b) Xây dựng được các tình huống thực tế trong GDQP-AN
Một điều kiện mang tính tiên quyết để đạt được hiệu quả của phương pháp
tình huống là phải có tính thực tế. Trong chương trình, nội dung GDQP-AN có rất
nhiều tình huống có thể xây dựng được như điều lệnh, tâm lý học và giáo dục học
quân sự, quân binh chủng và quân đội nước ngoài, vũ khí hủy diệt lớn, công tác
Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đường lối quân sự và
lịch sử Nghệ thuật quân sự, công tác quốc phòng địa phương, binh khí kỹ thuật
chiến đấu bộ binh, kỹ thuật bắn súng bộ binh, chiến thuật cá nhân, tổ, tiểu đội,
trung đội bộ binh… Tuy nhiên, để xây dựng được tình huống mang tính khoa học,
có cơ sở lý luận và thực tiễn không phải là việc dễ làm. Xây dựng được tình huống,
giáo viên sẽ mất rất nhiều thời gian, rất nhiều công sức, phải có năng lực tư duy, có
kỹ năng khái quát, tổng hợp và đặc biệt phải có khả năng phân tích, đánh giá,
chứng minh các mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng. Khó khăn lớn nhất hiện nay của
đội ngũ giáo viên trong các trường THPT là việc xây dựng tình huống trong dạy và
học GDQP-AN. Thời gian qua, chúng ta tiếp cận và vận dụng chưa thật hiệu quả –
phương pháp dạy học bằng tình huống. Thói quen của phương pháp dạy học truyền
thống, phương pháp cũ, phương pháp thuyết trình độc thoại, một chiều vẫn khó
được thay đổi bởi những phương pháp tiên tiến, phương pháp mới, có chất lượng
hơn. Nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế trong nhận thức, tư duy cũ, cách
dạy học cũ, đội ngũ lãnh đạo quản lý trước hết phải gương mẫu, tiên phong trong
quá trình dạy học GDQP-AN bằng phương pháp tình huống. Đồng thời, thường
xuyên, quán triệt, kiểm tra, nhắc nhở đội ngũ giáo viên phải mạnh dạn, năng động,
sáng tạo, tự học hỏi, chuẩn bị đầy đủ các kỹ năng để xây dựng được các bài giảng
theo phương pháp tình huống trong dạy học GDQP-AN.
18
- c) Đầy đủ thiết bị, cơ sở vật chất chuyên dùng, học liệu GDQP-AN
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học GDQP-AN là yếu tố rất quan trọng nhằm
nâng cao chất lượng môn học. Thiết bị, cơ sở vật chất chuyên dùng phải đáp ứng
được những yêu cầu để giảng dạy và học tập tình huống, chẳng hạn như máy chiếu
Auvơhec, projector, video, đây cũng là yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến hiệu quả
của phương pháp dạy học bằng tình huống. Nếu sử dụng máy chiếu trong buổi thảo
luận thì lượng thông tin mà các nhóm thuyết trình sẽ nhiều hơn và đầy đủ hơn. Mặt
khác, các nhóm có thể thay nhau được nhiều lần, nhiều nhóm thuyết trình trong
thời gian quy định. Hơn thế nữa, trong thời gian thảo luận trên lớp học sinh cũng
dễ dàng tập trung nắm bắt được nội dung báo cáo của nhóm khác để có thể đặt câu
hỏi phản biện, qua đó giúp cho buổi thảo luận trở nên sôi nổi, hấp dẫn hơn, hiệu
quả cao hơn.
Môn học GDQP-AN khi áp dụng phương pháp tình huống phải có đủ giáo
trình riêng và các tài liệu tham khảo cần thiết để bảo đảm cho học sinh có thể tự
nghiên cứu và tích lũy những kiến thức cần thiết trước khi bắt tay vào phân tích
tình huống, cũng có thể xây dựng tình huống. Nếu thiếu hoặc không có giáo trình
theo thiết kế môn học sẽ ảnh hưởng ngay đến chất lượng bài học, vì giáo viên phải
dành nhiều thời gian làm việc trên lớp, thời gian dành cho người học phân tích và
thảo luận bài tập tình huống sẽ ít đi, như thế sẽ không có cơ hội thực hiện tốt
phương pháp dạy học này.
Có thể khẳng định, việc áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
trong GDQP-AN là việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay. Phương pháp dạy học
bằng tình huống sẽ phát huy tối đa khả năng tự nghiên cứu, sáng tạo của người
học. Phương pháp dạy học bằng tình huống còn tác dụng gắn kết quá trình học tập,
nghiên cứu của học sinh vào thực tiễn, đồng thời hoàn thiện các kỹ năng chuyên
môn như phân tích, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp. Các cơ sở đào tạo
coi việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống là biện pháp ưu tiên hàng
đầu để nâng cao chất lượng môn học GDQP-AN. Các trường học phải có kế hoạch
điều chỉnh đồng bộ cơ cấu lớp học, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên, tăng
cường cơ sở vật chất chuyên dùng và phương tiện giảng dạy, học tập GDQP-AN.
1.2. Dạy học bằng tình huống trong bài “Một số hiểu biết về nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân”
1.2.1. Tầm quan trọng của công tác quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các
hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật, ngoại giao… của nhà nước và nhân dân để tạo nên sức mạnh toàn diện, cân
đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ gìn hòa bình, đẩy lùi, ngăn
chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm
lược dưới mọi hình thức, quy mô tác chiến nào của đối phương. Nền quốc phòng
19
nguon tai.lieu . vn