Xem mẫu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
A. MỤC ĐÍCH, SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ, kéo theo là sự phát triển theo
cấp số nhân của tri thức nhân loại đòi hỏi người lao động có trình độ, năng lực, có
khả năng thích ứng cao. Đáp ứng nhu cầu của sự phát triển ấy của đất nước là
nhiệm vụ của giáo dục nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực năng động, chủ động, sáng
tạo.
2. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học. Phát huy tinh
thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học,
tự hoàn thiện học vấn và tay nghề...". Đổi mới cách học đồng nghĩa người dạy
phải đổi mới phương pháp dạy.
3. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học của người dạy nhằm thay đổi cách
dạy từ truyền đạt thụ động sang phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Việc này đòi hỏi người dạy phải nỗ lực đổi mới phương pháp để thoát khỏi cách
dạy truyền thống. Người học phải được đặt vào các tình huống có vấn đề, được
quan sát, giải quyết vấn đề theo suy nghĩ của bản thân, động não tư duy các
phương án giải quyết khác nhau trong một thời gian nhất định. Từ đó, không những
nắm được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn nắm được cách thức và con đường đi
tới tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó. Hiện nay rất nhiều phương pháp dạy học tích cực
đang được áp dụng trong các trường học như phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề, phương pháp gợi mở vấn đáp, phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ,
phương pháp trực quan, phương pháp dạy học luyện tập và thực hành, phương
pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, phương pháp dạy học trò chơi...
4. Phương pháp Bàn tay nặn bột là một trong số những phương pháp dạy học tích
cực có nhiều tính ưu việt đáp ứng yêu cầu "lấy người học làm trung tâm" của quá
trình dạy học. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp Bàn tay
Phạm Thị Thương Huyền 1 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
nặn bột còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng tư duy, kỹ năng diễn đạt thông
qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh trong quá trình người học tự tìm tri thức.
5. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia là trích đoạn, có thể nói, thâu tóm gần
như toàn bộ giá trị nội dung, nghệ thuật của tiểu thuyết Số đỏ. Tuy nhiên, để dạy
được vừa có sức hút lại vừa phải thể hiện được những đặc sắc trong nghệ thuật
trào húng của Vũ Trọng Phụng sử dụng các phương pháp, các kỹ thuật dạy học tích
cực là điều không phải dễ.
Từ những lý do trên, với mong muốn tạo dựng một tiết dạy khơi gợi được
hứng thú với bộ môn mà hiện nay các em đang dần mất niềm yêu thích cũng như
phát huy được tính tích cực của người học từ việc sử dụng các phương pháp, các
kỹ thuật dạy học tích cực, tôi thực hiện đề tài Phương pháp bàn tay nặn bột
trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
B. PHAM VI TRIÊN KHAI TH
̣ ̉ ỰC HIÊN
̣
1. Pham vi triên khai
̣ ̉
Đề tài thực hiện trên tiết dạy thuộc bộ môn Ngữ văn lớp 11, chương trình
học kỳ I, nên đối tượng hướng tới là học sinh lớp 11.
2. Pham vi nghiên c
̣ ưu
́
Phương pháp Bàn tay nặn bột.
Sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh
phúc của một tang gia.
C. NÔI DUNG
̣
1. Tinh trang giai phap
̀ ̣ ̉ ́
1.1. Tinh trang chung
̀ ̣
Đổi mới phương pháp dạy học là xu hướng tất yếu ở tất cả bộ môn trong
nhà trường. Tuy nhiên, với đặc thù riêng của môn Ngữ văn, so với các bộ môn khác,
việc đổi mới diễn ra tương đối chậm và dè dặt, người dạy vẫn dạy theo phương
pháp diễn giảng truyền thống, người học vẫn tiếp nhận thụ động là chủ yếu.
Phạm Thị Thương Huyền 2 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Bàn tay nặn bột là phương pháp đang được sử dụng trong nhiều môn học
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc khám phá, tìm tòi tri
thức. Phương pháp này có nhiều ưu điểm nhưng lại chỉ được sử dụng chủ yếu ở
các môn khoa học tự nhiên, các môn khoa học xã hội, trái lại, rất ít.
Đối với bộ môn Ngữ văn, phương pháp này hiện nay trên các trang mạng xã
hội chỉ chủ yếu được thực hiện ở các tiết dạy trong chương trình THCS, còn
chương trình THPT chưa có tiết học trình diễn nào được đưa lên.
Thêm nữa, qua theo dõi, đối chiếu, bản thân tôi nhận thấy các tiết học áp
dụng phương pháp Bàn tay nặn bột ở các bộ môn khoa học tự nhiên, các bước
giảng dạy bộc lộ rõ bản chất của phương pháp hơn là ở môn Ngữ văn, đặc biệt là
các tiết dạy đọc hiểu văn bản. Các tiết dạy Ngữ văn sử dụng Bàn tay nặn bột
dường như chỉ mang tính đảm bảo các bước cần có còn về bản chất vẫn là sử
dụng phương pháp truyền thống, giáo viên đặt câu hỏi, học sinh tìm chi tiết trả lời.
Hạnh phúc của một tang gia là một trong số những tiết giảng nằm trong
phần trọng tâm của chương trình học lớp 11. Đồng thời, đây cũng là phần văn bản
của "một tác phẩm ghê gớm có thể làm danh dự mọi nền văn học" nên được nhiều
thầy cô đầu tư công sức và cho ra những bài dạy trên các trang học trực tuyến, trang
học cộng đồng hay trang cá nhân là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chủ yếu văn bản vẫn
được các thầy cô tiếp cận trên phương pháp truyền thống: giáo viên đặt câu hỏi,
học sinh tìm các đơn vị kiến thức theo định hướng sẵn của thầy cô. Đối với đoạn
trích này, bản thân tôi cũng chưa tìm được một bài giảng mẫu theo phương pháp
Bàn tay nặn bột.
Để thực hiện đề tài, việc tìm tòi, tham khảo những tài liệu liên quan đến
phương pháp Bàn tay nặn bột cũng như đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia là
điều tất yếu. Thêm nữa, các tiết dạy truyền thống là nguồn tư liệu quý giúp người
viết bám chắc vào cốt lõi của tác phẩm từ đó lĩnh hội, tiếp thu và áp dụng phương
Phạm Thị Thương Huyền 3 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
pháp dạy học mới với mong muốn mang đến một cách tiếp cận trong việc giảng
dạy trích đoạn.
1.2. Tinh trang cua nha tr
̀ ̣ ̉ ̀ ương
̀
Không nằm ngoài tình trạng chung của bộ môn, giảng dạy môn Ngữ văn
trong Trường THPT Nà Tấu vẫn theo phương pháp truyền thống, diễn giảng là chủ
yếu. Đồng nghĩa với đó là việc tiếp cận các tác phẩm là tập trung vào phát huy tính
tích cực của... người dạy. Điều này một phần là do bản thân giáo viên "ngại" thay
đổi bởi cách dạy truyền thống đã bám sâu vào ý thức; một phần là do đối tượng
học sinh của nhà trường ít được tiếp cận với các phương pháp dạy học tích cực từ
bậc THCS, mặt bằng nhận thức so với các vùng khác cũng thấp hơn. Thiếu bạo
dạn, hạn chế về ngôn ngữ cũng là "rào cản" khiến các thầy cô cũng khó có thể áp
dụng được các phương pháp dạy học mới.
Trong quá trình giảng dạy, diễn giảng cũng là cách dạy mà bản thân người
viết đã áp dụng trong các tiết dạy của mình. Tuy nhiên, với mong muốn mang đến
một cách tiếp cận nhằm phát huy hơn nữa tính tích cực, chủ động của học sinh
trong chiếm lĩnh tri thức, người viết nhận thấy cần có sự thay đổi dần bằng cách
học hỏi và áp dụng thêm các phương pháp dạy học tích cực. Lựa chọn phương
pháp Bàn tay nặn bột cũng là vì thế.
2. Nôi dung giai phap
̣ ̉ ́
2.1. Muc đich nghiên c
̣ ́ ứu
Nắm rõ bản chất cũng như sự tối ưu của phương pháp Bàn tay nặn bột trong
việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Đưa ra một cách tiếp cận trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một
tang gia để khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích cũng như ngòi
bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng.
2.2. Nôi dung sang kiên
̣ ́ ́
2.2.1. Phương pháp Bàn tay nặn bột
Phạm Thị Thương Huyền 4 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột", tiếng Pháp là La main à la pâte viết
tắt là LAMAP; tiếng Anh là Handson, là phương pháp dạy học khoa học dựa trên
cơ sở của sự tìm tòi nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự
nhiên. Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải
Nobel Vật lý năm 1992).
2.2.1.1 Cơ sở khoa học của phương pháp Bàn tay nặn bột
Là một phương pháp dạy học tích cực, phương pháp Bàn tay nặn bột được xây
dựng dựa trên các cơ sở khoa học:
Dạy học khoa học dựa trên tiếp cận tìm tòi, khám phá là con đường, cách
thức khác nhau, trong đó các nhà khoa học nghiên cứu thế giới tự nhiên và đề xuất
các cách giải thích dựa trên bằng chứng thu thập được. Là các hoạt động phát triển
các kiến thức và nhận thức được cách thức phát triển các kiến thức đó của người
học.
Kiến thức đó là quá trình tự xây dựng của người học . Hiểu biết khoa học
không chỉ giản đơn là biết thu thập các sự kiện, đó là quá trình học về thế giới và
giải quyết các vấn đề. Vì vậy, học sinh nên được dạy theo cách làm thế nào để
hiểu biết về thế giới hơn là chỉ ghi nhớ các sự kiện. Học sinh nên được dạy để
biết cách tư duy như những nhà khoa học hơn là việc chỉ thụ động thu nhận thông
tin.
Vì vậy, trong tiến trình tìm tòi, khám phá học sinh xây dựng kiến thức và những
hiểu biết mới dựa trên những điều họ đã biết và tin tưởng. Kiến thức và những
quan niệm (niềm tin) mà học sinh mang đến lớp ảnh hưởng rất lớn đến việc học
tập. Vì vậy, học tập không còn là việc phải ghi nhớ cái này hay cái kia mà học sinh
tự xây dựng kiến thức cho bản thân mình trong quá trình học.
Vai trò của môi trường học tập với các mối quan hệ tương tác có tính hợp tác
thì sự phát triển không thể tách rời khỏi bối cảnh cụ thể. Ở đây, ngôn ngữ đóng vai
trò trung tâm trong sự phát triển trí tuệ. Học tập hiệu quả đòi hỏi khả năng kiểm
Phạm Thị Thương Huyền 5 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
soát việc học (nhận thức được về quá trình học và có thể phân tích, thay đổi khi
cần thiết).
Các giai đoạn phát triển trí tuệ của người học. Sự phát triển trí tuệ của học
sinh giai đoạn trước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển trí tuệ của các em ở
giai đoạn sau, tức là có sự kế thừa ở các giai đoạn phát triển trí tuệ. Trong tiếp cận
tìm tòi, khám phá phải đưa người học tham gia vào quá trình đó ngay từ khi còn nhỏ
để có được sự kế thừa vững chắc. Ở học sinh cấp THCS, đặc biệt là ở các lớp đầu
bậc, thao tác cụ thể đóng vai trò cơ bản. Chất lượng của các thao tác cụ thể phụ
thuộc vào các biểu tượng, các khái niệm mà người học có được. Vì vậy, trong hoạt
động tìm tòi, khám phá, học sinh cần được thao tác trên các vật liệu thật, dễ cảm
nhận để xây dựng các hiểu biết về thế giới. Đối với bộ môn Ngữ văn, đó là các tài
liệu trực quan như sách vở, tranh ảnh, video liên quan đến tiết học.
Như Georger Charpak nói "Người ta có thể đi chơi lên núi mà không phải là một
vận động viên leo núi, người ta có thể chơi nhạc mà không cần là nhạc sỹ chuyên
nghiệp, cũng như người ta có thể tiến hành các hoạt động tìm tòi nghiên cứu mà
không cần phải là chuyên gia khoa học", thì sẽ trả lời cho những băn khoăn về việc
đưa học sinh vào trong quá trình tìm tòi nghiên cứu thì có sức hay không.
2.2.1.2. Tiến trình sư phạm của phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Tiến trình của dạy học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột về hình thức giống
như tiến trình giải quyết vấn đề. Đầu tiên là đề nghị thực hiện một nhiệm vụ, một
dự án, một thí nghiệm hay miêu tả một tình huống. Trên cơ sở các tình huống đó
người đọc được đối đầu với các quan niệm, từ đó nảy sinh vấn đề. Trên cơ sở các
vấn đề sẽ dự đoán, đưa ra các giả thuyết, tiến hành nghiên cứu và giải quyết vấn
đề. Cuối cùng là hợp thức hóa kiến thức. Trong tiến trình này có sự trở đi trở lại
giữa nghiên cứu giải quyết vấn đề với dự đoán giả thuyết, cũng như hợp thức hóa
kiến thức với vấn đề. Trong quá trình hợp thức hóa kiến thức có thể nảy sinh
những vấn đề mới và một chu trình tiếp theo lại bắt đầu.
Phạm Thị Thương Huyền 6 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi có vấn đề
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, các tình huống đưa ra ban đầu không nhất thiết
phải xây dựng thành tình huống vấn đề. Có thể gọi nó là các nhiệm vụ học tập
hoặc nhiệm vụ khám phá. Đây cũng là thuận lợi cho giáo viên trong việc lựa chọn
các tình huống dạy học. Khi đưa ra các nhiệm vụ, người học phải đối đầu với các
quan niệm, việc này làm nảy sinh vấn đề. Điều này là quan trọng để lựa chọn tình
huống ban đầu cụ thể và có ý nghĩa đối với người học.
Yêu cầu của tình huống là phải khai thác được những quan niệm có trước
hoặc các ý tưởng của người học, phải thách thức kiến thức đã có của người học,
phải kích thích hoạt động học sao cho học sinh tiếp nhận vấn đề cần giải quyết và
bắt tay vào giải quyết. Tình huống phải có nghĩa với người học và phải gần gũi với
học sinh. Vì vậy, quan điểm của phương pháp Bàn tay nặn bột là đưa lớp học trở
về gần với tự nhiên. Tự nhiên ở đây là trạng thái làm việc (hoạt động) được thoải
mái, học sinh có nhiều cơ hội để thể hiện mình trong môi trường học tập an toàn.
Như vậy, phương pháp không chỉ mở ra những bài học trên lớp mà cả những bài
học ngoài lớp học.
Làm thế nào để có thể tổ chức được các tình huống? Đây là câu hỏi mà
trong quá trình vận dụng đặt ra. Có nhiều cách tổ chức tình huống cho phương pháp
như có thể trả lời cho một câu hỏi tình huống, hoặc giáo viên có thể đặt câu hỏi về
các sự kiện thường thấy thường ngày, tình huống cũng có thể yêu cầu học sinh lựa
chọn trong số những mô hình tương tự khác nhau; có thể yêu cầu học sinh thực
hiện các hình vẽ, sơ đồ hóa bên trong; đặt ra những tình huống với các lập luận
giả định; hoặc đặt ra các sự kiện dường như mâu thuẫn và tạo ra các cuộc thảo
luận; hoặc yêu cầu đóng vai, xác định nghĩa một vài từ; hoặc đưa cả lớp đến với
quan điểm rút ra từ lịch sử khoa học.
Bước 2: Dự đoán, giả thuyết
Sau khi tổ chức tình huống, người học sẽ bộc lộ quan điểm, và việc đối đầu
Phạm Thị Thương Huyền 7 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
quan điểm sẽ tiếp tục làm nảy sinh vấn đề. Từ vấn đề, người học sẽ đề xuất đáp
án và giả thuyết. Quan niệm ban đầu của học sinh có tính chất cá nhân nên đòi hỏi
sự đa dạng, phong phú. Để đảm bảo quan niệm ban đầu phù hợp để tổ chức theo ý
đồ sư phạm, giáo viên cần chú ý khi lựa chọn quan niệm ban đầu để đưa ra thảo
luận như: không chọn các quan niệm ban đầu hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai so
với câu hỏi; tuyệt đối không có bình luận hay nhận xét gì về quan niệm ban đầu
của học sinh; làm rõ các điểm khác nhau là một mấu chốt quan trọng, tạo động lực
tìm tòi, khám phá.
Bước 3: Đặt ra câu hỏi
Đặc điểm chủ yếu của khoa học là tính khách quan, cái cốt lõi của nó là sự suy
luận, thường được xây dựng từ trực giác, hay giả thuyết: sự chứng minh nó cần
dựa trên kiểm tra bằng thực hành, thí nghiệm. Giáo viên cần khuyến khích học sinh
suy nghĩ, phát vấn đề, đề xuất các phương án, giả thuyết; chú ý đến những kinh
nghiệm, trong đó có thể tiềm ẩn những mâu thuẫn. Việc đưa ra giả thuyết có thể
diễn đạt bằng lời, có thể bằng văn bản, đưa ra thí nghiệm để kiểm chứng những
giả thuyết của mình hoặc của nhóm trước lớp
Bước 4: Nghiên cứu và giải quyết vấn đề (Tiến hành)
Quá trình nghiên cứu giải quyết vấn đề nhằm tập trung những mô tả, những thí
nghiệm, kiểm tra và cô lập các thông số cũng như các biến đổi của chúng. khai thác
thông tin, đối chiếu dữ liệu thực nghiệm với các giả thuyết. Mục tiêu của bước
này là tìm kiếm các luận cứ và bằng chứng cho quá trình thực hiện
Bước 5: Hợp lý hóa kiến thức
Việc tiếp nhận và tái cấu trúc kiến thức thông qua diễn đạt nói hoặc viết sẽ cho
phép người học làm sáng tỏ những yếu tố mới của kiến thức, đối chiếu kiến thức
đã có với kiến thức đã thiết lập, tìm kiếm nguyên nhân bất đồng có thể có. Quá
trình tìm nguyên nhân ấy có thể dẫn tới quá trình tiếp theo.
"Chuẩn bị cho trẻ vào cuộc sống dân chủ, tức là cho trẻ ham thích tham gia tranh
Phạm Thị Thương Huyền 8 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
luận, dạy cho các em cách phát biểu ý kiến của mình, đối chiếu với quan điểm của
người khác" Sharpark
2.2.1.3. Đặc trưng của phương pháp Bàn tay nặn bột
Vậy phương pháp Bàn tay nặn bột có gì khác so với các phương pháp dạy học
tích cực khác?
Trước hết, phương pháp này nhấn mạnh rèn tư duy và phương pháp làm
việc của nhà khoa học. Đối với môn Ngữ văn thì chủ yếu sử dụng hình thức
nghiên cứu tài liệu như đọc báo, tài liệu điện tử...; hoặc nghiên cứu qua quan sát để
quan sát hoặc khai thác các tài liệu như hình ảnh, dữ liệu.... Người học, trong quá
trình nghiên cứu phải đối đầu với một tình huống, biết cách khai thác các nguồn tài
nguyên khác nhau, hành động và cùng hành động để nghiên cứu, để đối đầu quan
niệm, để phân tích, hiểu, để sinh ra kiến thức mới...; suy nghĩ và cùng đánh giá về
quá trình vận hành và sản phẩm, tái cấu trúc và nhập kiến thức vào hệ thống kiến
thức đã có giúp các kiến thức trở nên bền vững và vận dụng linh hoạt để giải quyết
các tình huống thực tiễn, chuyển đổi để lý giải những tình huống không phải là
quen thuộc.
Thứ hai, rèn cho học sinh từng bước làm chủ ngôn ngữ nói và viết . Ngôn
ngữ là phương tiện rất đắc lực của hoạt động trí tuệ như tri giác, tưởng tượng, trí
nhớ, tư duy. Việc dạy học sinh tích lũy và phát triển ngôn ngữ chính là tiền đề cho
sự phát triển năng lực cá nhân của người học. Làm chủ ngôn ngữ không chỉ là sự
mong đợi của xã hội, của cha mẹ mà cũng là điều ưu tiên của nền giáo dục quốc
gia, là một trong những mục tiêu mà Bàn tay nặn bột hướng đến. Dạy học môn
khoa học, xét về mặt nào đó là dạy học một ngôn ngữ, một ngôn ngữ đặc biệt, có
tác dụng to lớn trong việc diễn tả các sự kiện, các phương pháp trong các lĩnh vực
khác nhau của khoa học và thực tiễn. Đây cũng là đặc trưng của bộ môn Ngữ văn,
rèn ngôn ngữ của học sinh thông qua sự luân phiên trao đổi ngôn ngữ (tranh luận,
thảo luận), trong cách trình bày rõ ràng về văn phạm, diễn cảm về giọng điệu, qua
Phạm Thị Thương Huyền 9 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
cách thức trao đổi để học cách giao tiếp. Không chỉ là ngôn ngữ nói mà còn là ngôn
ngữ viết. Đây là một trong những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất của con người, có
vai trò rất quan trọng trong công việc của bất kỳ cá nhân nào và ở bất kỳ vị trí công
tác nào. Ở bộ môn Ngữ văn, học sinh được rèn qua việc đọc hiểu các văn bản
thuộc các phân môn của bộ môn.
Thứ ba, tạo thuận lợi cho học sinh bộc lộ và thay đổi quan niệm ban đầu
theo con đường kiến tạo. Vư gôt xky đã nhấn mạnh vai trò của những kiến
thức, quan niệm đã có trong quá trình dạy học "Sự hình thành những khái niệm khoa
học chỉ có thể hiệu quả khi trẻ đã xây dựng những khái niệm ấy trong đời sống
hàng ngày". Những quan niệm ban đầu này có nguồn gốc từ yếu tố xã hội, văn hóa,
những sai lầm trong lịch sử khoa học... và ngay cả dạy học cũng có thể gây ra
những quan niệm này. Đặc biệt là nguyên nhân do đặc trưng của hoạt động nhận
thức. Đây là tổng thể các ý nghĩ, hình ảnh được sử dụng để giải thích các vấn đề
trong cuộc sống, là giải thích đơn giản, được học sinh quy chiếu với cuộc sống của
họ và các quan niệm thường được nhân hóa. Trong quá trình thực hiện giờ dạy,
giáo viên cần lưu ý để có thể gộp nhóm các quan niệm.
Đặc trưng của Bàn tay nặn bột là tạo cho học sinh bộc lộ và thay đổi quan
niệm. Do vậy, đối với người học, phải tạo điều kiện cho họ ý thức và nhận ra
quan niệm của mình có điểm gì khác so với quan niệm của các bạn học. Sự đa
dạng của quan niệm sẽ nảy sinh vấn đề và tạo động cơ cho hoạt động học. Đối
với người dạy, giúp làm nổi bật chướng ngại học sinh gặp phải, đánh giá trình độ
học sinh, nhận thức được khoảng cách giữa quan niệm và kiến thức cần đạt, từ đó,
xác định lục tiêu học tập của học sinh để tổ chức các tình huống phù hợp nhất. Đối
với những quan niệm ban đầu của người học, người dạy có rất nhiều cách ứng xử
với nó. Không né tránh hay làm việc một cách hình thức, người dạy phải làm việc
thực sự với quan niệm ban đầu của học sinh để đi đến cách chống lại nó, sử dụng
các quan niệm để chính học sinh nhận ra sai lầm, từ đó phát triển và thay đổi quan
Phạm Thị Thương Huyền 10 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
niệm, là thái độ duy nhất phù hợp trong tiến trình xây dựng kiến thức mà phương
pháp Bàn tay nặn bột mong muốn khi giáo viên tổ chức dạy theo phương pháp này.
Vậy làm thế nào để có thể tiếp nhận được quan niệm của học sinh? Người dạy
có thể trao đổi, ghi lại; có thể qua diễn đạt viết; qua tiến hành thí nghiệm... Từ
việc phân tích quan niệm sẽ xác định mục tiêu, thực hiện phân tích kiến thức cần
dạy, sử dụng các quan niệm của học sinh vào các tình huống để làm đối đầu các
quan niệm.
Như vậy, quan niệm là công cụ cơ bản trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức
khoa học. Tuy nhiên, nó chỉ đưa lại tất cả các ý nghĩa khi sử dụng nó một cách đúng
đắn. Việc làm nổi lên các quan niệm sai, phân tích chúng, sau đó đối đầu với chúng
để làm chúng tiến triển là cần thiết vì chúng tạo nên chướng ngại thực sự đối với
việc tiếp thu tri thức khoa học.
Thứ 4, rèn cho học sinh biết cách sử dụng vở thực hành. Vở thực hành chính
là công cụ giúp người học nhìn nhận lại quá trình học, giúp giáo viên nhìn thấy sự
tiến bộ của người học. Điều này có được nhờ những "nhật ký" học sinh ghi lại
trong vở như: Câu hỏi là gì? Làm thế nào để trả lời? Những gì tôi tìm thấy? Tôi đã
làm gì? Làm thế nào tôi có thể làm tốt hơn? Kết quả của tôi là tương thích với
người khác? Kết quả của nhóm tương thích với kết quả của khoa học?...
Như vậy, điểm tương đồng của phương pháp này so với các phương pháp dạy
học tích cực khác là ở chỗ đều nhằm tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực, tự
lực giải quyết vấn đề với 3 bước chính là: chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh; học
sinh hoạt động tự chủ giải quyết vấn đề; báo cáo, hợp thức hóa và vận dụng kiến
thức mới. Điểm khác biệt của phương pháp Bàn tay nặn bột so với các phương
pháp khác là ở chỗ các tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề là những sự
vật hay hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và
các em sẽ thực hành trên những cái đó. Đặc biệt, phương pháp Bàn tay nặn bột chú
trọng việc giúp cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu để tạo ra các mâu thuẫn
Phạm Thị Thương Huyền 11 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
nhận thức làm cơ sở đề xuất các câu hỏi và giả thuyết. Hoạt động tìm tòi nghiên
cứu trong phương pháp Bàn tay nặn bột rất đa dạng, trong đó các phương án thí
nghiệm nếu được tiến hành thì chủ yếu là các phương án được đề xuất bởi
chính học sinh, với những dụng cụ đơn giản, dễ kiếm. Đặc biệt, trong phương
pháp Bàn tay nặn bột, học sinh bắt buộc phải có mỗi em một quyển vở thí
nghiệm do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em.
Thông qua các hoạt động như vậy, phương pháp Bàn tay nặn bột nhằm đạt được
mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và kĩ
thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.
2.2.2. Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của
một tang gia
2.2.2.1. Xây dựng tình huống và xác lập câu hỏi có vấn đề
Với đoạn trích, tình huống có vấn đề sẽ khơi gợi được suy nghĩ, phán đoán
của học sinh.
Ở đây, giáo viên có thể lựa chọn video về nỗi đau của dân tộc Việt Nam
cũng như nhân dân thế giới trước sự ra đi của Bác Hồ, người cha già vĩ đại của dân
tộc, một nhà cách mạng lỗi lạc của nhân dân lao động toàn thế giới để đối chiếu
cùng vấn đề đó được đặt ra trong đoạn trích.
Sau khi theo dõi video, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Video nói về sự
kiện nào? Em có nhận xét gì về tình cảm, thái độ của những người trong video về
sự kiện đó? Bản thân em có cảm xúc gì khi theo dõi đoạn video?
Đây là một tình huống có vấn đề, được khơi gợi từ một tình huống thực tế
các em thường thấy trong đời sống: Nỗi đau buồn của con người trước sự ra đi của
người thân, mà ở đây là nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới
trước sự ra đi mãi mãi của Chủ tịch Hồ Chí Minh một nỗi đau không gì có thể bù
đắp được.
Phạm Thị Thương Huyền 12 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Giáo viên chủ động đưa ra câu hỏi có vấn đề để dẫn nhập vào trọng tâm
của bài học: Vậy phải chăng khi sang bên kia thế giới, người ra đi đều nhận được
niềm đau đớn, tiếc thương của những thành viên trong gia đình cũng như những
người xung quanh?
2.2.2.2. Dự đoán và giải quyết (Bộc lộ biểu tượng ban đầu)
Từ câu hỏi có vấn đề đối chiếu với nhan đề của đoạn trích, học sinh tiếp tục
được khuyến khích nêu ra những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về vấn đề
từ trong đời sống.
Giáo viên có thể yêu cầu học sinh: Viết các từ có cùng trường nghĩa diễn tả
những trạng thái tình cảm của con người khi chứng kiến sự ra đi của một con
người, đặc biệt đó là người thân của họ?
Học sinh lần lượt thống kê các từ diễn tả trạng thái đó. Lúc này, giáo viên
phải chủ động phân loại sắp xếp những ý kiến của học sinh. Ở đây, học sinh có
thể chia thành hai phía với hai trạng thái tình cảm đối lập nhau:
Trạng thái tích cực Trạng thái tiêu cực
Đau buồn Vui mừng
Đau xót Vui sướng
Đau đớn Vui vẻ
Buồn thương Hạnh phúc
Tiếc thương Thoải mái
............ Dễ chịu
..........
2.2.2.3. Đặt câu hỏi
Từ những biểu tượng ban đầu của học sinh về các biểu hiện tình cảm khác
nhau của con người trước cái chết của một con người, giáo viên dẫn dắt học sinh
đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. Ở đây sự khác biệt bắt nguồn từ
chính hiện thực các em được trải nghiệm, có thể là sự trải nghiệm trực tiếp từ thực
tế, có thể là sự trải nghiệm gián tiếp qua các phương tiện thông tin, mạng xã hội...
Phạm Thị Thương Huyền 13 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Chính sự khác biệt trong các biểu tượng ban đầu của các em giúp giáo viên hướng
các kiến thức đó tới trọng tâm của bài học.
Từ các trạng thái tình cảm vừa liệt kê, nhìn vào nhan đề đoạn trích, các em
nhận thấy cần đặt ra những câu hỏi nào?
Lúc này, học sinh có thể đặt ra những câu hỏi: Tại sao nhà có người mất lại
hạnh phúc? Đặc biệt, học sinh sẽ đặt ra hai câu hỏi hướng đến trọng tâm của bài:
Những người trong gia đình có đau buồn không? Nếu có thì họ đau buồn như thế
nào? Họ có hạnh phúc không? Nếu có thì họ hạnh phúc như thế nào? Đây là hai câu
hỏi bao quát được hai trạng thái đối lập của những con người trong tang gia: giữa
vẻ ngoài (đau buồn) và bên trong (hạnh phúc). Đây cũng chính là yếu tố tạo nên
chất trào phúng cho tác phẩm. Và đây cũng chính là cơ sở để bản thân tôi lựa
chọn làm cách thức dẫn dắt các em khám phá đoạn trích.
Cùng với đó, các em cũng sẽ đặt thêm những câu hỏi khác như: Đoạn trích
nói về cái chết của ai? Người mất có quan hệ như thế nào với những người trong
gia đình? Gia đình được nhắc đến ở đây là gia đình như thế nào? Sự việc này xảy
ra ở thời đại nào?
Từ việc đặt ra các câu hỏi, giáo viên đưa câu hỏi định hướng: Vậy, dựa
vào hiểu biết và suy nghĩ của bản thân, bạn nào có thể đưa ra dự đoán cho những
vấn đề được các bạn đặt ra ở trên?
Từ hiểu biết thực tế về đời sống, vốn kiến thức đã có cũng như sự suy đoán
của bản thân, học sinh có thể đưa ra các phương án trả lời:
Nói đến tang gia, chắc chắn người mất phải là một người thân trong gia
đình.
Gia đình này có người mất mà vẫn thấy hạnh phúc khả năng là người mất
là người xấu khi sống làm những việc không tốt, hại người; hoặc đây là người mắc
bệnh khó chữa, khi sống phải đau đớn nên người nhà coi cái chết như là sự giải
thoát cho họ..
Phạm Thị Thương Huyền 14 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Nếu người chết là người tốt thì những người trong gia đình này phải chăng
là những người sống vô cảm, thiếu tình thân?
Nếu họ là những người thiếu tình thân thì chắc chắn xã hội lúc đấy là xã
hội có nhiều điều "chướng tai gai mắt", giống như xã hội trong buổi giao thời khi
người Pháp vừa hoàn thành xong quá trình xâm lược Việt Nam, khi nền tảng đạo
đức xã hội ngày càng suy đồi, khi những giá trị tốt đẹp của xã hội cũ bị mất đi uy
tín và mai một dần mà nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương từng nhắc đến trong bài
thơ "Đất Vị Hoàng": Nhà kia lỗi phép con khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi
chồng.
Từ các câu hỏi đề xuất, giáo viên định hướng đến việc đề xuất phương
án để tìm câu trả lời cho các câu hỏi được đặt ra: Vậy làm thế nào để tìm được câu
trả lời cho các câu hỏi đó? Học sinh phát biểu đề xuất các phương án: Phải tìm
hiểu về cuộc đời với các yếu tố: gia đình, quê hương, thời đại, bản thân; Phải tìm
hiểu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm; Phải tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ
thuật của đoạn trích...
Như vậy, các câu hỏi đặt ra đều xoay quanh chủ đề trung tâm của bài đó là
sự mâu thuẫn được đặt ra trong nhan đề đoạn trích: Hạnh phúc tang gia. Và
các phương án đưa ra cũng đều nhằm tới việc lý giải chủ đề trung tâm ấy.
Có thể biểu diễn mối quan hệ ấy như sau:
Khơi gợi Làm sáng tỏ
Đặt câu hỏi Nhan đề Đề xuất
Chủ đề trung phương án
tâm
cơ sở
2.2.2.4. Nghiên cứu và giải quyết vấn đề
Phạm Thị Thương Huyền 15 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Lúc này, giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh tiến hành nghiên cứu dựa vào các
phương án đề xuất của học sinh đi vào đọc hiểu chung về tác giả, tác phẩm; đọc
hiểu văn bản để tìm câu trả lời thích đáng cho các vấn đề học sinh đặt ra và đối
chiếu, kiểm nghiệm với các giả thuyết ban đầu.
Nếu như trước đây, việc tìm hiểu chung này học sinh tìm hiểu theo mệnh
lệnh của giáo viên thì giờ học sinh luôn phải tự đặt ra câu hỏi và tự tìm thông tin để
trả lời cho các câu hỏi đó, dưới sự giám sát, gợi ý của người dạy.
2.2.2.4.1. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu khái quát về tác giả, tác phẩm
? Điều gì trong cuộc đời Vũ Trọng Phụng khiến ông có thể có cái nhìn như thế
về cuộc sống?
Gia đình
Quê hương
Thời đại
? Hoàn cảnh nào đã chi phối đến nội dung của tác phẩm?
Hoàn cảnh sáng tác
2.2.2.4.2. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu mâu thuẫn trào phúng của đoạn trích
? Tại sao tác giả đặt nhan đề của chương tiểu thuyết như vậy? Nó có ý nghĩa
gì?
? Ngoài mâu thuẫn thể hiện ở nhan đề thì đoạn trích có những mâu thuẫn trào
phúng nào khác nữa?
2.2.2.4.3. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu giá trị nội dung của đoạn trích
? Nguyên nhân nào dẫn đến việc những người trong gia đình cụ cố Hồng lại
vui mừng trước cái chết của cụ cố tổ?
? Niềm vui ấy là niềm vui gì? Nó được thể hiện cụ thể như thế nào trong tác
phẩm?
Phạm Thị Thương Huyền 16 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
? Phải chăng chỉ có người trong tang gia mới hạnh phúc hay cái chết của cụ cố
tổ còn đem lại hạnh phúc cho những ai nữa?
2.2.2.4.4. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu giá trị nghệ thuật của đoạn trích
? Để thể hiện được hạnh phúc của tang gia ấy, Vũ Trọng Phụng sử dụng nghê
thuật nào?
2.2.2.4.5. Bàn tay nặn bột và việc tìm hiểu chiều sâu của đoạn trích
? Qua vấn đề được phản ánh, nhà văn Vũ Trọng Phụng thể hiện tư tưởng gì?
? Vấn đề được gợi ra trong tác phẩm có ý nghĩa như thế nào trong xã hội ngày
nay?
Có thể biểu diễn mối quan hệ ấy như sau:
Cuộc đời,
Tư tưởng, phong
cách, quan niệm
nghệ thuật
Nhan đề
Chủ đề
trung
Bên ngoài tâm Bên trong
(Bình (Bất bình
thường) thường)
Mâu thuẫn trào
phúng
2.2.2.5. Hợp lý hóa kiến thức
Phạm Thị Thương Huyền 17 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Dưới sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên, học sinh đối chiếu với nhận định ban
đầu để chốt lại kiến thức về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Đồng thời, từ đó rút ra được tư tưởng của nhà văn gửi gắm thông qua đoạn trích.
Không những thế, học sinh còn khắc sâu kiến thức hơn nữa khi đặt vấn đề
trong thời đại ngày nay. Từ việc đối chiếu với hiện thực đời sống để đưa ra những
ý kiến bình xét, thể hiện thái độ, đánh giá, học sinh tự hình thành cho mình cách ứng
xử đúng mực trong những trường hợp tương tự, và ngay cả những trường hợp mới
nảy sinh trong thực tiễn. Đây cũng chính là cách dạy của phương pháp Bàn tay nặn
bột khi hướng đến tự nhiên.
2.2.3. Thiết kế bài soạn sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy
đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia"
* Mục tiêu
1. Kiến thức
Bộ mặt thật của xã hội tư sản thành thị lố lăng, kệch cỡm.
Thái độ phê phán mạnh mẽ xã hội đương thời khoác áo văn minh, Âu hóa nhưng
thực chất hết sức giả dối, đồi bại và nỗi xót xa kín đáo của tác giả trước sự băng
hoại đạo đức con người.
Bút pháp trào phúng đặc sắc: tạo dựng mâu thuẫn và nhiều tình huống hài hước,
xây dựng chân dung biếm họa sắc sảo, giọng điệu châm biếm.
2. Kỹ năng
Đọc hiểu văn bản tự sự được viết theo bút pháp trào phúng.
3. Thái độ
Giáo dục phong cách sống, thái độ sống, cách ứng xử lành mạnh, văn minh, có đạo
lý.
A. Hoạt động khởi động
Cảm nghĩ của em sau khi xem xong đoạn video nói về ngày Bác mất?
Phạm Thị Thương Huyền 18 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
GV (đặt câu hỏi): Viết các từ có cùng trường nghĩa diễn tả những trạng thái tình
cảm của con người khi chứng kiến sự ra đi của một con người, đặc biệt đó là
người thân của họ?
Trạng thái tích cực Trạng thái tiêu cực
Đau buồn Vui mừng
Đau xót Vui sướng
Đau đớn Vui vẻ
Buồn thương Hạnh phúc
Tiếc thương Thoải mái
............ Dễ chịu
..........
GV (Dẫn dắt): Vậy phải chăng khi sang bên kia thế giới, người ra đi đều nhận
được niềm đau đớn, tiếc thương của những thành viên trong gia đình cũng như
những người xung quanh? Lấy đó làm đề tài cho một chương văn trong tiểu thuyết
Số đỏ của mình, nhà văn Vũ Trọng Phụng phản ánh liệu có theo quy luật tự nhiên
ấy? Chúng ta cùng nhau đến với đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
Từ tình huống trên, nhìn vào Tại sao nhà có người mất lại hạnh phúc?
nhan đề đoạn trích, đối Người mất ấy là ai?
chiếu với các từ cùng trường Người mất có quan hệ như thế nào với những
nghĩa đã liệt kê, các em nhận người trong gia đình?
thấy cần đặt ra những câu Gia đình được nhắc đến ở đây là gia đình như thế
hỏi nào? nào?
Những người trong gia đình có đau buồn không?
Nếu có thì họ đau buồn như thế nào?
Họ có hạnh phúc không? Nếu có thì họ hạnh
phúc như thế nào?
Phạm Thị Thương Huyền 19 Trường THPT Nà Tấu
- Phương pháp Bàn tay nặn bột trong giảng dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Sự việc này xảy ra ở thời đại nào mà lại có
nghịch lý đó?
...
Vậy, dựa vào hiểu biết và Nói đến tang gia, chắc chắn người mất phải là
suy nghĩ của bản thân, bạn một người thân trong gia đình.
nào có thể đưa ra dự đoán Gia đình này có người mất mà vẫn thấy hạnh
cho những vấn đề được các phúc khả năng là người mất là người xấu khi sống
bạn đặt ra ở trên? làm những việc không tốt, hại người; hoặc đây là
người mắc bệnh khó chữa, khi sống phải đau đớn
nên người nhà coi cái chết như là sự giải thoát cho
họ..
Nếu người chết là người tốt thì những người
trong gia đình này phải chăng là những người sống
vô cảm, thiếu tình thân?
Nếu họ là những người thiếu tình thân thì chắc
chắn xã hội lúc đấy là xã hội có nhiều điều
"chướng tai gai mắt", giống như xã hội trong buổi
giao thời khi người Pháp vừa hoàn thành xong quá
trình xâm lược Việt Nam, khi nền tảng đạo đức xã
hội ngày càng suy đồi, khi những giá trị tốt đẹp
của xã hội cũ bị mất đi uy tín và mai một dần mà
nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương từng nhắc đến
trong bài thơ "Đất Vị Hoàng": Nhà kia lỗi phép con
khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
GV: Vậy những câu hỏi và những phán đoán của các bạn về đoạn trích như thế có
đúng không? Làm thế nào để tìm được câu trả lời cho các câu hỏi đó?
HS (Đề xuất phương án)
Phạm Thị Thương Huyền 20 Trường THPT Nà Tấu
nguon tai.lieu . vn