- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực chung của học sinh lớp chủ nhiệm bằng một số hoạt động ứng dụng thuyết đa trí tuệ tại trường THPT Tân Kỳ
Xem mẫu
- Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện
giá trị nhân cách con người Việt Nam…bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh
niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo
đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”. Yêu cầu phát triển năng lưc của
người học cũng là mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới. Trước đòi
hỏi của thực tiễn xã hội, của nhiệm vụ giáo dục và đào tạo con người,các giáo viên
luôn trăn trở làm thế nào để hoàn thành tốt sứ mệnh cao cả đó.
Là một giáo viên chủ nhiệm, gánh trên vai nhiều vai trò nhiệm vụ: là hiệu
trưởng con, là nhà cố vấn, là nhà tổ chức, là cầu nối giữa gia đình nhà trường và xã
hội…. ,vai trò nào cũng quan trọng, bản thân tôi cũng mong mỏi làm thế nào để là
người góp phần hình thành phẩm chất và năng lực cho học sinh theo yêu cầu mới
đó. Tôi muốn có một sự chuẩn bị tốt cho chương trình mới vào những năm tới nên
đã cố gắng tìm ra những phương pháp, lý thuyết đáp ứng yêu cầu giảng dạy và
giáo dục hiện nay.Tôi muốn giúp học trò tự tin và phát triển năng lực của
chúng.Tân Kỳ là một huyên miền núi nghèo, các em đa số xuất phát từ các gia đình
có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các em ít được trải nghiêm như học sinh thành phố.
Các em không dám tự tin khẳng định mình mặc dù có những em tiềm ẩn nhiều khả
năng. Tôi thực sự quan tâm đến thuyết đa trí tuệ, thay vì quan niệm cũ cho rằng trí
tuệ là IQ, trò thông minh là trò học giỏi các môn văn hóa ở trường thì thuyết này
tạo ra cho tôi niềm tin đào tạo học trò toàn diện hơn, phát huy tối đa hơn khả năng
mà các em sở hữu; Tôi nghiên cứu vận dụng thuyết này vào giảng dạy, giáo dục
học trò phát huy được tính tích cực, cho phép giáo viên sử dụng những hiểu biết
sâu sắc về các loại trí thông minh khác nhau để hướng dẫn, để thiết lập mục tiêu,
đưa ra nội dung và phương pháp giáo dục nhằm phát triển thế mạnh sẵn có của học
sinh, đồng thời giúp các em khám phá kiến thức và kỹ năng mới để dần hình thành
năng lực. Tôi đã thử nghiệm cho học sinh lớp mình chủ nhiệm ba năm để có thể
khẳng định kết quả rõ ràng; thậm chí năm nay tôi vẫn tiếp tục áp dụng với lớp chủ
nhiệm hiện tại và có những kết quả khả quan; đó là động lực để tôi viết đề tài sáng
kiến “ Phát triển năng lực chung của học sinh lớp chủ nhiệm bằng một số hoạt
động ứng dụng thuyết đa trí tuệ tại trường THPT Tân Kỳ”
2.Tính mới của đề tài
Đề tài giúp hiểu rõ thuyết đa trí tuệ và áp dụng nó vào các hoạt động, bài học
nhằm để phát huy “năng lực chung” cho học sinh lớp chủ nhiệm nói riêng và học
sinh nói chung, là mục tiêu mới trong chương trình phổ thông sắp được áp dụng
cho THPT.
Đây là mục tiêu mà Bộ giáo dục đang hướng tới trong sự nghiệp đào tạo con
người; các nhà trường và giáo viên đang cần.
1
- Phần II. NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
II.1.1. Cơ sở lý luận
Mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông; theo dự thảo chương trình phổ
thông mới sau năm 2015, Bộ GD&ĐT xác định: “Chương trình giáo dục phổ thông
nhằm giúp học sinh phát triển khả năng vốn có của bản thân, hình thành tính cách
và thói quen, phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần;
Trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học
tập suốt đời, có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người
công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng tạo”.
Mục đích chương trình giáo dục phổ thông là đích đến, là đầu ra của sản phẩm
giáo dục – nhân cách người học mà nhà trường phổ thông nói chung, hay nhiệm vụ
của cán bộ quản lý, cán bộ giáo viên mỗi nhà trường phải góp phần sáng tạo nên.
II.1.1.1. Năng lực chung
- Năng lực:
Theo Bộ giáo dục, năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành và phát triển
nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập rèn luyện cho phép con người huy động tổng
hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính các nhân khắc phục hứng thú, niềm
tin, ý chí… thực hiện thành công một loạt hoạt động nhất định, đạt kết quả mong
muốn trong những điều kiện cụ thể.
- Năng lực được hiểu là kiến thức, kỹ năng, khả năng và hành vi mà người lao
động cần phải có để đáp ứng yêu cầu công việc, và là yếu tố giúp một cá nhân làm
việc hiệu quả hơn so với những người khác. Hiểu theo cách khác, năng lực là khả
năng của mỗi người, được hình thành do điều kiện chủ quan, tự nhiên sẵn hoặc do
rèn luyện theo thời gian, nhằm thực hiện một hoạt động nào đó.
- Năng lực chung:
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã công bố mục tiêu giáo dục học
sinh phổ thông để rèn luyện tốt 5 phẩm chất và 10 năng lực. Trong 10 loại năng
lực, phân ra năng lực chung và năng lực chuyên môn.
Năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số
môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm hiểu
tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất.
Còn năng lực chung, bao gồm ba năng lực đó là năng lực tự chủ và tự học,
năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo . Chúng được
được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển.
II.1.1.2. Thuyết đa trí tuệ
Thuyết đa trí tuệ hay còn có thể được dịch là thuyết đa trí thông minh là học
thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận trên nhiều phương diện, đa
2
- dạng, được nghiên cứu và công bố bởi Tiến sĩ Howard Gardner. Theo Gardner, trí
thông minh, ông quan niệm như sau "là khả năng giải quyết vấn đề hoặc tạo ra sản
phẩm mà giải pháp hoặc sản phẩm có giá trị trong một hoặc nhiều môi trường văn
hóa" và trí thông minh không thể chỉ đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Năm 1983, ông
xuất bản một cuốn sách có tựa đề 'Frames of Mind', trong đó ông xuất bản các nghiên
cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh (Lý thuyết về nhiều trí
thông minh)
II.1.1.2.1. Nội dung thuyết Đa trí tuệ
Thuyết này đã mang đến cho thế giới cái nhìn bao quát và toàn diện về tiềm
năng não bộ của con người, nó đề cập đến sự đa dạng về trí tuệ của mỗi cá nhân.
Theo đó, mỗi cá nhân sinh ra đều có 8 loại hình thông minh khác nhau. Gần đây,
ông đã đề nghị bổ sung khả thi của trí thông minh thứ chín được gọi là "trí thông minh
theo chủ nghĩa hiện sinh" hay “trí thông minh triết học.” Điều quan trọng là quá trình
khai thác và phát triển chúng để đạt được sự phát triển toàn diện nhất.
Các loại hình trí thông minh mà Tiến sĩ Howard Gardner đề cập như sau:
Thông minh ngôn ngữ
Thông minh logic – toán học
Thông minh thể chất
Thông minh về không gian
Thông minh về tương tác xã hội
Thông minh nội tâm
Thông minh âm nhạc
Thông minh về tự nhiên
Mỗi loại hình trí thông minh có một biểu hiện riêng
Trí thông minh ngôn ngữ: Đây là trí thông minh của phóng viên, nhà văn,
người kể chuyện, nhà thơ và luật sư và những người có kỹ năng ngôn ngữ. Những
người này thường rất giỏi trong việc viết truyện, ghi nhớ thông tin và đọc.
Trí thông minh suy luận logic-Toán học: Là một loại trí thông minh đối với
các con số và logic, đây là trí thông minh của các nhà khoa học, kế toán và lập
trình máy tính. Những người có thế mạnh về trí thông minh logic-toán học là
những người giỏi suy luận, nhận biết các mẫu và phân tích vấn đề một cách logic.
Những cá nhân này có xu hướng suy nghĩ khái niệm về các con số, các mối quan
hệ và các mẫu.
Trí thông minh không gian-thị giác: Trí tuệ không gian liên quan đến tư duy
bằng hình ảnh, biểu tượng và khả năng nhận thức, biến đổi và tái tạo các cấp độ
khác nhau của không gian thị giác, là nền tảng sáng tạo của kiến trúc. Những người
có thế mạnh về trí thông minh không gian-hình ảnh là những người giỏi hình dung
3
- mọi thứ. Những người này thường giỏi chỉ đường cũng như bản đồ, biểu đồ, video
và hình ảnh.
Trí thông minh âm nhạc- thính giác: Đặc điểm cơ bản của trí thông minh
âm nhạc là khả năng của những người có trí thông minh âm nhạc mạnh mẽ là giỏi
suy nghĩ về các mẫu, nhịp điệu và âm thanh. Họ có sự đánh giá cao về âm nhạc và
thường giỏi sáng tác và biểu diễn âm nhạc.
Trí thông minh Vận động: Khả năng hoạt động thể chất là loại hình thông
minh của cơ thể. Những người có trí thông minh vận động cơ thể cao được cho là
giỏi vận động cơ thể, thực hiện các hành động và kiểm soát thể chất. Những người
mạnh về lĩnh vực này có xu hướng phối hợp tay mắt và sự khéo léo tuyệt vời.
Trí thông minh tương tác xã hội, giao tiếp: Đây là khả năng hiểu và làm với
người khác, khả năng nhìn rõ bên trong người khác, từ đó nhìn ra ngoại cảnh bằng
chính mắt mình. Những người có trí thông minh giao tiếp mạnh mẽ là những người
giỏi hiểu và tương tác với người khác. Những cá nhân này có kỹ năng đánh giá
cảm xúc, động cơ, mong muốn và ý định của những người xung quanh.
Trí thông minh nội tâm: là năng lực tự nhận thức, một người có tư duy này
có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn thấy rõ ràng cảm xúc của chính mình. Những người
có trí tuệ nội nhân mạnh mẽ là những người thích làm việc độc lập, không theo xu
hướng đám đông, giỏi nhận thức được các trạng thái cảm xúc, cảm xúc và động cơ
của chính họ.
Trí thông minh tự nhiên: là phần bổ sung gần đây nhất cho lý thuyết của
Gardner. Theo ông, những cá nhân có trí thông minh tự nhiên cao thường hòa hợp
với thiên nhiên hơn và thường quan tâm đến việc nuôi dưỡng và tìm hiểu về các
loài khác; có thể học tập qua hoạt động thực tế, thích quan sát, tò mò về các hiện
tượng xung quanh. Những cá nhân này được cho là có nhận thức cao về những thay
đổi thậm chí tinh vi đối với môi trường, có khả năng thích ứng tốt với môi trường
khác nhau.
II.1.1.2.2. Áp dụng lý thuyết Đa thông minh trong công tác chủ nhiệm
Trong công tác chủ nhiệm, chúng ta có thể áp dụng thuyết này vì nó có nhiều
lợi ích. Mỗi học trò sẽ có những trí tuệ khác nhau. GVCN cần giúp các em thấy
được điểm mạnh đó, giúp các em tự tin phát huy năng lực của bản thân. Tập thể
lớp sẽ đa sắc màu hơn, học trò tự thấy mình sở hữu những tiềm năng thậm chí rất
đặc biệt. Điều quan trọng để các em phát triển đúng hướng thì nhà trường và gia
đình cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh. Mỗi loại trí thông minh đều
có những vai trò quan trọng khác nhau nên cần có định hướng và phương pháp
giáo dục phù hợp nhất.
Để áp dụng lý thuyết Đa thông minh trong công tác chủ nhiệm, GV cần đưa
ra ác mục tiêu cụ thể như :
Đối với chính giáo viên:
4
- - Nghiên cứu thuyết này và tự giác ngộ và thay đổi quan niệm về trí thông
minh, dẫn đến thay đổi cách giáo dục, ứng xử với học sinh của mình.
- Thiết kế các giờ sinh hoạt chuyên đề, các bài học, hoạt động trải nghiệm ứng
dụng các loại đa trí thông minh cho học sinh tham gia.
Đối với học sinh:
- Tham gia các hoạt động trải nghiệm và bắt đầu nhận ra mình có những năng
lực nào và phát huy nó.
- Tự tin trong tập thể lớp, tạo ra màu sắc riêng cho mình.
* Lợi ích của việc ứng dụng trí thông minh khối đa diện của Howard Gardner
trong phương pháp dạy học và giáo dục học sinh:
- Giúp Hs tự tin hơn trong tập thể, tự tạo cho mình một giá trị riêng để tạo nên
bức tranh đa dạng của tập thể lớp
- Tạo ra một tập thể lớp tiến bộ, trưởng thành thông qua những bài học, hoạt
động trải nghiệm, sinh hoạt chuyên đề…
- Điều quan trọng nhất để các em phát triển đúng hướng là nhà trường và gia
đình cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh. Mỗi loại trí thông minh đều
có những vai trò quan trọng khác nhau nên cần có định hướng và phương pháp
giáo dục phù hợp nhất. Phát triển học sinh theo đúng loại trí thông minh
- Ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhiều mặt trong giáo dục kỹ năng sống sẽ giúp
mỗi học sinh thành công, tự tin phát huy năng lực của bản thân.
II.1.2. Cơ sở thực tiễn
Để tìm hiểu thực trạng phát triển năng lực chung của học sinh lớp chủ nhiệm
bằng một số hoạt động ứng dụng thuyết đa trí tuệ tại trường THPT Tân Kỳ. Tôi đã
xác định rõ những điều sau :
1. Mục đích
* Tìm hiểu việc các GVCN đã sử dụng những phương pháp giáo dục, dạy
học nào để giúp HS phát triển năng lực chung của HS lớp trong bối cảnh giáo dục
hiện nay cũng như tìm hiểu thái độ, hiểu biết và kinh nghiệm của giáo viên về việc
áp dụng lý thuyết đa trí thông minh vào công tác chủ nhiệm tại trường trung học
phổ thông Tân kỳ.
* Tình hình thực trạng phát triển năng lực chung của học sinh lớp chủ nhiệm
và những hiểu biết của các em về đa trí thông minh.
2. Đối tượng nghiên cứu
* Giáo viên: 40 giáo viên chủ nhiệm đến từ các trường THPT Tân Kỳ.
* Học sinh: Khảo sát 186 học sinh, trong đó có 42 học sinh lớp 10C9 k51-
lớp thực nghiệm, 40 HS lớp 11C6K54, 104 học sinh còn lại là các lớp 10C1K51,
11C5 k54 và các lớp khác của trường THPT Tân Kỳ .
5
- Để đảm bảo rằng kết quả đáng tin cậy, Tôi phải kéo dài thời gian thực
nghiệm một khóa chủ nhiệm 3 năm C9 K 51 (2016-2019) và năm nay tiếp tục áp
dụng cho lớp chủ nhiệm hiện tại C6 K54 (2020-2021).
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp điều tra quan sát.
Sử dụng bảng câu hỏi
* Bảng câu hỏi dành cho giáo viên (xem Phụ lục 1.A)
* Bảng câu hỏi dành cho học sinh ( xem Phụ lục 1.B)
4. Kết quả khảo sát
Số liệu điều tra giáo viên (xem Phụ lục 1.C)
Số liệu điều tra học sinh (xem Phụ lục 1.D)
Kết luận
Theo phiếu điều tra khảo sát, giáo viên cho rằng công việc chủ nhiệm hiện
nay vất vả và khó khăn với 39/40 phiếu đồng ý, trong đó có 77,5 % là hoàn toàn
đồng ý, 20% đồng ý và có một người hoàn toàn không đồng ý. Như vậy, trong bối
cảnh hiện nay, GVCN gặp nhiều khó khăn trong công việc của mình là một sự thật,
dù tâm huyết ít hay nhiều.
92,5 % Giáo viên cho rằng học sinh hiện nay có khả năng ứng xử thực tế
kém đi do học sinh bị tác động nhiều của mạng xã hội, internet. Thực tế các em
thường có điện thoại riêng, chơi games, facebook mà quên đi thế giớ xung quanh,
vô tâm vô cảm. Tuy nhiên vẫn có 3 GV không đồng ý. Có thể một số em nhờ
mạng, nhờ giao lưu với thế giới bên ngoài mà các em lại phát triển khả năng kết
nối của mình từ quan hệ ảo thành kết nối thật. Đó là tính hai mặt của vấn đề.
Tất cả các GV đều hiểu rõ mục tiêu của chương trình GDPT mới về phát
triển 5 phẩm chất và 10 năng lực nhưng chỉ có 2,5% có hiểu biết về thuyết đa trí
tuệ của Howard Gardner và đã áp dụng nó cho học sinh của mình, còn lại 97,25%
chưa biết hoặc chưa áp dụng. Tất cả các Gv luôn cố gắng giúp các em phát triển
các khả năng của mình bằng nhiều phương pháp. Nhưng chỉ có 7 người đã tìm ra
những phương pháp hiệu quả để phát triển năng lực chung cho học sinh chỉ chiếm
17,5 %.Về việc lồng ghép rèn luyện năng lực chung vào trong bài dạy của mình có
2,5 % GV tức có một GV hoàn toàn đồng ý, 27 người khác không đồng ý chiếm
67,5 % còn lại là đồng ý. Có 6 GV đã từng dạy bằng phương pháp dự án và tích
hợp liên môn, số còn lại là 34 chiếm 85 % .
Tất cả GVCN nghĩ rằng thích được đi ngoại khóa trải nghiệm và tham gia
các hoạt động ngoài trời và có 10 GV thay đổi hình thức sinh hoạt lớp truyền thống
bằng những hình thức khác. 30 gv còn lại chiếm 75 % vẫn đang giữ nguyên.
6
- Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy các GV đã nắm rõ yêu cầu và mục tiêu
của bối cảnh hiện tại và xác định rõ đó là nhiệm vụ khó khăn. Một số ít GV rất
nhiệt huyết tìm ra phương pháp mới để đón đầu nhiệm vụ nhưng việc việc áp dụng
lý thuyết đa trí thông minh vào công tác chủ nhiệm tại trường trung học phổ thông
Tân Kỳ thì chưa bắt đầu. Qua khảo sát và tìm hiểu thì có GV biết nhưng chưa áp
dụng.
Đối với học sinh, kết quả thu được cũng rất thú vị. 14 % HS cho rằng mình tự
tin vào chính mình và có khả năng giao tiếp, hợp tác tốt. Số còn lại không đồng ý
và hoàn toàn không đồng ý. Có 101 em không đồng ý và 80 em hoàn toàn không
đồng ý với ý kiến có năng lực giải quyết vấn đề sáng tạo, chỉ có 5 em chiếm 2,7 %
đồng ý. Những em này là những em tự tin và có năng lực thực sự. Về khả năng tự
chủ, tự học có đến 164 em chiếm gần 90% không có.
Dường như các em không hiểu biết về thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner,
chỉ 1,6 % đồng ý, nghĩa là các em sẽ mơ hồ về những khả năng của mình hoặc có
nhưng không tự tin. Hơn một nửa trả lời các em biết làm theo cặp, theo nhóm
nhưng chỉ có 5,4 % trả lời biết làm trình chiếu.
Chỉ có 3,7% thích tất cả các giờ học trên lớp, nghĩa là các em sẽ có những
môn không học được hay không chú ý học. Chưa có em nào tham gia học bằng
phương pháp dự án nghĩa là một số GV có dạy nhưng chưa vào những lớp này.
Tất cả HS đều trùng với suy nghĩ của Gv là rất thích đi ngoại khóa trải nghiệm
và tham gia các hoạt động ngoài trời. Có 69,3% thích được tự đánh giá cho điểm
chính mình và các bạn. Có 13,4 % HS thích giờ SH lớp còn lại không mặn mà.
Hầu hết HS muốn thay đổi hình thức sinh hoạt lớp truyền thống, chỉ có 9,1 %
muốn giữ nguyên.
Qua số liệu ta thấy rằng điều này cho thấy hs khả năng tự học, khả năng giao
tiếp và khả năng giải quyết vấn đề sáng tạo của HS khối 10 và 11 còn non. Các
phương pháp học tập như dự án, tích hợp, sinh hoạt theo chủ đề… còn rất ít. Các
em không thích bó buộc trong lớp học và thích hoạt động ngoài trời. Điều này phù
hợp thực tế bởi HS là tập thể đa trí tuệ.
Với kinh nghiệm 14 năm là GVCN và gần 20 năm giảng dạy tại trường
THPT Tân Kỳ, xác định rõ thực trạng trên, bản thân tôi nỗ lực học hỏi và tìm kiếm
nhiều cách để giúp đỡ các học trò.
II. 3. Giải pháp
II.3.1. Mục tiêu phát triển năng lực chung dựa vào các hoạt động ứng
dụng thuyết đa thông minh
Giáo viên cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh, mỗi loại trí
tuệ đều quan trọng và mỗi học sinh đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh
hướng khác nhau. Nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh phải là nơi giúp đỡ,
khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập để Hs phát triển được các năng lực chung
7
- theo quy định. Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, năng lực chung ( bao gồm: năng
lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo ) có thể được phát triển thông qua nhiều phương pháp giáo dục khác nhau
như dạy học phân hóa, dạy học tích hợp, dạy học thông qua hoạt động.
Ông cho rằng dạy học phân hóa giúp phát triển khả năng của từng học sinh, dạy
học tích hợp giúp các em có tư duy tổng thể và dạy học thông qua hoạt động giúp
các em được thực hành, thông qua hoạt động mà rèn luyện, phát triển năng lực cá
nhân. Mục tiêu cuối cùng là giúp các học sinh sau khi học, tốt nghiệp thì có thể
làm việc được; thay vì chỉ học để biết như trước đây. Như vậy, theo thang đánh giá
năng lực của Bloom thì học sinh THPT khi tốt nghiệp phải đạt đến cấp độ 5 và 6.
- GVCN là người chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc “xác định tọa độ của
học sinh trên sơ đồ phát triển”. Trong thời đại công nghệ số, học sinh chỉ cần lên
mạng tìm kiếm là có kết quả tương ứng, “nếu thầy cô chỉ bằng lòng là người cung
cấp thông tin đơn thuần thì họ không thể bằng được “ thầy” Google. Nhưng học
sinh vẫn rất cần giáo viên. Là vì CTGDPT mới sẽ không thực hiện giáo dục cào
bằng mà thực hiện nền giáo dục có sự quan tâm tới từng đối tượng. Chúng ta biết
rằng năng lực là sự kết hợp từ những tố chất sẵn có và quá trình rèn luyện, học tập.
Mỗi người có tố chất khác nhau. Nếu HS có thuận lợi để phát triển những tố chất
đó thì họ sẽ trở thành người có năng lực. Nhưng nếu chúng ta áp dụng nền giáo
dục dùng chung cho tất cả mọi người thì có khi chúng ta sẽ làm thui chột tiềm năng
của nhiều học sinh. Vì vậy mục tiêu các hoạt động là phải tạo điều kiện cho học
sinh lựa chọn những nội dung học tập, trải nghiệm phù hợp với bản thân mình.
Các hoạt động dạy học và trải nghiệm được thiết kế với mục tiêu hướng tới người
học, khuyến khích người học huy động các lĩnh vực tri thức, kỹ thuật khác nhau,
thúc đẩy sự tìm tòi, khám phá và tự học thông minh nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy giúp học sinh tự tin phát triển bản thân.
II.3.2. Yêu cầu về nội dung và phương pháp thực hiện các hoạt động ứng
dụng thuyết đa thông minh
Gardner giải thích: “Lý thuyết đa trí tuệ của tôi cung cấp một nền tảng cho
giáo dục bằng nghệ thuật. Theo lý thuyết này, tất cả chúng ta đều có sở hữu các
loại trí thông minh khác nhau”. Các GV thường tập trung vào trí thông minh về
ngôn ngữ và logic, nhưng GV có thể nuôi dưỡng sự phát triển của học sinh bằng
cách để chúng thể hiện bản thân theo những cách khác nhau. GVCN cần xây dựng
chuỗi hoạt động phong phú, kích thích đa trí thông minh trong mỗi học sinh cũng
như của toàn tập thể; áp dụng linh hoạt hơn các phương pháp dạy học và kĩ năng
sử dụng các tài liệu, các thiết bị dạy học đa dạng hơn, phong phú hơn. GV trong
lớp học đa trí tuệ khác với trong lớp học truyền thống ngôn ngữ hoặc lôgic-toán
học. Trong lớp học đa trí tuệ, GV phải linh hoạt thay đổi phương pháp và khéo léo
chuyển từ lối dạy ngôn ngữ sang lối dạy không gian rồi lối dạy âm nhạc hay vận
động, giao tiếp.
8
- Trong khi thiết kế các hoạt động, GVCN cần lưu ý, không nên dán nhãn học
sinh với một loại trí thông minh. Bởi khi mặc định như vậy, giáo viên sẽ khiến học
sinh mất cơ hội để có những trải nghiệm học tập phong phú. Việc kết luận một học
sinh có trí thông minh ngôn ngữ hay có trí thông minh về hình ảnh có thể có hại
khi nó không khuyến khích học sinh khám phá những cách suy nghĩ và học tập
khác, hoặc phát triển các kỹ năng mà chúng yếu hơn.
Trong các hoạt động được xây dựng, GVCN cần lưu ý việc cá nhân hóa nhiệm
vụ và việc học: Việc dạy học phân hóa là điều cần thiết vì không phải tất cả học
sinh đều có chung phong cách học tập. Tránh một phương pháp giảng dạy theo
kiểu “một cỡ vừa cho tất cả”, hãy suy nghĩ và đảm bảo nhu cầu và sở thích của
học sinh. Trên thực tế, học sinh học bằng nhiều cách khác nhau, do vậy, GV nên
mang đến cho học sinh nhiều cách tiếp cận thông tin. Điều này không chỉ giúp bài
học trở nên thú vị mà còn giúp học sinh lưu giữ thông tin theo những cách khác
nhau, phù hợp với thuyết đa thông minh.
Một điều cũng nên được quan tâm là về môi trường lớp học đa trí tuệ. Không
gian lớp học cần phải được thiết kế, bố trí, sắp xếp để phù hợp với nhu cầu của
nhiều loại trí tuệ khác nhau ở học sinh. Ví dụ trong các tiết sinh hoạt lớp, GVCN
yêu cầu HS thay đổi, sắp xếp lại bàn ghế để tạo những kiểu không gian khác nhau:
Tùy theo những chủ đề, cách thức tổ chức của chương trình mà HS tự phân công
và sắp xếp lại bàn ghế phù hợp: Theo hình chữ U, theo từng nhóm....Hơn thế nữa,
các hoạt động giáo dục không nhất thiết phải diễn ra trong lớp học.Trong các buổi
ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo, sinh hoạt chuyên đề thì GVCN có thể thay đổi
địa điểm sinh hoạt, tạo ra không gian mới thuận tiện cho hoạt động thực nghiệm
(như sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột, hay học nhóm, vẽ bản đồ tư duy…
II.3.3. Một số hoạt động đã thực hiện
II.3.3.1. Sinh hoạt lớp theo chuyên đề áp dụng thuyết đa thông minh
Trong chương trình giáo dục hiện hành, tiết SHL là tiết học bắt buộc được
thực hiện vào tiết học cuối cuần trong một tuần học. Thực hiện tốt tiết sinh hoạt
lớp là điều kiện tiên quyết để giáo viên kịp thời giúp học sinh thực hiện nội quy,
điều chỉnh ý thức thái độ học tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, ngăn chặn tình
trạng suy thoái về nhân cách của thế hệ trẻ - Những chủ nhân tương lai của đất
nước. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang trong thời kì hội nhập mạnh mẽ như
hiện nay. Hơn thế, trong Chương trình Giáo dục phổ thông mới ban hành năm
2018, thì tiết SHL, sinh hoạt dưới cờ và hoạt động trải nghiệm theo chủ đề là
những hoạt động bộ phận của Hoạt động trải nghiệm – được tổ chức trong và ngoài
nhà trường. GVCN có thể áp dụng thuyết đa thông minh vào các buổi sinh hoạt lớp
để giúp các em phát triển các năng lực của mình.
Trước hết, GVCN trao đổi với ban cán sự lớp và Ban chấp hành chi đoàn về
nội dung của tiết SHL bám vào kế hoạch tuần, tháng của trường, của Đoàn để xây
dựng nội dung SHL cụ thể, phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp mình chủ
9
- nhiệm. Tiết SHL được thực hiện vào ngày thứ 7. Đây cũng là ngày Đoàn trường
THPT Tân Kỳ thường kết hợp để tổ chức nội dung “Sinh hoạt Đoàn thường kỳ”
theo những chủ đề cụ thể. Vì vậy, trước đó, tôi đã tiến hành hội ý với Ban chấp
hành chi đoàn, Ban cán sự lớp để cùng trao đổi, bàn bạc thống nhất nội dung và
cách thức tổ chức chương trình. Các em sẽ đưa ra các ý kiến, đề xuất cách thực
hiện vừa phát huy được sức trẻ, tinh thần xung kích của thanh niên nhưng cũng thể
hiện được ý nghĩa giáo dục ở trong đó. Thực tế, trong thời gian qua tôi đã thực
hiện một số nội dung trong các tiết sinh hoạt lớp bám sát chủ đề như sau:
- Hoạt động theo chủ đề của từng tháng, từng ngày lễ kỉ niệm lớn: Chào
mừng ngày học sinh, sinh viên; Mừng Đảng – Mừng Xuân (chủ đề tháng 1, tháng
2); Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3; Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3);
Tri ân người có công với cách mạng trong ngày 27/7; Ngày thành lập Hội LHPN
Việt Nam 20/10; Các hoạt động tri ân thầy cô giáo trong ngày 20/11...;
- Các vấn đề gần gũi, quen thuộc; các vấn đề các em quan tâm; các vấn đề
chính trị - Xã hội quan trọng như: Tình yêu tuổi học trò, tình bạn khác giới, Thanh
niên với chấp hành luật An toàn giao thông; Sống yêu thương, Lòng yêu nước của
thế hệ trẻ trong thời bình; Phòng chống dịch Covid 19; Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức, tư tưởng phong cách Hồ Chí Minh (Theo tài liệu dành cho khối
11)... Từ các nội dung đó, các em HS chủ động lên kế hoạch, tổ chức thực hiện với
các hình thức sáng tạo, phong phú. Bản thân tôi nhận thấy, qua các hoạt động này,
tiết SHL– dù đã là tiết 5, lại là tiết học cuối cùng sau một tuần lễ dài đằng đẵng các
em học tập vất vả, căng thẳng nhưng vẫn được đón nhận nồng nhiệt.
GVCN cần tận dụng tối đa tiết sinh hoạt lớp, đổi mới để tạo ra các giờ sinh
hoạt chuyên đề ý nghĩa bằng cách sử dụng các phương pháp:
Phương pháp đóng vai
Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp trò chơi
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình…
+ Phương pháp đóng vai :
Phương pháp đóng vai thường được sử dụng trong các tình huống do giáo
viên đặt ra nhằm rèn luyện cho học sinh những kỹ năng ứng xử hoặc bày tỏ thái độ
của mình trước một vấn đề nào đó trong thực tiễn cuộc sống. Từ đó giúp các em
thảo luận và rút ra ý nghĩa giáo dục liên quan đến chuyên đề sinh hoạt như an toàn
giao thông hay tình yêu học đường…Những em tham gia đóng vai là những em
thuộc trí thông minh vận động hoặc là trí tuệ liên nhân, các em nhanh hiểu ý và
diễn đạt bằng ngôn ngữ hình thể.
+ Phương pháp trò chơi: Tôi thường sử dụng các trò chơi như: trò chơi tiếp
sức, trò chơi tập làm phóng viên, trò chơi tuyên truyền viên, trò chơi giải ô chữ, trò
chơi hiểu ý bạn, thi vẽ tranh, thi hát…phương pháp này giúp cho nhiều dạng trí
10
- tuệ được bật nở. Nhiều em sẽ bất ngờ với chính khả năng của mình. Giúp các em
tìm thấy vị trí của mình trong nhóm, trong tập thể rõ ràng hơn.
+ Phương pháp thảo luận nhóm: GVCN giao cho học sinh một nhiệm vụ và
yêu cầu nhóm làm việc. GV chia nhóm, đặt tên cho các nhóm, cử nhóm trưởng,
thư ký nhóm, quy định thời gian thảo luận. Sau đó các nhóm tiến hành thảo luận,
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đại diện các nhóm trình bày kết quả. Các nhóm
khác đóng góp ý kiến và tham gia tranh luận.
Phương pháp này giúp cho những em có khả năng ngôn ngữ cũng như năng
lực lãnh đạo thể hiện được bản thân rất rõ nét.
+ Phương pháp nêu trường hợp điển hình: Thi kể chuyện về Bác Hồ, diễn
thuyết về idol, về những người thân yêu….
Thuyết đa trí tuệ được áp dụng trong mỗi tiết SHL bằng sự phong phú của
các hoạt động ví dụ trong một tiết nên có hát, có trò chơi, câu hỏi, đọc thơ để nhiều
em có thể thể hiện. Đặc biệt GVCN nên thiết kế hoạt động nhằm vào những đối
tượng cần được kích thích, khai phá để giúp các em tự tin, hòa nhập và phát triển
năng lực.
Sau đây là một tiết sinh hoạt lớp mà tôi đã áp dụng tại lớp 11C6 năm học
2020-2021
SINH HOẠT LỚP TUẦN 16
(từ 20/12-26/12/2020)
SINH HOẠT CHỦ ĐỀ : “SỐNG YÊU THƯƠNG”
I. Mục đích,yêu cầu:
- Tổng kết đánh giá tình hình học tập và thực hiện nề nếp của học sinh trong tuần
từ đó đề ra phương hướng cho tuần tới.
- Phát hiện và kịp thời giải quyết những vi phạm của học sinh, tuyên dương những
cá nhân tiêu biểu.
- Giải đáp những thắc mắc (nếu có).
- Giáo dục đạo đức kĩ năng sống với chủ đề “Sống yêu thương”, biết chăm sóc bản
thân, yêu thương sẻ chia đối với người khác….
- Rèn luyện kỹ năng : lập kế hoạch, thuyết trình, đóng kịch,vẽ tranh, làm đồ thủ
công, hát, nói chuyện trước đám đông, ….)
II. Phương pháp
- Thuyết trình.
- Văn nghệ.
- Trao đổi, phỏng vấn .
III. Chuẩn bị.
11
- 1. Giáo viên:
- Chuẩn bị những kiến thức về sống yêu thương để giáo dục kĩ năng sống, giải đáp
thắc mắc, xử lý tình huống
- Hướng dẫn học sinh vẽ tranh, làm thiệp, lĩnh xướng, chia nhóm học sinh, chuẩn
bị kiến thức chuyên đề....
2. Học sinh:
- Tổng hợp kết quả thi đua
- Chuẩn bị các tiết mục văn nghệ, bài thuyết trình , tranh ảnh, câu hỏi phỏng vấn .
- Nêu những thắc mắc cần được giải đáp (nếu có).
IV. Tiến trình các hoạt động:
THỜI HOẠT ĐỘNG CỦA
NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔ
GIAN TRÒ
1. Ổn định tổ chức : 2 phút - Lắng nghe Vy lĩnh xướng bài hò
Cùng xướng dô “ Ước mơ lớn”
Lớp trưởng tổng kết ,
đánh giá
Lắng nghe
- Tổ trưởng các tổ lên
báo cáo công tác thi
Phần I: Sơ kết thi 10 đua của tổ trong tuần
đua tuần, phương phút - Bí thư Đoàn nhận xét,
hướng hoạt động đánh giá và triển khai
tuần tiếp. kế hoạch Hoạt đông
Đoàn và phong trào
thanh niên.
- Lớp trưởng sơ kết thi
đua.đề ra kế hoạch tuần
tới
- GV: Nhận xét đánh giá
- HS phát biểu ý kiến
kết quả thi đua tuần
(nếu có)
- GV góp ý kế hoạch tuần
tới của lớp và của Đoàn
Cô nhắc nhở và bổ sung
kế hoạch cho tuần mới đó Lắng nghe
là ôn tập học kỳ thật tốt,
nghỉ tết dương lịch an
12
- toàn vui vẻ. HS trả lời: Có
Hỏi HS muốn nghe cô Lắng nghe
đọc thơ không?
- Đọc thơ
- Dẫn vào chuyên đề:
Phần II: 33
“Sống yêu thương”
Sinh hoạt chuyên đề phút
-Yêu cầu học sinh lên
Tú viết bảng bằng phấn
bảng viết chuyên đề
“Sống yêu thương”. đỏ chữ
“Sống yêu thương”
Bài thơ “ Hỏi”- tác Sinh hoạt chuyên đề
– Treo mục tiêu tìm hiểu
giả Hữu Thỉnh chuyên đề lên “SỐNG YÊU
“Tôi hỏi đất THƯƠNG”
Mời lớp trưởng lên dẫn
Đất sống với nhau như sinh hoạt chuyên đề Lớp trưởng dẫn chương
thế nào? trình
Lớp trưởng mời tổ 4
..... Lắng nghe
Tôi hỏi người Đại diện tổ 4 thuyết
trình’ “Thế nào là sống
Người sống với nhau yêu thương?”
như thế nào?”
5’ Các bạn góp ý kiến
1.Thế nào là sống yêu
Cô khen ngợi và cho ý thêm để làm rõ thế nào
thương? là sống yêu thương.
kiến thêm.
Lớp trưởng tiếp tục
giới thiệu nội dung tìm
hiểu 2 và hướng dẫn
cuộc thi tiếp sức.
Luật thi: Hai đội chơi.
Mỗi đội 5 em lên thi
2.Biểu hiện tình yêu viết tiếp sức liên tục
thương? trong 2 phút về những
biểu hiện của sống yêu
Thi : Ai nhanh hơn?
thương lên 2 bảng phụ
của mỗi đội đội.
LT mời cô lên bảng
làm ban giám khảo
chấm thi
Nhận xét, góp ý và đưa ra Lắng nghe
kết quả Vỗ tay
13
- 5’ Đội Tự nguyện thắng LT kết luận nội dung 2
và giới thiệu nội dung
tìm hiểu 3. Đồng thời
giới thiệu bạn Duyên
3.Tại sao phải sống lên bảng kể chuyện
yêu thương? -Duyên kể chuyện xúc
Kể chuyên: Bác thợ động và diễn cảm.
săn và con vượn -Các bạn lắng nghe
Gv lắng nghe câu chuyện
(Có tranh minh họa chăm chú.
về tình yêu thương cảm
câu chuyện) hóa được bác thợ săn Sau khi kể xong,
lạnh lùng và trách nhiệm Lớp trưởng hỏi cả lớp
của cộng đồng với đưa tại sao phải sống yêu
con bé bỏng khi mồ côi thương?
mẹ
-HS cho ý kiến
5’ Mời GVCN cho ý kiến
GV nhận xét và đưa ra ý
kiến của mình.
Cô giới thiệu các gương
sáng về sống yêu thương:
về mẹ Teresa, về Anh
Norman Morisson dám
thiêu mình vì phản đối
chiến tranh Việt Nam, về
bác Hồ kính yêu, về các
Anh hùng liệt sỹ….
Yêu thương là sức mạnh.
Mọi hành động xuất phát
từ tình yêu thương đều là Vy hát: Tự nguyện
Tự nguyện. của Truơng Quôc
4. Nhận thức và hành Khánh
động
GVCN cảm ơn và tự hào
Thông điệp nhắn gửi
vì HS của mình đã có
Kịch 1: những bước tìm hiểu tốt
Mẹ Ngân thấy con về chuyên đề. Duyên kể
chuẩn bị đi học nhưng chuyện xúc động, Vy hát
ăn mặc mong manh hay và tổ 4 chuẩn bị tốt.
trong khi trời rất lạnh. Cô muốn các em hiểu sâu
Mẹ: Con ơi, trời lạnh, hơn và nâng cao nhận
14
- nhớ ăn mặc ấm vào thức về sống yêu thương Lắng nghe
Ngân: Không sao đâu bằng cách mời cả lớp
mẹ, thời trang vẫn hơn xem các đoạn kịch ngắn
thời tiết. Con khỏe và cho cô biết thông điệp Hào hứng xem kịch
mà… cô muốn nhắn gửi là gì? Phát biểu
Ngoái cổ nói xong ôm - Chỉ cha mẹ ta là
cặp đi luôn…. (Hết) Cô khen nhóm diễn và yêu thương ta nhất, lo
mời đưa ra ý kiến. lắng cho ta
Thông điệp 1 - Sống yêu
thương, trước hết phải
Kịch 2 : “Sống yêu thương, trước
biết lo cho bản thân
hết phải biết biết tự chăm
Mẹ đang ốm, hỏi mình, biết tự chăm sóc
sóc mình, không để cho
Hùng mình, không để cho
những người yêu thương
những người yêu
- Chiều nay con mình lo lắng…”
3’ thương mình lo lắng…
có đi học không?
- Không mẹ à
- Phải biết yêu thương
- Vậy chiều con ra Cô khen nhóm diễn và cha mẹ
giúp bố cùng cày vạt mời đưa ra ý kiến.
đất trồng lạc. Mẹ ốm - Nói dối đấng
bố không làm kịp với sinh thành là tội lỗi
xóm làng. - Giúp đỡ bố mẹ là
Nói xong thì Hùng có sống đúng
điện thoại. Hùng bốc Cô đưa ra ý kiến nhận xét
máy nghe tiếng Nam
Và kết luận thông điệp
-Nam: Nhanh lên, ra
quán siêu tốc, đội hình “ Yêu thương trước hết
đủ rồi! phải yêu thương cha mẹ
và phải biến thành hành
- Nam quýnh 3’ động và việc làm cụ thể”
quáng nói với mẹ
Mời nhóm diễn đoạn kịch
- Mẹ ơi, cô gọi thứ 3
chiều con đi học thêm.
Cô cảm ơn nhóm diễn Xem kịch
Con phải đi luôn đây!
- (Hết) Mời HS đưa ra ý kiến
riêng - Mạnh rất tốt với bạn
bè
-Giúp bạn đánh nhau là
sai
Cô phân tích, đưa ra ý
Kịch 3:
15
- Mạnh và Công đang đi kiến nhận xét và kết luận Quay phim chụp ảnh
học về, thấy phía trước thông điệp đặc biệt đưa lên mạng
đông người lộn xộn. Thông điệp 3 là sai
Mạnh: Ơ , đánh nhau Giúp bạn là tốt nhưng
rồi. mà ai giống thằng giúp bạn làm việc tốt
Lực bạn tau..Hắn đang ,không được giúp bạn
bị đập, để tau vô làm điều sai, đánh nhau-
giúp… đó chính là bạo lực học
3’
Nói xong ném cặp cho đường cần phải tránh xa. Lắng nghe
Công ôm và lao vào Bạn nên báo với nhà
đám đông. trường và an ninh xử lý
kịp thời. Quay phim chụp
Công vừa ngó nghiêng
ảnh để lan tỏa điều tốt thì
vừa móc điện thoại ra,
nên làm còn để lan tỏa
quay quay chụp chụp.
điều xấu là sai, thậm chí
Miệng lẩm bẩm:
vi phạm quy định
Cái thằng ni được cái
- GV hỏi: Muốn
sống với anh em bạn
sống yêu thương các em
bè luôn hết lòng….
cần làm những việc cụ
thể nào?
- GV gọi một HS
tổng hợp lại
Yêu thương cha mẹ,
giúp đỡ công việc, lấy
tăm, múc nước nấu ăn
giặt giũ…
Không đánh nhau, nói
- GV tổng hợp và lời tốn thương, sẵn
cho thêm ý kiến toàn sàng giúp đỡ anh em
diện bạn bè, lan tỏa yêu
thương
Giúp đỡ yêu thương
người có hoàn cảnh
khó khăn, ốm đau,
bệnh tật, nghèo khổ,
hoạn nạn….
- Và bây giờ hãy lan
16
- tỏa những yêu thương
bình dị nhất
Cô hỏi:Trong trường này,
ai là người yêu thương
Hs nhất? yêu thương mái
trường nhất? HS trả lời: Là cô
(Gợi ý: là người vẫn phải
đến trường và chịu mọi
trách nhiệm cho dù đó là
ngày bão, ngày tết, ngày À, là Thầy Hiệu trưởng
Nói lời cảm ơn, lời lễ. là người cống hiến cả Là Ban giám hiệu
yêu thương tới thầy cô thanh xuân cho mái
và bè bạn trường THPT Tân Kỳ.)
Hãy nói lời gì đó nhân
dịp Tết đến xuân về với
những lời yêu thương
trân trọng nhất đi nào.
Giơ tay và nói lời cảm
Còn gì muốn lan tỏa nữa ơn tới thầy cô
không?
Cô yêu cầu HS lấy tranh
đã vẽ ra (tranh vẽ về bạn Lấy tranh ra và viết
bên cạnh) và viết lên đó
những lời yêu thương
dành tặng cho bạn mình.
Đồng thanh trả lời :
Cô hỏi: Những ai vẽ tranh Em!
tặng bạn bằng cả trái tim
và yêu thương? Vỗ tay cười
Cuộc thi “ Vẽ tranh Người thắng cuộc là
đẹp viết lời hay” người vẽ tranh tặng bạn Giơ tranh
(Phát động trong buổi bằng cả trái tim và yêu
sinh hoạt tuần trước) thương. Vậy ai thắng
cuộc thì giơ cao tranh Tặng tranh, nói lời yêu
lên? thương
Cô yêu cầu cả lớp giơ
tranh lên cao
Cô hướng dẫn trò tặng HS ủng hộ
tranh cho bạn.
Như vậy chũng ta sẽ biến
17
- Kế hoạch hành động yêu thương thành hành
sắp tới theo chuyên đề động Với các kế hoạch
Hướng dẫn về nhà. - Tặng quà “ Áo ấm
mùa đông “ cho một bạn
Học sinh thực hiện
có hoàn cảnh trong lớp.
các kế hoạch đã đề ra.
- Gv gợi ý kế hoạch
- Sưu tầm thêm các
thăm một gia đình có
câu chuyện nói về tình
hoàn cảnh khó khăn
cảm gia đình. (Kể vào
nhân dịp Tết Tân Sửu.
Buổi sinh hoạt tuần
sau). - Chào đón năm mới
yêu thương bằng việc
trang trí lớp thật ấm
cúng.
Tiết sinh hoạt đã rất thành công vì học sinh cảm thấy được yêu thương,
được thể hiện yêu thương, lan tỏa nó bằng những điều giản dị và có động lực thực
sự. Các dạng trí tuệ như vận động ( Kịch) Âm nhạc ( Hò, hát, nghe hát) Không
gian , thị giác (Vẽ tranh) Ngôn ngữ ( thuyêt trình, kể chuyện) Tự nhiên (nội dung
câu truyện) Tương tác , Giao tiếp ( Nói lời cảm ơn, Dẫn chương trình, phát biểu…)
Nội tâm ( Hệ thống câu hỏi chuyên đề, lời dạy của cô…) đã giúp học sinh phát
triển hơn về không chỉ năng lực chung mà còn thêm phẩm chất như yêu đất nước ,
yêu con người và sống có trách nhiệm.
Các em tự tin hơn khi cô động viên diễn kịch, khi thuyết trình, phát biểu, tham
gia cuộc thi. Các em phải tự tìm tòi, suy nghĩ những vấn đề liên quan tới chuyên
đề. Mày mò viết Poster, vẽ tranh. Các em phải xử lý tình huống khi cô gợi ý nói lời
gì đó với các thầy cô Ban giám hiệu…
Kế hoạch sau chuyên đề cũng đã được các em thực hiện tốt, tặng áo cho bạn
Tú và thăm gia đình anh Hiền có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở xã Kỳ Tân (Vợ
chồng nông dân, Vợ đau yếu, chồng tai nạn, con một đưa bị ung thư máu, một em
sau bị tim bẩm sinh)
II.3.3.2. Ứng dụng vào các bài học do GV chủ nhiệm giảng dạy
Trong quá trình giảng dạy tại lớp chủ nhiệm, tôi luôn cố gắng dùng các
phương pháp dạy học tích cực phát huy đa trí thông minh trong tập thể lớp. Các
hoạt động học tập được tạo ra luôn được soi sáng bởi thuyết đa trí tuệ, nghĩa là khi
thiết kế các hoạt động tôi luôn để ý đến trí thông minh nào sẽ được phát huy trong
hoạt động này. Tương đương là học sinh nào sẽ tham gia vào hoạt động và sẽ bung
nở năng lực. Tôi để ý đến sự cân bằng giữa các trí tuệ để em nào cũng có cơ hội
thể hiện. Có em sau khi hoàn tất nhiệm vụ mới thấy rằng mình giỏi hơn bạn mà lâu
nay không biết.
18
- Tôi nghĩ rằng nếu các giáo viên chủ nhiệm ở các bộ môn khác cũng vận
dụng tốt thuyết này để giúp học sinh thấy được tiềm năng của chính mình thì thật
tốt. Mỗi bộ môn có một đặc thù riêng nhưng khi chủ nhiệm biết cách thiết kế hoạt
động cho học sinh sẽ tận dụng được thêm thời gian giúp học trò nhiều hơn. Hơn
nữa, thời gian của GVCN trên lớp không nhiều, chỉ một tiết sinh hoạt lớp hàng
tuần hay sinh hoạt ngoại khóa theo kế hoạch không đủ để GV thực hiện hết những
mong muốn, nên GVCN cần biết tận dụng cả giờ dạy thì hiệu quả chủ nhiệm sẽ
tăng cao hơn rất nhiều.
Bản thân tôi cố gắng phối hợp kiến thức liên môn với phương pháp dạy dự
án và thấy mình có những thành quả nhất định.
Sau đây là một số dự án mà tôi đã thành công giúp học sinh tự tin hơn trong
giao tiếp và học tập, phát huy được khả năng của các học sinh đồng đều.
Dự án "Tết vui trọn lời yêu thương"
Để khai thác Trí tuệ Thị giác - Không gian, Tôi đã hướng dẫn học sinh làm
những tấm thiệp với những lời chúc tốt đẹp gửi đến ai đó nhân dịp 8/3, 20/11 hay
năm mới .... Tôi chọn dịp Tết Nguyên đán 2018 để kiểm tra năng lực của học sinh
với dự án “Vui Tết gửi lời yêu thương”. Tôi thấy học sinh háo hức tham gia các
nhóm để làm bưu thiếp, các em tranh thủ cả giờ nghỉ để làm việc trên lớp. Không
khí Tết bỗng tràn ngập trên từng tấm thiệp và sự náo nức của các nhóm bạn. Tôi
chia lớp thành 7 nhóm, mỗi nhóm 6 em để giúp đỡ lẫn nhau vì một số em có khả
năng hạn chế. Nhóm nào đẹp và đồng đều thì trình bày thuyết phục để đạt điểm
cao. Điểm cá nhân bao gồm điểm nhóm và điểm tự trình bày. Sau đó các bạn học
sinh mang những tấm thiệp mình đã làm để tặng những người mà mình muốn tặng.
Hình ảnh: Làm thiệp trong giờ giải lao và các sản phẩm
Phần lớn, họ tặng cho giáo viên đang dạy trên lớp. Cô giáo dạy văn nhận
thiệp bằng thơ; các giáo viên hóa học nhận thiệp có các mô hình hóa học… Món
quà tuy nhỏ nhưng là sự tận tâm, hết lòng của người thầy mà các em yêu quý.
Quan trọng hơn, họ đã có cơ hội bày tỏ cảm xúc và lòng biết ơn của mình đến
những người họ yêu thương. Dự án "Tết gửi lời yêu thương"
19
- Dự án “Nhập vai MC truyền hình”
Mục đích của đóng vai là khai thác trí thông minh
liên nhân và nội nhân cho kỹ năng nói tiếng Anh.
Tôi đã chọn dự án "Chúng tôi là MC" cho truyền
hình. Tôi chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm 6 học
sinh. Có 6 sinh viên khác thuộc Ban Nội dung và
Biểu diễn để giúp đỡ bạn bè của họ cũng như Ban
giám khảo. Họ kiểm duyệt nội dung mà học sinh dự
định trình bày, sửa chữa những sai sót nếu phát hiện
ra, ngoài ra, các em lắng nghe các em trình bày và
góp ý trước khi thực hiện trước lớp. Cô giáo là
người trực tiếp đánh giá phần thuyết trình của các MC. Điểm của mỗi MC là điểm
trung bình của giáo viên, nội dung và điểm của Ban giám khảo. Học sinh có thể
chọn làm việc theo cặp hoặc cá nhân theo chương trình của họ.
Dự án “Trải nghiệm với người nước ngoài nói tiếng Anh”
Tân Kỳ nằm trên con đường lịch sử Hồ Chí Minh, nơi người nước ngoài
thường dừng chân. Nhận thấy lợi thế này, tôi thực hiện dự án “Trải nghiệm cùng
người nước ngoài nói tiếng Anh”. Đây là một dự án sẽ kích thích không chỉ trí
thông minh ngôn ngữ, trí thông minh giữa liên nhân, khả năng hiểu và làm việc với
người khác, khả năng nhìn rõ bên trong người khác và nhìn ra viễn cảnh bằng mắt
của họ mà còn cả Trí tuệ nội nhân, tức là khả năng tự nhận thức; một người có tư
duy này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn thấy rõ ràng cảm xúc của chính mình
Hình ảnh học sinh đi phỏng vấn, nói chuyện với người nước ngoài
Dự án "Kịch"
Kịch là một dự án thú vị khai thác và phát triển nhiều khả năng của học sinh
như Khả năng ngôn ngữ, Trí tuệ-Năng lực và Âm nhạc. Tôi chỉ yêu cầu học sinh
diễn những vở kịch dễ hiểu hoặc sử dụng ngay các tác phẩm trong sách giáo khoa
như Sơn Tinh - Thủy Tinh, Chí Phèo - Thị Nở, Mị Châu - Trọng Thủy ... Các em
đã có những sáng tạo vô cùng tuyệt vời. Giáo viên chia lớp thành bốn nhóm, các
em họp và quyết định nội dung vở kịch và cùng nhau chuẩn bị kịch bản của vở
kịch. Sau đó, các trò luyện tập sau giờ học thêm ở trường. Kịch được thực hiện
20
nguon tai.lieu . vn