Xem mẫu

  1. Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam…bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”. Yêu cầu phát triển năng lưc của người học cũng là mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới. Trước đòi hỏi của thực tiễn xã hội, của nhiệm vụ giáo dục và đào tạo con người,các giáo viên luôn trăn trở làm thế nào để hoàn thành tốt sứ mệnh cao cả đó. Là một giáo viên chủ nhiệm, gánh trên vai nhiều vai trò nhiệm vụ: là hiệu trưởng con, là nhà cố vấn, là nhà tổ chức, là cầu nối giữa gia đình nhà trường và xã hội…. ,vai trò nào cũng quan trọng, bản thân tôi cũng mong mỏi làm thế nào để là người góp phần hình thành phẩm chất và năng lực cho học sinh theo yêu cầu mới đó. Tôi muốn có một sự chuẩn bị tốt cho chương trình mới vào những năm tới nên đã cố gắng tìm ra những phương pháp, lý thuyết đáp ứng yêu cầu giảng dạy và giáo dục hiện nay.Tôi muốn giúp học trò tự tin và phát triển năng lực của chúng.Tân Kỳ là một huyên miền núi nghèo, các em đa số xuất phát từ các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các em ít được trải nghiêm như học sinh thành phố. Các em không dám tự tin khẳng định mình mặc dù có những em tiềm ẩn nhiều khả năng. Tôi thực sự quan tâm đến thuyết đa trí tuệ, thay vì quan niệm cũ cho rằng trí tuệ là IQ, trò thông minh là trò học giỏi các môn văn hóa ở trường thì thuyết này tạo ra cho tôi niềm tin đào tạo học trò toàn diện hơn, phát huy tối đa hơn khả năng mà các em sở hữu; Tôi nghiên cứu vận dụng thuyết này vào giảng dạy, giáo dục học trò phát huy được tính tích cực, cho phép giáo viên sử dụng những hiểu biết sâu sắc về các loại trí thông minh khác nhau để hướng dẫn, để thiết lập mục tiêu, đưa ra nội dung và phương pháp giáo dục nhằm phát triển thế mạnh sẵn có của học sinh, đồng thời giúp các em khám phá kiến thức và kỹ năng mới để dần hình thành năng lực. Tôi đã thử nghiệm cho học sinh lớp mình chủ nhiệm ba năm để có thể khẳng định kết quả rõ ràng; thậm chí năm nay tôi vẫn tiếp tục áp dụng với lớp chủ nhiệm hiện tại và có những kết quả khả quan; đó là động lực để tôi viết đề tài sáng kiến “ Phát triển năng lực chung của học sinh lớp chủ nhiệm bằng một số hoạt động ứng dụng thuyết đa trí tuệ tại trường THPT Tân Kỳ” 2.Tính mới của đề tài Đề tài giúp hiểu rõ thuyết đa trí tuệ và áp dụng nó vào các hoạt động, bài học nhằm để phát huy “năng lực chung” cho học sinh lớp chủ nhiệm nói riêng và học sinh nói chung, là mục tiêu mới trong chương trình phổ thông sắp được áp dụng cho THPT. Đây là mục tiêu mà Bộ giáo dục đang hướng tới trong sự nghiệp đào tạo con người; các nhà trường và giáo viên đang cần. 1
  2. Phần II. NỘI DUNG II.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu II.1.1. Cơ sở lý luận Mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông; theo dự thảo chương trình phổ thông mới sau năm 2015, Bộ GD&ĐT xác định: “Chương trình giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh phát triển khả năng vốn có của bản thân, hình thành tính cách và thói quen, phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần; Trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời, có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng tạo”. Mục đích chương trình giáo dục phổ thông là đích đến, là đầu ra của sản phẩm giáo dục – nhân cách người học mà nhà trường phổ thông nói chung, hay nhiệm vụ của cán bộ quản lý, cán bộ giáo viên mỗi nhà trường phải góp phần sáng tạo nên. II.1.1.1. Năng lực chung - Năng lực: Theo Bộ giáo dục, năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành và phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập rèn luyện cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính các nhân khắc phục hứng thú, niềm tin, ý chí… thực hiện thành công một loạt hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. - Năng lực được hiểu là kiến thức, kỹ năng, khả năng và hành vi mà người lao động cần phải có để đáp ứng yêu cầu công việc, và là yếu tố giúp một cá nhân làm việc hiệu quả hơn so với những người khác. Hiểu theo cách khác, năng lực là khả năng của mỗi người, được hình thành do điều kiện chủ quan, tự nhiên sẵn hoặc do rèn luyện theo thời gian, nhằm thực hiện một hoạt động nào đó. - Năng lực chung: Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã công bố mục tiêu giáo dục học sinh phổ thông để rèn luyện tốt 5 phẩm chất và 10 năng lực. Trong 10 loại năng lực, phân ra năng lực chung và năng lực chuyên môn. Năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất. Còn năng lực chung, bao gồm ba năng lực đó là năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo . Chúng được được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển. II.1.1.2. Thuyết đa trí tuệ Thuyết đa trí tuệ hay còn có thể được dịch là thuyết đa trí thông minh là học thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận trên nhiều phương diện, đa 2
  3. dạng, được nghiên cứu và công bố bởi Tiến sĩ Howard Gardner. Theo Gardner, trí thông minh, ông quan niệm như sau "là khả năng giải quyết vấn đề hoặc tạo ra sản phẩm mà giải pháp hoặc sản phẩm có giá trị trong một hoặc nhiều môi trường văn hóa" và trí thông minh không thể chỉ đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Năm 1983, ông xuất bản một cuốn sách có tựa đề 'Frames of Mind', trong đó ông xuất bản các nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh (Lý thuyết về nhiều trí thông minh) II.1.1.2.1. Nội dung thuyết Đa trí tuệ Thuyết này đã mang đến cho thế giới cái nhìn bao quát và toàn diện về tiềm năng não bộ của con người, nó đề cập đến sự đa dạng về trí tuệ của mỗi cá nhân. Theo đó, mỗi cá nhân sinh ra đều có 8 loại hình thông minh khác nhau. Gần đây, ông đã đề nghị bổ sung khả thi của trí thông minh thứ chín được gọi là "trí thông minh theo chủ nghĩa hiện sinh" hay “trí thông minh triết học.” Điều quan trọng là quá trình khai thác và phát triển chúng để đạt được sự phát triển toàn diện nhất. Các loại hình trí thông minh mà Tiến sĩ Howard Gardner đề cập như sau:  Thông minh ngôn ngữ  Thông minh logic – toán học  Thông minh thể chất  Thông minh về không gian  Thông minh về tương tác xã hội  Thông minh nội tâm  Thông minh âm nhạc  Thông minh về tự nhiên Mỗi loại hình trí thông minh có một biểu hiện riêng Trí thông minh ngôn ngữ: Đây là trí thông minh của phóng viên, nhà văn, người kể chuyện, nhà thơ và luật sư và những người có kỹ năng ngôn ngữ. Những người này thường rất giỏi trong việc viết truyện, ghi nhớ thông tin và đọc. Trí thông minh suy luận logic-Toán học: Là một loại trí thông minh đối với các con số và logic, đây là trí thông minh của các nhà khoa học, kế toán và lập trình máy tính. Những người có thế mạnh về trí thông minh logic-toán học là những người giỏi suy luận, nhận biết các mẫu và phân tích vấn đề một cách logic. Những cá nhân này có xu hướng suy nghĩ khái niệm về các con số, các mối quan hệ và các mẫu. Trí thông minh không gian-thị giác: Trí tuệ không gian liên quan đến tư duy bằng hình ảnh, biểu tượng và khả năng nhận thức, biến đổi và tái tạo các cấp độ khác nhau của không gian thị giác, là nền tảng sáng tạo của kiến trúc. Những người có thế mạnh về trí thông minh không gian-hình ảnh là những người giỏi hình dung 3
  4. mọi thứ. Những người này thường giỏi chỉ đường cũng như bản đồ, biểu đồ, video và hình ảnh. Trí thông minh âm nhạc- thính giác: Đặc điểm cơ bản của trí thông minh âm nhạc là khả năng của những người có trí thông minh âm nhạc mạnh mẽ là giỏi suy nghĩ về các mẫu, nhịp điệu và âm thanh. Họ có sự đánh giá cao về âm nhạc và thường giỏi sáng tác và biểu diễn âm nhạc. Trí thông minh Vận động: Khả năng hoạt động thể chất là loại hình thông minh của cơ thể. Những người có trí thông minh vận động cơ thể cao được cho là giỏi vận động cơ thể, thực hiện các hành động và kiểm soát thể chất. Những người mạnh về lĩnh vực này có xu hướng phối hợp tay mắt và sự khéo léo tuyệt vời. Trí thông minh tương tác xã hội, giao tiếp: Đây là khả năng hiểu và làm với người khác, khả năng nhìn rõ bên trong người khác, từ đó nhìn ra ngoại cảnh bằng chính mắt mình. Những người có trí thông minh giao tiếp mạnh mẽ là những người giỏi hiểu và tương tác với người khác. Những cá nhân này có kỹ năng đánh giá cảm xúc, động cơ, mong muốn và ý định của những người xung quanh. Trí thông minh nội tâm: là năng lực tự nhận thức, một người có tư duy này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn thấy rõ ràng cảm xúc của chính mình. Những người có trí tuệ nội nhân mạnh mẽ là những người thích làm việc độc lập, không theo xu hướng đám đông, giỏi nhận thức được các trạng thái cảm xúc, cảm xúc và động cơ của chính họ. Trí thông minh tự nhiên: là phần bổ sung gần đây nhất cho lý thuyết của Gardner. Theo ông, những cá nhân có trí thông minh tự nhiên cao thường hòa hợp với thiên nhiên hơn và thường quan tâm đến việc nuôi dưỡng và tìm hiểu về các loài khác; có thể học tập qua hoạt động thực tế, thích quan sát, tò mò về các hiện tượng xung quanh. Những cá nhân này được cho là có nhận thức cao về những thay đổi thậm chí tinh vi đối với môi trường, có khả năng thích ứng tốt với môi trường khác nhau. II.1.1.2.2. Áp dụng lý thuyết Đa thông minh trong công tác chủ nhiệm Trong công tác chủ nhiệm, chúng ta có thể áp dụng thuyết này vì nó có nhiều lợi ích. Mỗi học trò sẽ có những trí tuệ khác nhau. GVCN cần giúp các em thấy được điểm mạnh đó, giúp các em tự tin phát huy năng lực của bản thân. Tập thể lớp sẽ đa sắc màu hơn, học trò tự thấy mình sở hữu những tiềm năng thậm chí rất đặc biệt. Điều quan trọng để các em phát triển đúng hướng thì nhà trường và gia đình cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh. Mỗi loại trí thông minh đều có những vai trò quan trọng khác nhau nên cần có định hướng và phương pháp giáo dục phù hợp nhất. Để áp dụng lý thuyết Đa thông minh trong công tác chủ nhiệm, GV cần đưa ra ác mục tiêu cụ thể như : Đối với chính giáo viên: 4
  5. - Nghiên cứu thuyết này và tự giác ngộ và thay đổi quan niệm về trí thông minh, dẫn đến thay đổi cách giáo dục, ứng xử với học sinh của mình. - Thiết kế các giờ sinh hoạt chuyên đề, các bài học, hoạt động trải nghiệm ứng dụng các loại đa trí thông minh cho học sinh tham gia. Đối với học sinh: - Tham gia các hoạt động trải nghiệm và bắt đầu nhận ra mình có những năng lực nào và phát huy nó. - Tự tin trong tập thể lớp, tạo ra màu sắc riêng cho mình. * Lợi ích của việc ứng dụng trí thông minh khối đa diện của Howard Gardner trong phương pháp dạy học và giáo dục học sinh: - Giúp Hs tự tin hơn trong tập thể, tự tạo cho mình một giá trị riêng để tạo nên bức tranh đa dạng của tập thể lớp - Tạo ra một tập thể lớp tiến bộ, trưởng thành thông qua những bài học, hoạt động trải nghiệm, sinh hoạt chuyên đề… - Điều quan trọng nhất để các em phát triển đúng hướng là nhà trường và gia đình cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh. Mỗi loại trí thông minh đều có những vai trò quan trọng khác nhau nên cần có định hướng và phương pháp giáo dục phù hợp nhất. Phát triển học sinh theo đúng loại trí thông minh - Ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhiều mặt trong giáo dục kỹ năng sống sẽ giúp mỗi học sinh thành công, tự tin phát huy năng lực của bản thân. II.1.2. Cơ sở thực tiễn Để tìm hiểu thực trạng phát triển năng lực chung của học sinh lớp chủ nhiệm bằng một số hoạt động ứng dụng thuyết đa trí tuệ tại trường THPT Tân Kỳ. Tôi đã xác định rõ những điều sau : 1. Mục đích * Tìm hiểu việc các GVCN đã sử dụng những phương pháp giáo dục, dạy học nào để giúp HS phát triển năng lực chung của HS lớp trong bối cảnh giáo dục hiện nay cũng như tìm hiểu thái độ, hiểu biết và kinh nghiệm của giáo viên về việc áp dụng lý thuyết đa trí thông minh vào công tác chủ nhiệm tại trường trung học phổ thông Tân kỳ. * Tình hình thực trạng phát triển năng lực chung của học sinh lớp chủ nhiệm và những hiểu biết của các em về đa trí thông minh. 2. Đối tượng nghiên cứu * Giáo viên: 40 giáo viên chủ nhiệm đến từ các trường THPT Tân Kỳ. * Học sinh: Khảo sát 186 học sinh, trong đó có 42 học sinh lớp 10C9 k51- lớp thực nghiệm, 40 HS lớp 11C6K54, 104 học sinh còn lại là các lớp 10C1K51, 11C5 k54 và các lớp khác của trường THPT Tân Kỳ . 5
  6. Để đảm bảo rằng kết quả đáng tin cậy, Tôi phải kéo dài thời gian thực nghiệm một khóa chủ nhiệm 3 năm C9 K 51 (2016-2019) và năm nay tiếp tục áp dụng cho lớp chủ nhiệm hiện tại C6 K54 (2020-2021). 3. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. - Phương pháp điều tra quan sát. Sử dụng bảng câu hỏi * Bảng câu hỏi dành cho giáo viên (xem Phụ lục 1.A) * Bảng câu hỏi dành cho học sinh ( xem Phụ lục 1.B) 4. Kết quả khảo sát Số liệu điều tra giáo viên (xem Phụ lục 1.C) Số liệu điều tra học sinh (xem Phụ lục 1.D) Kết luận Theo phiếu điều tra khảo sát, giáo viên cho rằng công việc chủ nhiệm hiện nay vất vả và khó khăn với 39/40 phiếu đồng ý, trong đó có 77,5 % là hoàn toàn đồng ý, 20% đồng ý và có một người hoàn toàn không đồng ý. Như vậy, trong bối cảnh hiện nay, GVCN gặp nhiều khó khăn trong công việc của mình là một sự thật, dù tâm huyết ít hay nhiều. 92,5 % Giáo viên cho rằng học sinh hiện nay có khả năng ứng xử thực tế kém đi do học sinh bị tác động nhiều của mạng xã hội, internet. Thực tế các em thường có điện thoại riêng, chơi games, facebook mà quên đi thế giớ xung quanh, vô tâm vô cảm. Tuy nhiên vẫn có 3 GV không đồng ý. Có thể một số em nhờ mạng, nhờ giao lưu với thế giới bên ngoài mà các em lại phát triển khả năng kết nối của mình từ quan hệ ảo thành kết nối thật. Đó là tính hai mặt của vấn đề. Tất cả các GV đều hiểu rõ mục tiêu của chương trình GDPT mới về phát triển 5 phẩm chất và 10 năng lực nhưng chỉ có 2,5% có hiểu biết về thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner và đã áp dụng nó cho học sinh của mình, còn lại 97,25% chưa biết hoặc chưa áp dụng. Tất cả các Gv luôn cố gắng giúp các em phát triển các khả năng của mình bằng nhiều phương pháp. Nhưng chỉ có 7 người đã tìm ra những phương pháp hiệu quả để phát triển năng lực chung cho học sinh chỉ chiếm 17,5 %.Về việc lồng ghép rèn luyện năng lực chung vào trong bài dạy của mình có 2,5 % GV tức có một GV hoàn toàn đồng ý, 27 người khác không đồng ý chiếm 67,5 % còn lại là đồng ý. Có 6 GV đã từng dạy bằng phương pháp dự án và tích hợp liên môn, số còn lại là 34 chiếm 85 % . Tất cả GVCN nghĩ rằng thích được đi ngoại khóa trải nghiệm và tham gia các hoạt động ngoài trời và có 10 GV thay đổi hình thức sinh hoạt lớp truyền thống bằng những hình thức khác. 30 gv còn lại chiếm 75 % vẫn đang giữ nguyên. 6
  7. Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy các GV đã nắm rõ yêu cầu và mục tiêu của bối cảnh hiện tại và xác định rõ đó là nhiệm vụ khó khăn. Một số ít GV rất nhiệt huyết tìm ra phương pháp mới để đón đầu nhiệm vụ nhưng việc việc áp dụng lý thuyết đa trí thông minh vào công tác chủ nhiệm tại trường trung học phổ thông Tân Kỳ thì chưa bắt đầu. Qua khảo sát và tìm hiểu thì có GV biết nhưng chưa áp dụng. Đối với học sinh, kết quả thu được cũng rất thú vị. 14 % HS cho rằng mình tự tin vào chính mình và có khả năng giao tiếp, hợp tác tốt. Số còn lại không đồng ý và hoàn toàn không đồng ý. Có 101 em không đồng ý và 80 em hoàn toàn không đồng ý với ý kiến có năng lực giải quyết vấn đề sáng tạo, chỉ có 5 em chiếm 2,7 % đồng ý. Những em này là những em tự tin và có năng lực thực sự. Về khả năng tự chủ, tự học có đến 164 em chiếm gần 90% không có. Dường như các em không hiểu biết về thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, chỉ 1,6 % đồng ý, nghĩa là các em sẽ mơ hồ về những khả năng của mình hoặc có nhưng không tự tin. Hơn một nửa trả lời các em biết làm theo cặp, theo nhóm nhưng chỉ có 5,4 % trả lời biết làm trình chiếu. Chỉ có 3,7% thích tất cả các giờ học trên lớp, nghĩa là các em sẽ có những môn không học được hay không chú ý học. Chưa có em nào tham gia học bằng phương pháp dự án nghĩa là một số GV có dạy nhưng chưa vào những lớp này. Tất cả HS đều trùng với suy nghĩ của Gv là rất thích đi ngoại khóa trải nghiệm và tham gia các hoạt động ngoài trời. Có 69,3% thích được tự đánh giá cho điểm chính mình và các bạn. Có 13,4 % HS thích giờ SH lớp còn lại không mặn mà. Hầu hết HS muốn thay đổi hình thức sinh hoạt lớp truyền thống, chỉ có 9,1 % muốn giữ nguyên. Qua số liệu ta thấy rằng điều này cho thấy hs khả năng tự học, khả năng giao tiếp và khả năng giải quyết vấn đề sáng tạo của HS khối 10 và 11 còn non. Các phương pháp học tập như dự án, tích hợp, sinh hoạt theo chủ đề… còn rất ít. Các em không thích bó buộc trong lớp học và thích hoạt động ngoài trời. Điều này phù hợp thực tế bởi HS là tập thể đa trí tuệ. Với kinh nghiệm 14 năm là GVCN và gần 20 năm giảng dạy tại trường THPT Tân Kỳ, xác định rõ thực trạng trên, bản thân tôi nỗ lực học hỏi và tìm kiếm nhiều cách để giúp đỡ các học trò. II. 3. Giải pháp II.3.1. Mục tiêu phát triển năng lực chung dựa vào các hoạt động ứng dụng thuyết đa thông minh Giáo viên cần coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh, mỗi loại trí tuệ đều quan trọng và mỗi học sinh đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh phải là nơi giúp đỡ, khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập để Hs phát triển được các năng lực chung 7
  8. theo quy định. Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, năng lực chung ( bao gồm: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo ) có thể được phát triển thông qua nhiều phương pháp giáo dục khác nhau như dạy học phân hóa, dạy học tích hợp, dạy học thông qua hoạt động. Ông cho rằng dạy học phân hóa giúp phát triển khả năng của từng học sinh, dạy học tích hợp giúp các em có tư duy tổng thể và dạy học thông qua hoạt động giúp các em được thực hành, thông qua hoạt động mà rèn luyện, phát triển năng lực cá nhân. Mục tiêu cuối cùng là giúp các học sinh sau khi học, tốt nghiệp thì có thể làm việc được; thay vì chỉ học để biết như trước đây. Như vậy, theo thang đánh giá năng lực của Bloom thì học sinh THPT khi tốt nghiệp phải đạt đến cấp độ 5 và 6. - GVCN là người chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc “xác định tọa độ của học sinh trên sơ đồ phát triển”. Trong thời đại công nghệ số, học sinh chỉ cần lên mạng tìm kiếm là có kết quả tương ứng, “nếu thầy cô chỉ bằng lòng là người cung cấp thông tin đơn thuần thì họ không thể bằng được “ thầy” Google. Nhưng học sinh vẫn rất cần giáo viên. Là vì CTGDPT mới sẽ không thực hiện giáo dục cào bằng mà thực hiện nền giáo dục có sự quan tâm tới từng đối tượng. Chúng ta biết rằng năng lực là sự kết hợp từ những tố chất sẵn có và quá trình rèn luyện, học tập. Mỗi người có tố chất khác nhau. Nếu HS có thuận lợi để phát triển những tố chất đó thì họ sẽ trở thành người có năng lực. Nhưng nếu chúng ta áp dụng nền giáo dục dùng chung cho tất cả mọi người thì có khi chúng ta sẽ làm thui chột tiềm năng của nhiều học sinh. Vì vậy mục tiêu các hoạt động là phải tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn những nội dung học tập, trải nghiệm phù hợp với bản thân mình. Các hoạt động dạy học và trải nghiệm được thiết kế với mục tiêu hướng tới người học, khuyến khích người học huy động các lĩnh vực tri thức, kỹ thuật khác nhau, thúc đẩy sự tìm tòi, khám phá và tự học thông minh nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy giúp học sinh tự tin phát triển bản thân. II.3.2. Yêu cầu về nội dung và phương pháp thực hiện các hoạt động ứng dụng thuyết đa thông minh Gardner giải thích: “Lý thuyết đa trí tuệ của tôi cung cấp một nền tảng cho giáo dục bằng nghệ thuật. Theo lý thuyết này, tất cả chúng ta đều có sở hữu các loại trí thông minh khác nhau”. Các GV thường tập trung vào trí thông minh về ngôn ngữ và logic, nhưng GV có thể nuôi dưỡng sự phát triển của học sinh bằng cách để chúng thể hiện bản thân theo những cách khác nhau. GVCN cần xây dựng chuỗi hoạt động phong phú, kích thích đa trí thông minh trong mỗi học sinh cũng như của toàn tập thể; áp dụng linh hoạt hơn các phương pháp dạy học và kĩ năng sử dụng các tài liệu, các thiết bị dạy học đa dạng hơn, phong phú hơn. GV trong lớp học đa trí tuệ khác với trong lớp học truyền thống ngôn ngữ hoặc lôgic-toán học. Trong lớp học đa trí tuệ, GV phải linh hoạt thay đổi phương pháp và khéo léo chuyển từ lối dạy ngôn ngữ sang lối dạy không gian rồi lối dạy âm nhạc hay vận động, giao tiếp. 8
  9. Trong khi thiết kế các hoạt động, GVCN cần lưu ý, không nên dán nhãn học sinh với một loại trí thông minh. Bởi khi mặc định như vậy, giáo viên sẽ khiến học sinh mất cơ hội để có những trải nghiệm học tập phong phú. Việc kết luận một học sinh có trí thông minh ngôn ngữ hay có trí thông minh về hình ảnh có thể có hại khi nó không khuyến khích học sinh khám phá những cách suy nghĩ và học tập khác, hoặc phát triển các kỹ năng mà chúng yếu hơn. Trong các hoạt động được xây dựng, GVCN cần lưu ý việc cá nhân hóa nhiệm vụ và việc học: Việc dạy học phân hóa là điều cần thiết vì không phải tất cả học sinh đều có chung phong cách học tập. Tránh một phương pháp giảng dạy theo kiểu “một cỡ vừa cho tất cả”, hãy suy nghĩ và đảm bảo nhu cầu và sở thích của học sinh. Trên thực tế, học sinh học bằng nhiều cách khác nhau, do vậy, GV nên mang đến cho học sinh nhiều cách tiếp cận thông tin. Điều này không chỉ giúp bài học trở nên thú vị mà còn giúp học sinh lưu giữ thông tin theo những cách khác nhau, phù hợp với thuyết đa thông minh. Một điều cũng nên được quan tâm là về môi trường lớp học đa trí tuệ. Không gian lớp học cần phải được thiết kế, bố trí, sắp xếp để phù hợp với nhu cầu của nhiều loại trí tuệ khác nhau ở học sinh. Ví dụ trong các tiết sinh hoạt lớp, GVCN yêu cầu HS thay đổi, sắp xếp lại bàn ghế để tạo những kiểu không gian khác nhau: Tùy theo những chủ đề, cách thức tổ chức của chương trình mà HS tự phân công và sắp xếp lại bàn ghế phù hợp: Theo hình chữ U, theo từng nhóm....Hơn thế nữa, các hoạt động giáo dục không nhất thiết phải diễn ra trong lớp học.Trong các buổi ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo, sinh hoạt chuyên đề thì GVCN có thể thay đổi địa điểm sinh hoạt, tạo ra không gian mới thuận tiện cho hoạt động thực nghiệm (như sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột, hay học nhóm, vẽ bản đồ tư duy… II.3.3. Một số hoạt động đã thực hiện II.3.3.1. Sinh hoạt lớp theo chuyên đề áp dụng thuyết đa thông minh Trong chương trình giáo dục hiện hành, tiết SHL là tiết học bắt buộc được thực hiện vào tiết học cuối cuần trong một tuần học. Thực hiện tốt tiết sinh hoạt lớp là điều kiện tiên quyết để giáo viên kịp thời giúp học sinh thực hiện nội quy, điều chỉnh ý thức thái độ học tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, ngăn chặn tình trạng suy thoái về nhân cách của thế hệ trẻ - Những chủ nhân tương lai của đất nước. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang trong thời kì hội nhập mạnh mẽ như hiện nay. Hơn thế, trong Chương trình Giáo dục phổ thông mới ban hành năm 2018, thì tiết SHL, sinh hoạt dưới cờ và hoạt động trải nghiệm theo chủ đề là những hoạt động bộ phận của Hoạt động trải nghiệm – được tổ chức trong và ngoài nhà trường. GVCN có thể áp dụng thuyết đa thông minh vào các buổi sinh hoạt lớp để giúp các em phát triển các năng lực của mình. Trước hết, GVCN trao đổi với ban cán sự lớp và Ban chấp hành chi đoàn về nội dung của tiết SHL bám vào kế hoạch tuần, tháng của trường, của Đoàn để xây dựng nội dung SHL cụ thể, phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp mình chủ 9
  10. nhiệm. Tiết SHL được thực hiện vào ngày thứ 7. Đây cũng là ngày Đoàn trường THPT Tân Kỳ thường kết hợp để tổ chức nội dung “Sinh hoạt Đoàn thường kỳ” theo những chủ đề cụ thể. Vì vậy, trước đó, tôi đã tiến hành hội ý với Ban chấp hành chi đoàn, Ban cán sự lớp để cùng trao đổi, bàn bạc thống nhất nội dung và cách thức tổ chức chương trình. Các em sẽ đưa ra các ý kiến, đề xuất cách thực hiện vừa phát huy được sức trẻ, tinh thần xung kích của thanh niên nhưng cũng thể hiện được ý nghĩa giáo dục ở trong đó. Thực tế, trong thời gian qua tôi đã thực hiện một số nội dung trong các tiết sinh hoạt lớp bám sát chủ đề như sau: - Hoạt động theo chủ đề của từng tháng, từng ngày lễ kỉ niệm lớn: Chào mừng ngày học sinh, sinh viên; Mừng Đảng – Mừng Xuân (chủ đề tháng 1, tháng 2); Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3; Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3); Tri ân người có công với cách mạng trong ngày 27/7; Ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam 20/10; Các hoạt động tri ân thầy cô giáo trong ngày 20/11...; - Các vấn đề gần gũi, quen thuộc; các vấn đề các em quan tâm; các vấn đề chính trị - Xã hội quan trọng như: Tình yêu tuổi học trò, tình bạn khác giới, Thanh niên với chấp hành luật An toàn giao thông; Sống yêu thương, Lòng yêu nước của thế hệ trẻ trong thời bình; Phòng chống dịch Covid 19; Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tư tưởng phong cách Hồ Chí Minh (Theo tài liệu dành cho khối 11)... Từ các nội dung đó, các em HS chủ động lên kế hoạch, tổ chức thực hiện với các hình thức sáng tạo, phong phú. Bản thân tôi nhận thấy, qua các hoạt động này, tiết SHL– dù đã là tiết 5, lại là tiết học cuối cùng sau một tuần lễ dài đằng đẵng các em học tập vất vả, căng thẳng nhưng vẫn được đón nhận nồng nhiệt. GVCN cần tận dụng tối đa tiết sinh hoạt lớp, đổi mới để tạo ra các giờ sinh hoạt chuyên đề ý nghĩa bằng cách sử dụng các phương pháp: Phương pháp đóng vai Phương pháp thảo luận nhóm Phương pháp trò chơi Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình… + Phương pháp đóng vai : Phương pháp đóng vai thường được sử dụng trong các tình huống do giáo viên đặt ra nhằm rèn luyện cho học sinh những kỹ năng ứng xử hoặc bày tỏ thái độ của mình trước một vấn đề nào đó trong thực tiễn cuộc sống. Từ đó giúp các em thảo luận và rút ra ý nghĩa giáo dục liên quan đến chuyên đề sinh hoạt như an toàn giao thông hay tình yêu học đường…Những em tham gia đóng vai là những em thuộc trí thông minh vận động hoặc là trí tuệ liên nhân, các em nhanh hiểu ý và diễn đạt bằng ngôn ngữ hình thể. + Phương pháp trò chơi: Tôi thường sử dụng các trò chơi như: trò chơi tiếp sức, trò chơi tập làm phóng viên, trò chơi tuyên truyền viên, trò chơi giải ô chữ, trò chơi hiểu ý bạn, thi vẽ tranh, thi hát…phương pháp này giúp cho nhiều dạng trí 10
  11. tuệ được bật nở. Nhiều em sẽ bất ngờ với chính khả năng của mình. Giúp các em tìm thấy vị trí của mình trong nhóm, trong tập thể rõ ràng hơn. + Phương pháp thảo luận nhóm: GVCN giao cho học sinh một nhiệm vụ và yêu cầu nhóm làm việc. GV chia nhóm, đặt tên cho các nhóm, cử nhóm trưởng, thư ký nhóm, quy định thời gian thảo luận. Sau đó các nhóm tiến hành thảo luận, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đại diện các nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác đóng góp ý kiến và tham gia tranh luận. Phương pháp này giúp cho những em có khả năng ngôn ngữ cũng như năng lực lãnh đạo thể hiện được bản thân rất rõ nét. + Phương pháp nêu trường hợp điển hình: Thi kể chuyện về Bác Hồ, diễn thuyết về idol, về những người thân yêu…. Thuyết đa trí tuệ được áp dụng trong mỗi tiết SHL bằng sự phong phú của các hoạt động ví dụ trong một tiết nên có hát, có trò chơi, câu hỏi, đọc thơ để nhiều em có thể thể hiện. Đặc biệt GVCN nên thiết kế hoạt động nhằm vào những đối tượng cần được kích thích, khai phá để giúp các em tự tin, hòa nhập và phát triển năng lực. Sau đây là một tiết sinh hoạt lớp mà tôi đã áp dụng tại lớp 11C6 năm học 2020-2021 SINH HOẠT LỚP TUẦN 16 (từ 20/12-26/12/2020) SINH HOẠT CHỦ ĐỀ : “SỐNG YÊU THƯƠNG” I. Mục đích,yêu cầu: - Tổng kết đánh giá tình hình học tập và thực hiện nề nếp của học sinh trong tuần từ đó đề ra phương hướng cho tuần tới. - Phát hiện và kịp thời giải quyết những vi phạm của học sinh, tuyên dương những cá nhân tiêu biểu. - Giải đáp những thắc mắc (nếu có). - Giáo dục đạo đức kĩ năng sống với chủ đề “Sống yêu thương”, biết chăm sóc bản thân, yêu thương sẻ chia đối với người khác…. - Rèn luyện kỹ năng : lập kế hoạch, thuyết trình, đóng kịch,vẽ tranh, làm đồ thủ công, hát, nói chuyện trước đám đông, ….) II. Phương pháp - Thuyết trình. - Văn nghệ. - Trao đổi, phỏng vấn . III. Chuẩn bị. 11
  12. 1. Giáo viên: - Chuẩn bị những kiến thức về sống yêu thương để giáo dục kĩ năng sống, giải đáp thắc mắc, xử lý tình huống - Hướng dẫn học sinh vẽ tranh, làm thiệp, lĩnh xướng, chia nhóm học sinh, chuẩn bị kiến thức chuyên đề.... 2. Học sinh: - Tổng hợp kết quả thi đua - Chuẩn bị các tiết mục văn nghệ, bài thuyết trình , tranh ảnh, câu hỏi phỏng vấn . - Nêu những thắc mắc cần được giải đáp (nếu có). IV. Tiến trình các hoạt động: THỜI HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔ GIAN TRÒ 1. Ổn định tổ chức : 2 phút - Lắng nghe Vy lĩnh xướng bài hò Cùng xướng dô “ Ước mơ lớn” Lớp trưởng tổng kết , đánh giá Lắng nghe - Tổ trưởng các tổ lên báo cáo công tác thi Phần I: Sơ kết thi 10 đua của tổ trong tuần đua tuần, phương phút - Bí thư Đoàn nhận xét, hướng hoạt động đánh giá và triển khai tuần tiếp. kế hoạch Hoạt đông Đoàn và phong trào thanh niên. - Lớp trưởng sơ kết thi đua.đề ra kế hoạch tuần tới - GV: Nhận xét đánh giá - HS phát biểu ý kiến kết quả thi đua tuần (nếu có) - GV góp ý kế hoạch tuần tới của lớp và của Đoàn Cô nhắc nhở và bổ sung kế hoạch cho tuần mới đó Lắng nghe là ôn tập học kỳ thật tốt, nghỉ tết dương lịch an 12
  13. toàn vui vẻ. HS trả lời: Có Hỏi HS muốn nghe cô Lắng nghe đọc thơ không? - Đọc thơ - Dẫn vào chuyên đề: Phần II: 33 “Sống yêu thương” Sinh hoạt chuyên đề phút -Yêu cầu học sinh lên Tú viết bảng bằng phấn bảng viết chuyên đề “Sống yêu thương”. đỏ chữ “Sống yêu thương” Bài thơ “ Hỏi”- tác Sinh hoạt chuyên đề – Treo mục tiêu tìm hiểu giả Hữu Thỉnh chuyên đề lên “SỐNG YÊU “Tôi hỏi đất THƯƠNG” Mời lớp trưởng lên dẫn Đất sống với nhau như sinh hoạt chuyên đề Lớp trưởng dẫn chương thế nào? trình Lớp trưởng mời tổ 4 ..... Lắng nghe Tôi hỏi người Đại diện tổ 4 thuyết trình’ “Thế nào là sống Người sống với nhau yêu thương?” như thế nào?” 5’ Các bạn góp ý kiến 1.Thế nào là sống yêu Cô khen ngợi và cho ý thêm để làm rõ thế nào thương? là sống yêu thương. kiến thêm. Lớp trưởng tiếp tục giới thiệu nội dung tìm hiểu 2 và hướng dẫn cuộc thi tiếp sức. Luật thi: Hai đội chơi. Mỗi đội 5 em lên thi 2.Biểu hiện tình yêu viết tiếp sức liên tục thương? trong 2 phút về những biểu hiện của sống yêu Thi : Ai nhanh hơn? thương lên 2 bảng phụ của mỗi đội đội. LT mời cô lên bảng làm ban giám khảo chấm thi Nhận xét, góp ý và đưa ra Lắng nghe kết quả Vỗ tay 13
  14. 5’ Đội Tự nguyện thắng LT kết luận nội dung 2 và giới thiệu nội dung tìm hiểu 3. Đồng thời giới thiệu bạn Duyên 3.Tại sao phải sống lên bảng kể chuyện yêu thương? -Duyên kể chuyện xúc Kể chuyên: Bác thợ động và diễn cảm. săn và con vượn -Các bạn lắng nghe Gv lắng nghe câu chuyện (Có tranh minh họa chăm chú. về tình yêu thương cảm câu chuyện) hóa được bác thợ săn Sau khi kể xong, lạnh lùng và trách nhiệm Lớp trưởng hỏi cả lớp của cộng đồng với đưa tại sao phải sống yêu con bé bỏng khi mồ côi thương? mẹ -HS cho ý kiến 5’ Mời GVCN cho ý kiến GV nhận xét và đưa ra ý kiến của mình. Cô giới thiệu các gương sáng về sống yêu thương: về mẹ Teresa, về Anh Norman Morisson dám thiêu mình vì phản đối chiến tranh Việt Nam, về bác Hồ kính yêu, về các Anh hùng liệt sỹ…. Yêu thương là sức mạnh. Mọi hành động xuất phát từ tình yêu thương đều là Vy hát: Tự nguyện Tự nguyện. của Truơng Quôc 4. Nhận thức và hành Khánh động GVCN cảm ơn và tự hào Thông điệp nhắn gửi vì HS của mình đã có Kịch 1: những bước tìm hiểu tốt Mẹ Ngân thấy con về chuyên đề. Duyên kể chuẩn bị đi học nhưng chuyện xúc động, Vy hát ăn mặc mong manh hay và tổ 4 chuẩn bị tốt. trong khi trời rất lạnh. Cô muốn các em hiểu sâu Mẹ: Con ơi, trời lạnh, hơn và nâng cao nhận 14
  15. nhớ ăn mặc ấm vào thức về sống yêu thương Lắng nghe Ngân: Không sao đâu bằng cách mời cả lớp mẹ, thời trang vẫn hơn xem các đoạn kịch ngắn thời tiết. Con khỏe và cho cô biết thông điệp Hào hứng xem kịch mà… cô muốn nhắn gửi là gì? Phát biểu Ngoái cổ nói xong ôm - Chỉ cha mẹ ta là cặp đi luôn…. (Hết) Cô khen nhóm diễn và yêu thương ta nhất, lo mời đưa ra ý kiến. lắng cho ta Thông điệp 1 - Sống yêu thương, trước hết phải Kịch 2 : “Sống yêu thương, trước biết lo cho bản thân hết phải biết biết tự chăm Mẹ đang ốm, hỏi mình, biết tự chăm sóc sóc mình, không để cho Hùng mình, không để cho những người yêu thương những người yêu - Chiều nay con mình lo lắng…” 3’ thương mình lo lắng… có đi học không? - Không mẹ à - Phải biết yêu thương - Vậy chiều con ra Cô khen nhóm diễn và cha mẹ giúp bố cùng cày vạt mời đưa ra ý kiến. đất trồng lạc. Mẹ ốm - Nói dối đấng bố không làm kịp với sinh thành là tội lỗi xóm làng. - Giúp đỡ bố mẹ là Nói xong thì Hùng có sống đúng điện thoại. Hùng bốc Cô đưa ra ý kiến nhận xét máy nghe tiếng Nam Và kết luận thông điệp -Nam: Nhanh lên, ra quán siêu tốc, đội hình “ Yêu thương trước hết đủ rồi! phải yêu thương cha mẹ và phải biến thành hành - Nam quýnh 3’ động và việc làm cụ thể” quáng nói với mẹ Mời nhóm diễn đoạn kịch - Mẹ ơi, cô gọi thứ 3 chiều con đi học thêm. Cô cảm ơn nhóm diễn Xem kịch Con phải đi luôn đây! - (Hết) Mời HS đưa ra ý kiến riêng - Mạnh rất tốt với bạn bè -Giúp bạn đánh nhau là sai Cô phân tích, đưa ra ý Kịch 3: 15
  16. Mạnh và Công đang đi kiến nhận xét và kết luận Quay phim chụp ảnh học về, thấy phía trước thông điệp đặc biệt đưa lên mạng đông người lộn xộn. Thông điệp 3 là sai Mạnh: Ơ , đánh nhau Giúp bạn là tốt nhưng rồi. mà ai giống thằng giúp bạn làm việc tốt Lực bạn tau..Hắn đang ,không được giúp bạn bị đập, để tau vô làm điều sai, đánh nhau- giúp… đó chính là bạo lực học 3’ Nói xong ném cặp cho đường cần phải tránh xa. Lắng nghe Công ôm và lao vào Bạn nên báo với nhà đám đông. trường và an ninh xử lý kịp thời. Quay phim chụp Công vừa ngó nghiêng ảnh để lan tỏa điều tốt thì vừa móc điện thoại ra, nên làm còn để lan tỏa quay quay chụp chụp. điều xấu là sai, thậm chí Miệng lẩm bẩm: vi phạm quy định Cái thằng ni được cái - GV hỏi: Muốn sống với anh em bạn sống yêu thương các em bè luôn hết lòng…. cần làm những việc cụ thể nào? - GV gọi một HS tổng hợp lại Yêu thương cha mẹ, giúp đỡ công việc, lấy tăm, múc nước nấu ăn giặt giũ… Không đánh nhau, nói - GV tổng hợp và lời tốn thương, sẵn cho thêm ý kiến toàn sàng giúp đỡ anh em diện bạn bè, lan tỏa yêu thương Giúp đỡ yêu thương người có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, bệnh tật, nghèo khổ, hoạn nạn…. - Và bây giờ hãy lan 16
  17. tỏa những yêu thương bình dị nhất Cô hỏi:Trong trường này, ai là người yêu thương Hs nhất? yêu thương mái trường nhất? HS trả lời: Là cô (Gợi ý: là người vẫn phải đến trường và chịu mọi trách nhiệm cho dù đó là ngày bão, ngày tết, ngày À, là Thầy Hiệu trưởng Nói lời cảm ơn, lời lễ. là người cống hiến cả Là Ban giám hiệu yêu thương tới thầy cô thanh xuân cho mái và bè bạn trường THPT Tân Kỳ.) Hãy nói lời gì đó nhân dịp Tết đến xuân về với những lời yêu thương trân trọng nhất đi nào. Giơ tay và nói lời cảm Còn gì muốn lan tỏa nữa ơn tới thầy cô không? Cô yêu cầu HS lấy tranh đã vẽ ra (tranh vẽ về bạn Lấy tranh ra và viết bên cạnh) và viết lên đó những lời yêu thương dành tặng cho bạn mình. Đồng thanh trả lời : Cô hỏi: Những ai vẽ tranh Em! tặng bạn bằng cả trái tim và yêu thương? Vỗ tay cười Cuộc thi “ Vẽ tranh Người thắng cuộc là đẹp viết lời hay” người vẽ tranh tặng bạn Giơ tranh (Phát động trong buổi bằng cả trái tim và yêu sinh hoạt tuần trước) thương. Vậy ai thắng cuộc thì giơ cao tranh Tặng tranh, nói lời yêu lên? thương Cô yêu cầu cả lớp giơ tranh lên cao Cô hướng dẫn trò tặng HS ủng hộ tranh cho bạn. Như vậy chũng ta sẽ biến 17
  18. Kế hoạch hành động yêu thương thành hành sắp tới theo chuyên đề động Với các kế hoạch Hướng dẫn về nhà. - Tặng quà “ Áo ấm mùa đông “ cho một bạn Học sinh thực hiện có hoàn cảnh trong lớp. các kế hoạch đã đề ra. - Gv gợi ý kế hoạch - Sưu tầm thêm các thăm một gia đình có câu chuyện nói về tình hoàn cảnh khó khăn cảm gia đình. (Kể vào nhân dịp Tết Tân Sửu. Buổi sinh hoạt tuần sau). - Chào đón năm mới yêu thương bằng việc trang trí lớp thật ấm cúng. Tiết sinh hoạt đã rất thành công vì học sinh cảm thấy được yêu thương, được thể hiện yêu thương, lan tỏa nó bằng những điều giản dị và có động lực thực sự. Các dạng trí tuệ như vận động ( Kịch) Âm nhạc ( Hò, hát, nghe hát) Không gian , thị giác (Vẽ tranh) Ngôn ngữ ( thuyêt trình, kể chuyện) Tự nhiên (nội dung câu truyện) Tương tác , Giao tiếp ( Nói lời cảm ơn, Dẫn chương trình, phát biểu…) Nội tâm ( Hệ thống câu hỏi chuyên đề, lời dạy của cô…) đã giúp học sinh phát triển hơn về không chỉ năng lực chung mà còn thêm phẩm chất như yêu đất nước , yêu con người và sống có trách nhiệm. Các em tự tin hơn khi cô động viên diễn kịch, khi thuyết trình, phát biểu, tham gia cuộc thi. Các em phải tự tìm tòi, suy nghĩ những vấn đề liên quan tới chuyên đề. Mày mò viết Poster, vẽ tranh. Các em phải xử lý tình huống khi cô gợi ý nói lời gì đó với các thầy cô Ban giám hiệu… Kế hoạch sau chuyên đề cũng đã được các em thực hiện tốt, tặng áo cho bạn Tú và thăm gia đình anh Hiền có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở xã Kỳ Tân (Vợ chồng nông dân, Vợ đau yếu, chồng tai nạn, con một đưa bị ung thư máu, một em sau bị tim bẩm sinh) II.3.3.2. Ứng dụng vào các bài học do GV chủ nhiệm giảng dạy Trong quá trình giảng dạy tại lớp chủ nhiệm, tôi luôn cố gắng dùng các phương pháp dạy học tích cực phát huy đa trí thông minh trong tập thể lớp. Các hoạt động học tập được tạo ra luôn được soi sáng bởi thuyết đa trí tuệ, nghĩa là khi thiết kế các hoạt động tôi luôn để ý đến trí thông minh nào sẽ được phát huy trong hoạt động này. Tương đương là học sinh nào sẽ tham gia vào hoạt động và sẽ bung nở năng lực. Tôi để ý đến sự cân bằng giữa các trí tuệ để em nào cũng có cơ hội thể hiện. Có em sau khi hoàn tất nhiệm vụ mới thấy rằng mình giỏi hơn bạn mà lâu nay không biết. 18
  19. Tôi nghĩ rằng nếu các giáo viên chủ nhiệm ở các bộ môn khác cũng vận dụng tốt thuyết này để giúp học sinh thấy được tiềm năng của chính mình thì thật tốt. Mỗi bộ môn có một đặc thù riêng nhưng khi chủ nhiệm biết cách thiết kế hoạt động cho học sinh sẽ tận dụng được thêm thời gian giúp học trò nhiều hơn. Hơn nữa, thời gian của GVCN trên lớp không nhiều, chỉ một tiết sinh hoạt lớp hàng tuần hay sinh hoạt ngoại khóa theo kế hoạch không đủ để GV thực hiện hết những mong muốn, nên GVCN cần biết tận dụng cả giờ dạy thì hiệu quả chủ nhiệm sẽ tăng cao hơn rất nhiều. Bản thân tôi cố gắng phối hợp kiến thức liên môn với phương pháp dạy dự án và thấy mình có những thành quả nhất định. Sau đây là một số dự án mà tôi đã thành công giúp học sinh tự tin hơn trong giao tiếp và học tập, phát huy được khả năng của các học sinh đồng đều.  Dự án "Tết vui trọn lời yêu thương" Để khai thác Trí tuệ Thị giác - Không gian, Tôi đã hướng dẫn học sinh làm những tấm thiệp với những lời chúc tốt đẹp gửi đến ai đó nhân dịp 8/3, 20/11 hay năm mới .... Tôi chọn dịp Tết Nguyên đán 2018 để kiểm tra năng lực của học sinh với dự án “Vui Tết gửi lời yêu thương”. Tôi thấy học sinh háo hức tham gia các nhóm để làm bưu thiếp, các em tranh thủ cả giờ nghỉ để làm việc trên lớp. Không khí Tết bỗng tràn ngập trên từng tấm thiệp và sự náo nức của các nhóm bạn. Tôi chia lớp thành 7 nhóm, mỗi nhóm 6 em để giúp đỡ lẫn nhau vì một số em có khả năng hạn chế. Nhóm nào đẹp và đồng đều thì trình bày thuyết phục để đạt điểm cao. Điểm cá nhân bao gồm điểm nhóm và điểm tự trình bày. Sau đó các bạn học sinh mang những tấm thiệp mình đã làm để tặng những người mà mình muốn tặng. Hình ảnh: Làm thiệp trong giờ giải lao và các sản phẩm Phần lớn, họ tặng cho giáo viên đang dạy trên lớp. Cô giáo dạy văn nhận thiệp bằng thơ; các giáo viên hóa học nhận thiệp có các mô hình hóa học… Món quà tuy nhỏ nhưng là sự tận tâm, hết lòng của người thầy mà các em yêu quý. Quan trọng hơn, họ đã có cơ hội bày tỏ cảm xúc và lòng biết ơn của mình đến những người họ yêu thương. Dự án "Tết gửi lời yêu thương" 19
  20.  Dự án “Nhập vai MC truyền hình” Mục đích của đóng vai là khai thác trí thông minh liên nhân và nội nhân cho kỹ năng nói tiếng Anh. Tôi đã chọn dự án "Chúng tôi là MC" cho truyền hình. Tôi chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm 6 học sinh. Có 6 sinh viên khác thuộc Ban Nội dung và Biểu diễn để giúp đỡ bạn bè của họ cũng như Ban giám khảo. Họ kiểm duyệt nội dung mà học sinh dự định trình bày, sửa chữa những sai sót nếu phát hiện ra, ngoài ra, các em lắng nghe các em trình bày và góp ý trước khi thực hiện trước lớp. Cô giáo là người trực tiếp đánh giá phần thuyết trình của các MC. Điểm của mỗi MC là điểm trung bình của giáo viên, nội dung và điểm của Ban giám khảo. Học sinh có thể chọn làm việc theo cặp hoặc cá nhân theo chương trình của họ.  Dự án “Trải nghiệm với người nước ngoài nói tiếng Anh” Tân Kỳ nằm trên con đường lịch sử Hồ Chí Minh, nơi người nước ngoài thường dừng chân. Nhận thấy lợi thế này, tôi thực hiện dự án “Trải nghiệm cùng người nước ngoài nói tiếng Anh”. Đây là một dự án sẽ kích thích không chỉ trí thông minh ngôn ngữ, trí thông minh giữa liên nhân, khả năng hiểu và làm việc với người khác, khả năng nhìn rõ bên trong người khác và nhìn ra viễn cảnh bằng mắt của họ mà còn cả Trí tuệ nội nhân, tức là khả năng tự nhận thức; một người có tư duy này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn thấy rõ ràng cảm xúc của chính mình Hình ảnh học sinh đi phỏng vấn, nói chuyện với người nước ngoài  Dự án "Kịch" Kịch là một dự án thú vị khai thác và phát triển nhiều khả năng của học sinh như Khả năng ngôn ngữ, Trí tuệ-Năng lực và Âm nhạc. Tôi chỉ yêu cầu học sinh diễn những vở kịch dễ hiểu hoặc sử dụng ngay các tác phẩm trong sách giáo khoa như Sơn Tinh - Thủy Tinh, Chí Phèo - Thị Nở, Mị Châu - Trọng Thủy ... Các em đã có những sáng tạo vô cùng tuyệt vời. Giáo viên chia lớp thành bốn nhóm, các em họp và quyết định nội dung vở kịch và cùng nhau chuẩn bị kịch bản của vở kịch. Sau đó, các trò luyện tập sau giờ học thêm ở trường. Kịch được thực hiện 20
nguon tai.lieu . vn