- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển khả năng đồng sáng tạo cho học sinh qua dạy đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (khảo sát các trường trung học phổ thông ở huyện Yên Thành)
Xem mẫu
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT PHAN ĐĂNG LƯU
--------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG “ĐỒNG SÁNG TẠO” CHO HỌC
SINH QUA DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN CHÍ PHÈO CỦA NHÀ
VĂN NAM CAO (KHẢO SÁT CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở HUYỆN YÊN THÀNH
Tác giả: Nguyễn Thị Tâm
Lĩnh vực: Ngữ Văn
Số điện thoại: 0912435199
Năm học: 20202021
- BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT
CT : Chương trình
ĐC : Đối chứng
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
Nxb : Nhà xuất bản
PPDH : Phương pháp dạy học
SGK : Sách giáo khoa
THPT : Trung học phổ thông
TN : Thực nghiệm
VB : Văn bản
VBVH : Văn bản văn học
- MỤC LỤC
Trang
BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT........................................................................................................ 2
ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................................ 2
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................... 2
4. Phạm vi khảo sát.................................................................................................................. 2
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................................... 2
6. Đóng góp của đề tài............................................................................................................. 3
7. Cấu trúc của đề tài.............................................................................................................. 3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.......................................................................................... 4
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu........................................................................................... 4
1.1.1. Tình hình nghiên cứu việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo” của học
sinh trong đọc hiểu văn bản văn học
...............................................................
4
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài................................................................................................ 6
1.2.1. Cơ sở lý luận
...........................................................................................
6
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
......................................................................................
9
Tiểu kết chương 1.................................................................................................................. 14
Chương 2
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG “ĐỒNG SÁNG TẠO”
CHO HỌC SINH QUA DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11.................................................................................. 15
1. Dựa vào Tiểu dẫn, bối cảnh ra đời tác phẩm, giúp học sinh hình dung động
lực, tâm thế sáng tạo của tác giả
...................................................................
15
2. Xây dựng các câu hỏi khơi gợi trí tưởng tượng, giúp học sinh thâm nhập vào
thế giới hình tượng của tác phẩm
..................................................................
16
- 3. Cho học sinh nêu ấn tượng sâu sắc nhất đối với câu chuyện, nhân vật, cách
kể
.....................................................................................................................
18
4. Hướng dẫn học sinh phát hiện tính lô gic/ phi lô gic của câu chuyện; đối
chiếu giữa lô gic đời sống với lô gic nghệ thuật toát ra từ tác phẩm
..........
19
5. Cho học sinh phát hiện những tình huống, nhân vật, chi tiết nghệ thuật đắt
giá, phát lộ những ý nghĩa sâu xa, không thể thay thế
...................................
20
6. Cho học sinh thử thay đổi nhan đề, cấu trúc, vai kể trong tác phẩm, từ đó nêu
phương án tối ưu
.............................................................................................
23
7. Giúp học sinh hình dung hình tượng tác giả ẩn sau câu chuyện và thế giới
nhân vật
..........................................................................................................
25
8. Yêu cầu học sinh đánh giá tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật khác được
chuyển thể từ truyện đọc hiểu
......................................................................
29
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM....................................................................................................... 35
3.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm...................................................................................... 35
3.1.1. Mục đích TN
.........................................................................................
35
3.1.2. Yêu cầu TN
...........................................................................................
35
3.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian và quy trình TN................................................................. 35
3.2.1. Đối tượng, địa bàn TN
..........................................................................
35
3.2.2. Thời gian và quy trình TN
.....................................................................
36
3.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm.......................................................................................... 36
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm........................................................................................ 46
3.4.1. Tiêu chuẩn đánh giá
..............................................................................
46
3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm về phía giáo viên
................................
46
3.4.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm từ phía học sinh
.................................
47
3.4.4. Đánh giá chung
......................................................................................
51
KẾT LUẬN................................................................................................................................. 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................. 53
PHỤ LỤC..................................................................................................................................... 1
- ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Luật giáo dục hiện nay đã quy định rõ: “Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Xuất phát từ
mục tiêu trên, GV chính là người định hướng để HS chủ động, sáng tạo trong
việc tiếp cận tri thức, kĩ năng, thái độ, đồng thời hình thành năng lực, phẩm
chất hướng đến những công dân toàn cầu trong tương lai.
1.2. Cốt lõi của dạy học theo định hướng phát triển năng lực chính là lấy
HS làm trung tâm, chủ thể của hoạt động dạy và học. Chỉ ở vị trí này, HS mới
thực sự phát huy được khả năng của mình vào giải quyết các tình huống trong
thực tiễn và khả năng “đồng sáng tạo” trong quá trình học.
1.3. Dạy học đọc hiểu văn bản nói chung và đọc hiểu văn bản truyện nói
riêng, việc phát huy vai trò chủ thể của HS là cần thiết. Trước đây, trong giảng
văn, thầy thường là người đã đọc, hiểu, giữ vị trí trung tâm, còn học sinh chỉ giữ
vai trò tiếp nhận những lời thầy truyền thụ. Đó là lối dạy mang tính áp đặt,
đánh mất cơ hội cảm thụ văn học của học sinh, do vậy, các em sẽ khó phát huy
được khả năng “đồng sáng tạo” trong đọc hiểu văn bản.
1.4. Trong các buổi tập huấn, dạy học chuyên đề, phần lớn GV Ngữ văn
hiện nay đã có ý thức rất rõ yêu cầu về đổi mới cách thức dạy học bộ môn.
Song để đánh thức được sự năng động, hạn chế được “sức ì” của một bộ phận
học sinh thích “ăn xổi”, không muốn động não là một việc rất khó khăn. Vì thế
để phát huy khả năng “đồng sáng tạo” của HS trong đọc hiểu văn bản truyện,
đòi hỏi người giáo viên phải có PPDH kích thích được niềm say mê, hứng thú,
tìm tòi, sáng tạo của người học. Chủ động trong việc đổi mới PPDH là yêu cầu
bức thiết đối với GV để khơi gợi được khả năng sáng tạo sẽ là động lực để tạo
nên một giờ đọc hiểu văn bản hiệu quả.
Vì những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Phát triển khả năng “đồng sáng
tạo” cho học sinh qua dạy đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
(khảo sát các trường trung học phổ thông ở huyện Yên Thành)” để nghiên cứu
làm đề tài khoa học. Chọn đề tài này, người viết muốn góp phần đổi mới
phương pháp và cách thức tổ chức giờ Đọc hiểu văn bản Chí Phèo nói riêng và
Đọc hiểu văn bản truyện nói chung nhằm phát triển khả năng “đồng sáng tạo”
cho học sinh lớp 11, hướng đến thực hiện những yêu cầu đã và đang đặt ra
trong công cuộc đổi mới Giáo dục một cách căn bản, toàn diện hiện nay.
1
- 2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng đến mục đích nâng cao chất lượng dạy học trong quá trình
đọc hiểu văn bản Chí Phèo ở chương trình lớp 11, qua đó góp phần cải tiến
PPDH theo tinh thần mới: phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở học sinh.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là phát triển khả năng “đồng sáng
tạo” cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao trên
địa bàn huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về khả năng “đồng sáng tạo”
cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo trên địa bàn huyện Yên Thành,
tỉnh Nghệ An.
Đề xuất những phương pháp, cách thức phát triển khả năng “đồng sáng
tạo” cho học sinh trong giờ đọc hiểu văn bản truyện.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xem xét khả năng ứng dụng của đề
tài trong việc nâng cao hiệu quả dạy học văn bản truyện.
4. Phạm vi khảo sát
Phạm vi tài liệu khảo sát của đề tài là phát triển khả năng “đồng sáng
tạo” cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo ở một số trường THPT
trên địa bàn huyện Yên Thành Tỉnh Nghệ An (THPT Phan Đăng Lưu, THPT
Yên Thành 2, THPT Bắc Yên Thành... ).
5. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, chúng tôi sử
dụng phối hợp nhiều phương pháp thuộc hai nhóm nghiên cứu lý thuyết và
nghiên cứu thực tiễn:
Dùng phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và hệ
thống hoá lý thuyết để tổng thuật, đánh giá những công trình nghiên cứu đã có
liên quan đến đề tài.
Dùng các phương pháp quan sát và điều tra để nắm bắt những dữ liệu
cần thiết về hoạt động phát triển khả năng “đồng sáng tạo” cho HS qua giờ dạy
đọc hiểu văn bản Chí Phèo.
Dùng phương pháp thực nghiệm để thẩm định tính khoa học, tính khả thi
của hệ thống phương pháp, biện pháp được đề xuất trong đề tài về vấn đề phát
triển khả năng “đồng sáng tạo” cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo
của nhà văn Nam Cao.
2
- 6. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài góp phần tìm hiểu cơ sở lý luận của việc phát
triển khả năng “đồng sáng tạo” cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản Chí
Phèo.
Về mặt thực tiễn, đề tài bước đầu đề xuất một số nội dung, phương
pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động phát triển khả năng
“đồng sáng tạo” của học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn
Nam Cao trong chương trình Ngữ văn 11.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
có ba chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở khoa học của đề tài.
Chương 2: Biện pháp phát triển khả năng “đồng sáng tạo” cho học sinh qua
dạy đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao trong chương trình Ngữ
văn 11.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
3
- Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo”
của học sinh trong đọc hiểu văn bản văn học
Tác phẩm văn học là cả một quá trình thai nghén, sáng tạo của nhà văn.
Nhà văn thể hiện ý đồ nghệ thuật, gửi gắm tư tưởng, chủ đề thông qua thế giới
hình tượng nhân vật, qua hệ thống ngôn từ, giọng điệu. Người nghệ sĩ cũng có
khi phát ngôn trực tiếp suy nghĩ, cảm xúc của mình. Tuy nhiên, để tạo ra tính
khách quan, nhằm xây dựng câu chuyện, nhân vật “sống động, thực hơn cả đời
thực” thì nhà văn thường bày tỏ suy nghĩ, tình cảm, tư tưởng gián tiếp. Do đó
người tiếp nhận tác phẩm văn học phải là người “đồng sáng tạo”. Để phát huy
khả năng sáng tạo của học sinh, trong giờ đọc hiểu văn bản, người thầy cũng
phải sáng tạo. Sáng tạo qua hệ thống câu hỏi, sáng tạo trong vận dụng nhuần
nhuyễn, linh hoạt kĩ thuật và các PPDH tích cực là cách để kích thích vai trò
tham gia hoạt động học tập của HS.
Phát triển khả năng sáng tạo cho người học trong việc lĩnh hội, tiếp nhận
tri thức các môn học trong nhà trường phổ thông cũng như khả năng sáng tạo
trong thực tiễn cuộc sống là một yêu cầu quan trọng, đặt ra nhiều thách thức
trong đào tạo, giáo dục của người dạy học. Chính vì thế, các nhà nghiên cứu về
PPDH môn Ngữ văn và các nhà giáo tâm huyết đã cho ra đời những công trình
nghiên cứu, những bài báo khoa học, những sáng kiến kinh nghiệm nhằm hướng
tới phát triển năng lực sáng tạo cho HS.
Trong cuốn Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn
chương (năm 2001), Nguyễn Trọng Hoàn khẳng định tầm quan trọng của tư duy
sáng tạo đối với hoạt động dạy học: “Tiêu chuẩn đánh giá kết quả giờ văn
không phải là khả năng ghi nhớ, sao chép lại điều đã được thầy truyền thụ bằng
phương pháp như J. Vial nói là “từ miệng đến tai”. Tiêu chí cao nhất là tri thức,
cảm xúc được hình thành bằng cách nào đó có phải tự học sinh chiếm lĩnh thông
qua những việc làm, những thao tác để rồi tự HS thực sự tự phát triển (về mọi
mặt kiến thức, tâm hồn, kĩ năng, v.v… ) hay không?. Đó là bản chất của đổi
mới phương pháp trong đó khả năng tư duy sáng tạo thể hiện bằng con đường
liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật được xem như những hoạt động hướng
nội, hoạt động bên trong của chủ thể HS” [12, tr. 17]. Trong công trình này, tác
giả cũng rất chú trọng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong việc rèn luyện tư
duy sáng tạo cho HS. Bởi “Liên tưởng, tưởng tượng đã được xác định là những
4
- yếu tố quan trọng trong quá trình tiếp nhận văn học” [12, tr. 18].
“Góp phần rèn luyện sự sáng tạo cho HS lớp 12 trường THPT số 2 Lào
Cai trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học” là một sáng kiến kinh nghiệm cũng
đã có hiệu quả góp phần rèn luyện sự sáng tạo cho người học. Theo tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà trong giờ đọc hiểu, để rèn luyện tư duy sáng tạo cho HS,
GV cần phải cố gắng tập cho HS có thói quen rèn luyện và thao tác cần thiết khi
chuẩn bị bài ở nhà và khi học giờ đọc hiểu ở lớp: Thói quen đọc diễn cảm;
thói quen suy ngẫm những câu, đoạn mà mình tâm đắc nhất; thói quen liên
tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác có liên quan đến những
giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học; thói quen lật đi lật lại những vấn đề
quan trọng khi cảm nhận phân tích tác phẩm; thói quen cảm nhận tác phẩm theo
nhiều chiều, nhiều khía cạnh không máy móc thụ động; phải suy nghĩ, phát hiện
những điều mới lạ ở tác phẩm khi cảm nhận nó qua sự dẫn dắt của GV. Về
phía HS, tùy năng lực cảm thụ văn học của từng đối tượng mà hướng dẫn chỉ
đạo các em phát hiện sáng tạo phù hợp: Hệ thống câu hỏi đặt ra phải linh hoạt,
phải có sự phân chia đối tượng, có câu hỏi khó cho học sinh giỏi, câu hỏi phù
hợp cho học sinh trung bình... có thế một giờ giảng văn mới đảm bảo được
cùng lúc sự sáng tạo cho các em.
Bài báo khoa học của Trần Thị Ngọc Vân đăng trên tạp chí Khoa học và
Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế “Cách thức tổ chức giờ đọc hiểu văn
bản theo hướng phát huy vai trò chủ thể học sinh” đã đề xuất một số cách phát
huy vai trò chủ thể của HS trong giờ đọc hiểu văn bản trong đó có hướng dẫn,
tổ chức cho HS bộc lộ sự đồng sáng tạo : “Để khơi gợi cho HS bộc lộ sự đồng
sáng tạo trong giờ đọc hiểu văn bản, GV phải suy nghĩ, tìm kiếm và lựa chọn
các hình thức để vận dụng cho phù hợp với từng bài dạy... Câu hỏi và bài tập
được GV đưa ra và yêu cầu HS thực hiện. Tùy vào đặc điểm của câu hỏi và thời
gian cho phép, GV có thể cho HS thực hiện tại lớp hoặc về nhà làm và kiểm tra
vào giờ sau” [23, tr. 123].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo”
của học sinh trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Có rất nhiều bài viết, công trình khoa học nghiên cứu về văn bản Chí
Phèo chủ yếu là đi sâu khai thác giá trị nội dung và thành công về nghệ thuật
của tác phẩm. Cũng có một vài bài viết, công trình khoa học đưa ra biện pháp để
phát huy khả năng “đồng sáng tạo” của HS trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo
của nhà văn Nam Cao.
Bài báo Một số biện pháp dạy – học môn Ngữ văn ở trường THPT hiệu
quả của tác giả Đinh Thị Hồng Duyên trường THPT Đồng Đậu đã đưa ra biện
pháp dạy học “sân khấu hóa tác phẩm văn học” nhằm tạo hứng thú, giúp HS
tích cực, chủ động tiếp nhận tri thức, hình thành kĩ năng, phát triển nhân cách.
Người viết đã minh chứng biện pháp dạy học đó thông qua sân khấu hóa tác
5
- phẩm Chí Phèo. GV đã cho HS diễn cảnh “Mối tình Chí Phèo – Thị Nở” và thảo
luận các vấn đề:
Theo em, để cứu lấy những con người như Chí Phèo thì xã hội cần phải
làm gì? Qua hình tượng nhân vật bất hủ Chí Phèo, theo em Nam Cao muốn đề
cập tới một vấn đề quan trọng nhất là gì?
Nếu được viết lại kết truyện Chí Phèo, em sẽ viết lại như thế nào?
Nếu trong lớp ta có một “Chí Phèo” thì chúng ta có kỳ thị như làng Vũ
Đại kỳ thị Chí Phèo của Nam Cao không?
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Vũ Thị Mận “Rèn luyện tư duy văn học
cho học sinh trung học phổ thông bằng câu hỏi liên tưởng tưởng tượng trong
dạy học tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao” cũng là một hướng đi cho người dạy
tìm ra những biện pháp dạy học hữu ích nhằm phát huy khả năng “đồng sáng
tạo” khi dạy học đọc hiểu truyện ngắn này.
Các công trình, bài viết ở trên đã đưa ra những biện pháp để phát triển tư
duy sáng tạo cho HS trong dạy học môn Ngữ văn nhưng chưa đi vào phát huy
khả năng “đồng sáng tạo” cho HS trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo. Tuy nhiên,
những đề xuất trên sẽ là một gợi ý cho tôi trong việc thực hiện đề tài Phát triển
khả năng “đồng sáng tạo” cho học sinh qua dạy đọc hiểu văn bản Chí Phèo
của nhà văn Nam Cao.
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài
1.2.1. Cơ sở lý luận
1.2.1.1. Một số khái niệm
a) Khái niệm “sáng tạo” và “đồng sáng tạo”
Trong cuộc sống nói chung và trong học tập nói riêng, cá nhân nào muốn
đạt được thành công thì phải sáng tạo. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê
chủ biên (2000) thì sáng tạo có thể hiểu theo hai nét nghĩa là: (1) “Tạo ra những
giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần; (2) là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới,
không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có” [16, tr. 847].
Tác giả Phan Dũng cho rằng: “Sáng tạo là hoạt động tạo ra bất cứ cái gì
có đồng thời tính mới và tính ích lợi” [6, tr. 161].
Như vậy, hầu hết các khái niệm về sáng tạo đều tập trung nhấn mạnh
vào đặc điểm của sản phẩm sáng tạo. Người có trí sáng tạo là người ít đi theo
đường mòn, ít chịu chi phối bởi lối đi của người khác và luôn tìm ra một hướng
đi mới cho riêng mình.
Xuất phát từ khái niệm “sáng tạo”, chúng ta có thể hiểu “đồng sáng tạo”
trong dạy học đọc hiểu văn bản văn học: Trong mối quan hệ với đọc hiểu văn
bản văn học GV phải tìm tòi, suy nghĩ đưa ra những biện pháp, hình thức dạy
6
- học thông qua hệ thống các câu hỏi nhằm kích thích, phát triển khả năng sáng
tạo của HS; trong mối quan hệ với tiếp nhận văn học, người đọc thông qua quá
trình đọc văn bản khám phá những tầng ý nghĩa, tư tưởng mà nhà văn, nhà thơ
gửi gắm trong tác phẩm.
1.2.1.2. “Đồng sáng tạo” trong tiếp nhận văn học
Tiếp nhận văn học là quá trình mà người đọc biến văn bản thành tác
phẩm, dùng kinh nghiệm của mình để làm sống dậy tác phẩm qua lớp ngôn từ
phi vật thể. Người đọc thâm nhập, chiếm lĩnh tác phẩm, lắng nghe, đối thoại,
đồng cảm, chia sẻ những sáng tạo thẩm mĩ, những thông điệp mà tác giả gửi
gắm, từ đó có sự đánh giá giá trị, cái hay, cái đẹp của tác phẩm.
Lí luận dạy học hiện đại cho rằng, tác giả “mã hóa” VB thông qua hệ
thống ngôn từ, hình tượng và người đọc là người “giải mã” nên tác phẩm là sự
“tập hợp các dấu vết mã hóa”. Hay nói cách khác nếu TPVH gồm hai phần:
“phần cứng” là những con chữ nổi lên trên bề mặt thì “phần mềm” là hệ thống
tư tưởng, ý nghĩa được người đọc khám phá trong quá trình tiếp nhận. Do đó,
sáng tạo với tác giả là một quá trình giao tiếp để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp:
nhu cầu được đồng cảm, nhu cầu được khai phóng những trăn trở, suy tư, day
dứt. Tác giả bao giờ cũng mong muốn tác phẩm của mình trở thành cầu nối,
người đọc đồng cảm, thấu hiểu và chia sẻ: “Thơ là những điệu hồn đi tìm
những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu). Tác giả là chủ thể sáng tạo, là người sinh
thành ra tác phẩm, toàn quyền quyết định và chịu toàn bộ trách nhiệm về sự ra
đời của tác phẩm. Tuy nhiên, chủ thể sáng tạo không có quyền gì trong việc
quyết định số phận của tác phẩm. Điều đó thuộc về người đọc. Sau khi tác giả
hoàn tất VBVH tác phẩm có đời sống riêng của nó. Chủ thể sáng tạo lúc này
cũng chỉ là một độc giả đặc biệt. Ý tưởng của tác giả có thể không trùng khít
với giá trị của tác phẩm.
Tác phẩm văn học là một VB ngôn từ. Đặc trưng cơ bản của ngôn từ là
tính hình tượng, mơ hồ, đa nghĩa. Tác giả khi sáng tạo đã nghĩ trước những tư
tưởng, suy nghĩ mà mình muốn gửi gắm bạn đọc. Tuy nhiên như thế có thể vẫn
chưa đủ. Người đọc có khi còn phát hiện ra những điều mà tác giả chưa nghĩ
đến. Người đọc trở thành người “đồng sáng tạo”. Bởi thế, khái niệm “đồng
sáng tạo” thường được các nhà lí luận sử dụng trong tiếp nhận văn học để chỉ
người đọc. “Tính chất “đồng sáng tạo” được hiểu là sự tham gia của người đọc
vào tiến trình đọc để xây dựng ý nghĩa cho tác phẩm” [11, tr. 85]. GS. Trần Đình
Sử trong bài viết Tiếp nhận bình diện mới của Lí luận văn học in trong cuốn lí
luận và phê bình văn học đã khẳng định sức sống của tác phẩm văn học phụ
thuộc vào nhu cầu của người đọc. Chính nhu cầu của người đọc, khả năng phát
hiện, sáng tạo của nó đã làm cho các tác phẩm nghệ thuật có tầm cỡ nghệ thuật
trở nên bất tử. Người đọc là người góp phần tạo nên những diện mạo mới cho
tác phẩm. Nhà văn khi sáng tạo tác phẩm có diện mạo riêng trong ý tưởng nghệ
7
- thuật của mình. Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhận của người đọc, do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan, người đọc có thể “đọc nhầm”, “đọc
khác”, đem lại diện mạo mới cho tác phẩm. Người đọc kéo dài sinh mệnh cho
tác phẩm, để cho tác phẩm văn học “luôn luôn mở”, luôn nằm trong “quá trình”
không bao giờ dừng lại. Chừng nào người đọc không đọc nó nữa, nó chỉ còn trên
văn bản giấy. Không có sự tiếp nhận, sự tham gia của người đọc, tác phẩm sẽ
chết, chấm dứt sinh mệnh: “Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó
mới thực sự bắt đầu” [13, tr. 3]. Khi nhà văn sáng tạo tác phẩm, không thể miêu
tả toàn bộ hiện thực mà chỉ chọn lấy những chi tiết, đường nét tiêu biểu, điển
hình, giàu sức biểu hiện. Sáng tạo của người đọc là tìm lại, bổ sung cho hoàn
chỉnh, phát hiện lại, làm sống dậy thế giới hình tượng có tính biểu diễn để hiểu
nó và đồng cảm với tác giả, đôi khi có sự cắt nghĩa bất ngờ. Sự sáng tạo của tác
giả và độc giả căn bản khác nhau. Nhà văn sáng tạo cái mới còn bạn đọc hỗ trợ
sự sáng tạo ấy cho hoàn chỉnh thế giới nghệ thuật. Đó là hiện tượng đồng sáng
tạo trong tiếp nhận.
Như vậy, người đọc chính là người tạo nên sức sống của tác phẩm.
Trong vòng tròn tác giả tác phẩm người đọc, người đọc giữ vai trò quan trọng
tác phẩm chỉ tồn tại khi và chỉ khi tồn tại người đọc.
c) “Đồng sáng tạo” với vấn đề dạy đọc hiểu văn bản văn học
Đọc hiểu văn bản là một thuật ngữ chỉ tên gọi của một hoạt động trong
phạm vi môn Ngữ văn khi đối tượng chiếm lĩnh của GV và HS là VBVH. Mục
đích của đọc hiểu là hình thành và duy trì những ấn tượng nghệ thuật để HS
tiếp tục đi sâu vào nội dung tư tưởng và hình thức ngôn ngữ tác phẩm. Theo tinh
thần này, đọc hiểu VBVH chính là hoạt động giải mã và giao tiếp với VB để
giải thích và kiến tạo ý nghĩa của VB. Trong lí thuyết tiếp nhận, người đọc là
“đồng sáng tạo” của tác giả thì trong dạy học đọc hiểu VBVH, HS chính là
người “đồng sáng tạo” dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt của GV. Việc xây dựng ổn
định khái niệm người đọc HS là bước đột phá mang ý nghĩa nhận thức về
người dạy và người học. Nếu không hiểu đúng khái niệm “người đọc” trong lí
thuyết tiếp nhận văn học, chúng ta sẽ không thể hiện thực hoá “HS bạn đọc”.
Ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm không hiển hiện trên bề mặt câu chữ, không có
sẵn mà được sinh ra, được kiến tạo nhờ sự tương tác tích cực giữa GV HS, HS
VB thông qua vai trò của GV.
GS. Phan Trọng Luận trong cuốn Phương pháp dạy học văn cũng đã từng
đưa ra quan điểm: “Học sinh là bạn đọc sáng tạo trong quá trình dạy học văn”.
Nhất là trong xu thế đổi mới PPDH hiện nay, đề cao tính chủ thể, sáng tạo của
người học thì quan điểm này càng có ý nghĩa quan trọng. Muốn HS là trung tâm,
chủ thể của hoạt động học thì GV phải đổi mới kĩ thuật và PPDH, sử dụng
những PP và kĩ thuật mới như kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật bể cá và các PP
mới phát huy được hứng thú, say mê, tích cực trong giờ đọc hiểu VB của HS
8
- như PP thảo luận, đóng vai, hình thức tranh luận, phản biện… Đọc hiểu văn
bản đưa người học trở lại vị trí trung tâm của hoạt động đọc hiểu. Không còn
kiểu học thầy giảng trò chép, trò thụ động coppy lại lời thầy không khác gì
một con rôbôt, một cái máy làm việc liên tục không có thời gian để suy nghĩ VB.
Thay vào đó, đọc hiểu văn bản là tạo ra cuộc đối thoại giữa thầy với trò, trò với
VB, trò với trò. HS chủ động tiếp cận VB trở thành “bạn đọc sáng tạo” cùng với
tác giả và GV. Người dạy cũng là bạn đọc và người học cũng là bạn đọc. Như
thế sẽ tạo ra một cuộc đối thoại dân chủ giữa GV và HS cả hai cùng “đồng
sáng tạo” để tìm tòi, khám phá nghĩa đen, nghĩa bóng của VB, chỉ ra giá trị nghệ
thuật của tác phẩm. GV là người tạo ra các hoạt động thông qua hệ thống câu
hỏi. HS phải vận dụng tri thức, vốn hiểu biết của mình về tác phẩm để suy
nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng, từng bước tri giác ngôn ngữ, định hình hình
tượng của tác phẩm và nhận ra tiếng nói của tác giả, xác định chủ đề của tác
phẩm.
Dạy học theo hướng phát huy vai trò chủ thể sáng tạo của HS là cách tốt
nhất để nâng cao chất lượng dạy học, hình thành các năng lực cho người học.
Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Hình thành nên phẩm chất
con người mới năng động, sáng tạo, tự tin…
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.2.1. Thực trạng dạy đọc hiểu truyện trong chương trình Ngữ văn 11 ở
các trường THPT huyện Yên Thành, Nghệ An
Các VB truyện chiếm ưu thế trong dạy đọc hiểu văn bản ở chương trình
THPT nói chung và chương trình Ngữ văn 11 nói riêng. Tuy nhiên qua khảo sát
một số trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành, thực tế dạy đọc hiểu VB
truyện vẫn còn nhiều bất cập. Thông qua phiếu điều tra GV ở một số trường
(THPT Phan Đăng Lưu, THPT Yên Thành II và THPT Bắc Yên Thành) chúng tôi
nhận thấy có những vấn đề sau đáng để suy nghĩ:
Chưa hiểu rõ mục đích, tầm quan trọng của dạy đọc hiểu, chưa xác định
đúng mục tiêu giờ dạy; Dạy nhằm mục đích cung cấp kiến thức để HS vượt
qua các kì thi; chưa rèn kĩ năng đọc hiểu VB tự sự cho HS để các em có thể tự
đọc các VB tự sự tương tự trong CT và ngoài CT; chưa thực sự quan tâm đến
việc các em cảm nhận thế nào qua một tiết học. Vì vậy, giờ dạy học văn diễn
ra nhàm chán, chủ yếu là thầy làm thay trò; chưa phát huy được tính chủ động,
tích cực của HS trong giờ học.
Do áp lực về thời gian (mỗi VB truyện chỉ dạy trong 2 đến 3 tiết) nên
GV chưa tập trung rèn kĩ năng đọc hiểu VB tự sự để HS có thể tự đọc một VB
khác cùng thể loại ngoài CT. Đây lại là điểm mấu chốt, quan trọng trong đọc
hiểu VB hiện nay.
Do áp lực thi cử, một số GV chạy theo thành tích khiến cho một tiết đọc
9
- hiểu VB truyện trở thành một tiết “giảng văn”. Cô say sưa với bài giảng của
mình, thuyết giảng tất cả vốn hiểu biết của mình về tác phẩm cho HS nghe, ghi
chép. HS nghe thì thấy hay nhưng nghe xong thì dễ quên ngay. Văn chương thể
hiện cái tôi rất rõ, bởi thế HS không thể nhớ nguyên xi lời văn của thầy dù các
em có cố gắng bắt chước, học thuộc lòng.
Chưa thay đổi quan niệm về người học và việc đánh giá người học;
chưa thực sự chú ý đến người học nhu cầu, mong muốn, hứng thú của các em;
chưa khuyến khích HS tìm tòi, sáng tạo; sự tương tác giữa GV HS, HS HS
còn hạn chế.
HS học thụ động, học máy móc; không có kĩ năng đọc hiểu VB tự sự,
không thể đọc hiểu những VB tương tự; chưa biết vận dụng những kiến thức
đã học vào thực tế cuộc sống; thiếu sáng tạo và không biết cách tự học; thiếu
động cơ học tập.
Khả năng tiếp nhận TPVH của HS còn hạn chế; chưa hiểu rõ đặc trưng
loại thể tự sự; HS chưa phát hiện và lí giải được những vấn đề đặt ra trong tác
phẩm, chưa thấy được sự thống nhất nội dung và hình thức biểu hiện của VB,
không biết tìm kiếm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà
suy ra cái chưa biết. Kĩ năng nói, viết, trình bày vấn đề còn yếu.
Con số thực tế chúng tôi thống kê được như sau: Về vấn đề cách nhìn
nhận của GV trong dạy học đọc hiểu VBVH và giảng văn có khác nhau không
có 10/50 GV (chiếm 20%) cho rằng chỉ khác về hình thức, 15/50 GV (chiếm
30%) cho biết khác hoàn toàn. Khảo sát về biện pháp giúp HS khám phá thế giới
hình tượng trong truyện, tỉ lệ GV chọn biện pháp giảng cho HS nghe là 23/50
GV (chiếm 46%) trong khi đó biện pháp cho HS nêu ấn tượng sâu sắc nhất về
nhân vật nhằm phát triển khả năng sáng tạo của HS chỉ có 12/50 GV lựa chọn
(chiếm 24%). Có 31/50 GV (chiếm 62%) thừa nhận chỉ có HS khá, giỏi chú ý
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình trong giờ đọc hiểu VB
truyện còn phần lớn HS không chú ý.
Về phía HS, chúng tôi đã khảo sát 400 HS trên cả 3 trường thực nghiệm.
Có 41/400 em (chiếm 10,25%) không hiểu thế nào là đọc hiểu VBVH, có 18/400
em (chiếm 4,5%) chưa bao giờ nghĩ đến khái niệm đọc hiểu VBVH. Thậm chí,
khi được hỏi nhận xét của em về các giờ đọc hiểu VBVH ở trên lớp số HS rất
hứng thú chiếm tỉ lệ ít ỏi 4% (16/400 em), ngược lại tỉ lệ HS không hứng thú là
33% (132/400 em). Có 178/400 em (chiếm 44,5%) muốn GV giảng bài và ghi
chép, 121/400 em (chiếm 30,25%) muốn GV đặt câu hỏi sáng rõ và dẫn dắt cụ
thể, 65/100 em, (chiếm) mong muốn GV cho HS được tự do thể hiện ý kiến,
36/400 em (chiếm 9%) muốn GV tôn trọng quan điểm cá nhân của HS.
Từ thực tế dạy học văn bản tự sự ở trường THPT hiện nay, chúng tôi cho
rằng việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp dạy học VB Chí Phèo là cần thiết góp
phần nâng cao chất lượng dạy học văn trong nhà trường.
10
- 1.2.2.2. Thực trạng việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo” của học sinh
qua dạy đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao ở các trường THPT
huyện Yên Thành, Nghệ An
Thực trạng đọc hiểu truyện trong chương trình Ngữ văn hiện nay đã tác
động không nhỏ đến việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo” của HS. Lâu nay
HS đã rơi vào lối học thụ động, lạm dụng tài liệu quá nhiều thậm chí có nhiều
em máy móc, rập khuôn theo bài văn mẫu, bài mẫu mà GV đọc cho HS ghi. Dần
dần cách học này đã khiến các em hình thành thói quen dựa dẫm, kí gửi việc học
của mình cho thầy cô, cho tài liệu. Vô hình chung đánh mất đi khả năng sáng tạo
trong đọc hiểu văn bản và tạo lập VB.
Hơn nữa, trong những lần học chuyên đề đổi mới PPDH, người GV trực
tiếp đứng lớp không được trực tiếp nghe các chuyên viên báo cáo mà lại tiếp thu
lại nội dung qua những người được cử đi học chuyên đề. Hơn thế nữa, thời
gian chuyên viên báo cáo là hai ngày nhưng về trường GV lại chỉ được tiếp thu
trong vòng một buổi. Chính vì thế hầu như khi đứng lớp GV không quan tâm
lắm đến việc đổi mới PPDH và phát triển các năng lực (bao gồm năng lực
chung và năng lực riêng) cho HS. Đặc biệt phát triển tư duy sáng tạo cho HS
cũng đòi hỏi GV đó phải có tầm, tích cực rèn luyện năng lực sáng tạo của cá
nhân. Về phía HS, trong xu thế thời đại kinh tế thị trường HS không mặn mà
với các môn KHXH trong đó có môn Ngữ văn, rất ít HS đam mê môn Ngữ văn,
chính vì thế việc phát triển khả năng “đồng sáng tạo” cho HS gặp rất nhiều khó
khăn.
Thực tế, một số GV chưa tích cực đổi mới PPDH, vẫn đang chú trọng sử
dụng những PPDH truyền thống như thuyết giảng, vấn đáp. GV hỏi như cái cớ
để thuyết giảng những điều mình nghĩ và ghi những điều mình đã định sẵn
trong giáo án để HS chép vào vở. Trong bài Vận dụng các phương pháp vào dạy
học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông, tác giả Lê Sử viết: “Một thực tế
khá phổ biến trong vận dụng PP gợi mở đó là GV sau khi đặt câu hỏi thường chỉ
gọi một HS đứng dậy trả lời; GV hầu như không nhận xét cụ thể nội dung trả
lời của học sinh mà chỉ dùng những từ như “đúng rồi”, “được”, thậm chí là “em
ngồi xuống”... rồi sau đó GV mải miết trình bày “đáp án” đã chuẩn bị sẵn...
Nghĩa là rốt cuộc thì vẫn thuyết giảng. HS chỉ ngồi chờ GV nói rồi ghi vào vở...
Tóm lại là vẫn dạy học theo lối áp đặt, sự tích cực chủ động của HS không phát
huy được bao nhiêu” [21, tr. 43].
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát vấn đề phát huy khả năng “đồng sáng
tạo” trong đọc hiểu VB Chí Phèo cả phía HS và GV. Phiếu điều tra của chúng
tôi tập trung vào các vấn đề: nhận thức của HS và GV về tầm quan trọng của
việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo” cho HS trong dạy đọc hiểu VB
truyện; những khó khăn của GV trong việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo”
cho HS; các biện pháp mà GV đề ra để phát huy khả năng “đồng sáng tạo” cho
11
- HS trong đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo. Đối với HS chúng tôi đã khảo sát 400
HS trên địa bàn huyện Yên Thành (cả đồng bằng lẫn miền núi), cụ thể là ở các
trường: THPT Phan Đăng Lưu, THPT Bắc Yên Thành, THPT Yên Thành II. Đối
với GV, chúng tôi cũng khảo sát 50 GV đang trực tiếp giảng dạy ở các trường
trên. Kết quả điều tra cho thấy nhiều GV và HS đã có những nhận thức đúng đắn
trong việc phát huy và hình thành khả năng “đồng sáng tạo”. Song vẫn còn một bộ
phận GV và HS lại chưa chú trọng vào việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo”.
Cụ thể: Trả lời câu hỏi khi dạy học đọc hiểu truyện, mức độ quan tâm của các
thầy (cô) đến việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo” của HS, có 7/50 GV (chiếm
14%) rất quan tâm, 13/50 GV (chiếm 26%) ít quan tâm, 9/50 GV (chiếm 18%) quan
tâm, 21/50 GV (chiếm 42%) không quan tâm. Khảo sát mức độ quan trọng của việc
phát triển khả năng “đồng sáng tạo” cho HS trong dạy học đọc hiểu VB truyện, có
7/50 GV (chiếm 14%) cho là rất quan trọng, 12/50 GV (chiếm 24%) đánh giá là
quan trọng, 15/50 GV (chiếm 30%) cho là không quan trọng lắm. Về khả năng sáng
tạo của HS hiện nay, phần lớn GV nhận xét khả năng sáng tạo của HS trong đọc
hiểu văn bản truyện ở mức trung bình khá với 32/50 GV (chiếm 64%)…
Đối với HS chúng tôi cũng đã phát phiếu điều tra lấy ý kiến của các em
để có PP, hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng HS. Phát huy khả năng
sáng tạo cho HS là điều khó trong dạy học đọc hiểu. Khai mở được tư duy, trí
tưởng tượng của HS là cần thiết. Tuy nhiên 97/400 (chiếm tỉ lệ 24,25%) các em
được hỏi đề cho rằng đọc hiểu VB truyện không cần lắm sự sáng tạo, chỉ
23/400 em (chiếm tỉ lệ 5,57%) cho là rất cần. Hiện nay PP đóng vai thường
xuyên được GV sử dụng trong dạy học đọc hiểu VB truyện. Các trích đoạn VB
truyện được chuyển thể sang loại hình kịch, sân khấu hóa. Khi được hỏi: Em có
thích tham gia đóng vai, xem các bạn đóng vai trong giờ đọc hiểu văn bản truyện
không? Đã có 207/400 em (chiếm 51,75%) rất thích, có 97/400 em (chiếm
24,25%) tỏ thái độ thích hình thức dạy học này bởi các em được thể hiện khả
năng của mình, giờ học trở nên lí thú hơn.
Từ thực trạng trên, thiết nghĩ GV phải có hình thức, PPDH để phát triển
các năng lực cho HS, trong đó phát triển khả năng “đồng sáng tạo” cho HS là
phù hợp với yêu cầu đào tạo con người mới trong một xã hội phát triển.
1.2.2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát huy khả năng “đồng
sáng tạo” của học sinh qua dạy đọc hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam
Cao
Những năm gần đây, hơn lúc nào hết vấn đề đổi mới PPDH luôn được
các tổ chuyên môn, các nhà trường được chú trọng. Việc nâng cao chất lượng
dạy học luôn được đưa ra thảo luận trong các buổi sinh hoạt chuyên môn nhất
là qua các tiết dạy thao giảng, các tiết dạy học theo nghiên cứu bài học, dạy học
chủ đề. Hơn nữa, thông qua các tiết thao giảng, tổ chuyên môn còn căn cứ vào
điểm số để đánh giá, xếp loại GV. Những tiết dạy đó được đánh giá không chỉ
12
- thông qua PPDH của GV mà chủ yếu là ở khả năng phát huy tính tích cực, chủ
động của HS, dạy học bám sát đối tượng và lấy HS làm trung tâm. Đó cũng là
một trong những cơ sở để người dạy nỗ lực sáng tạo trong dạy học, phát huy
các năng lực cho HS trong đó có khả năng “đồng sáng tạo”.
Hiện nay, công nghệ thông tin đang ngày càng phát triển tạo điều kiện để
GV có thể áp dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học. Công nghệ thông tin
chính là phương tiện, công cụ hỗ trợ để GV hướng dẫn HS tham gia vào hoạt
động học. Thông qua máy chiếu, chúng tôi thấy GV đã có sự kết hợp một số PP và
kĩ thuật dạy học tích cực dùng sơ đồ, bảng biểu, tranh ảnh, các video (đoạn phim,
đoạn video giới thiệu về tác giả, tác phẩm do HS chuẩn bị) phát triển kĩ năng nghe,
nói là hai kĩ năng rất quan trọng đối với HS. Dưới sự hướng dẫn của GV thông
qua các video, tranh ảnh, sơ đồ, bảng biểu GV đã phát triển được năng lực hợp tác,
làm việc nhóm, năng lực thu thập và xử lí thông tin, năng lực cảm thụ nhân vật văn
học và đặc biệt là khả năng sáng tạo cho HS.
PPDH tích cực cũng được GV vận dụng và phát huy tối đa ưu điểm của
các PP. Đặc biệt như ở trường THPT Phan Đăng Lưu, tôi nhận thấy trong các
tiết thao giảng, các chuyên đề dạy học của tổ, GV đã làm chủ được các PPDH
mới như PP đóng vai, PP thảo luận nhóm, kĩ thuật tranh luận, phản biện và kĩ
thuật khăn trải bàn. Ví dụ như khi dạy bài Chí Phèo đoạn bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người của Chí Phèo, đoạn kết thúc truyện, GV tập trung hoạt động
đọc hiểu văn bản thông qua kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật tranh luận, phản
biện. GV cho HS đưa ra những kết thúc khác của truyện ngắn Chí Phèo và yêu
cầu HS lựa chọn kết thúc hợp lí nhất và lí giải lựa chọn của mình. Sau khi có sự
phản biện, các nhóm thống nhất kết thúc Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát là tất
yếu. Những tiết học như thế, chắc chắn sẽ phát huy được khả năng “đồng sáng
tạo” của HS.
Về phía HS, phần lớn các em đều muốn thể hiện mình trước các bạn và
thầy cô. HS rất hào hứng khi GV yêu cầu vẽ tranh, đóng kịch, chuẩn bị vấn đề để
thuyết trình… Như vậy giữa thầy và trò đã có sự hô ứng, đồng thuận cao. GV có
cơ sở để khuyến khích các em không ngừng tư duy, không ngừng sáng tạo.
Song song với những thuận lợi kể trên, việc phát huy khả năng “đồng
sáng tạo” cho HS qua dạy đọc hiểu VB truyện ở chương trình Ngữ văn 11 cũng
gặp không ít khó khăn. Dạy học tác phẩm truyện đòi hỏi HS phải nắm được cốt
truyện, thâm nhập vào thế giới nhân vật trong tác phẩm để thấy được mối quan
hệ giữa các nhân vật. Ấy vậy mà, phần lớn HS hiện nay nhất là những HS học
tổ hợp KHTN, khâu soạn bài một trong những bước chuẩn bị bài ở nhà đã bị
các em đối phó bằng cách chép sách Để học tốt. Do đó, thậm chí có những em
không thèm đọc VB. Thời gian đọc hiểu một tác phẩm truyện thường chỉ được
phân phối 2 đến 3 tiết, GV lại phải dành thời gian cho HS đọc tác phẩm thì
khoảng thời gian còn lại rất khó để GV tổ chức đọc hiểu văn bản trên tinh
13
- thần phát triển năng lực của HS. Đại đa số GV rơi vào thuyết giảng, khiến HS
rơi vào thế thụ động, không phát huy được khả năng chủ động, tích cực, sáng
tạo của người học.
Ngoài những tiết thao giảng, dạy học chủ đề, nghiên cứu bài học có sự
đóng góp ý kiến của cả tổ chuyên môn thì phần lớn những tiết học đọc hiểu
văn bản hiện nay nhất là đọc hiểu truyện, chủ yếu GV sử dụng câu hỏi phát
vấn, đàm thoại và thuyết giảng. GV ít sử dụng câu hỏi khơi gợi liên tưởng,
tưởng tượng; câu hỏi nêu vấn đề kích thích năng lực sáng tạo của HS. Hơn nữa,
trong một tiết học PP thảo luận nhóm chưa được vận dụng nhuần nhuyễn. PP
đóng vai, kĩ thuật thuyết trình chỉ được thực hiện trong một lượng thời gian rất
ít của tiết học.
Một bộ phận GV chưa nắm chắc cách dạy truyện. Phần lớn GV lực chọn
dạy truyện theo nhân vật, theo bố cục nên khi dạy học theo đặc trưng thi pháp
truyện thì gặp nhiều bỡ ngỡ, lúng túng làm cho giờ dạy đạt hiệu quả không cao.
Tác giả Phan Quốc Thanh trong bài viết Đổi mới dạy học Ngữ văn ở cấp Trung
học phổ thông nhìn từ phía giáo viên cũng thừa nhận một thực tế là: “Trong sinh
hoạt chuyên môn... ở nhà trường phổ thông hiện nay còn nhiều giáo viên chưa
nắm chắc đặc trưng của từng bài dạy, chưa xác định được thể loại và hệ thống
tri thức thể loại tương ứng để chủ động tìm hiểu, phân tích văn bản” [22, tr.
41].
Trên đây là những thuận lợi và khó khăn mà chúng tôi nhận thấy khi dạy
đọc truyện nhằm phát huy khả năng “đồng sáng tạo” cho HS. Thiết nghĩ để
khắc phục được những khó khăn, phát huy được những thuận lợi trên, đòi hỏi
sự vào cuộc đồng bộ của cấp quản lí nhà trường: đầu tư trang bị phương tiện
dạy học, khuyến khích và bắt buộc GV ứng dụng CNTT vào dạy học (2 tiết/
năm học), tham gia vào trường học kết nối (2 chuyên đề/ năm học), dự giờ đột
xuất… để nâng cao chất lượng dạy học, phát triển các năng lực và phẩm chất
cần có của HS.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, chúng tôi chú trọng đến việc giới thuyết nhằm mục
đích làm sáng tỏ một số khái niệm liên quan đến đề tài. Chúng tôi cũng đã tìm
hiểu về cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài, từ đó có thể đề ra các biện
pháp phù hợp để phát huy khả năng “đồng sáng tạo” cho HS trong dạy đọc
truyện Ngữ văn 11. Cơ sở lí luận được dựa trên các văn bản Luật Giáo dục, lí
thuyết về đọc hiểu VB truyện, lí thuyết tiếp nhận văn học... Cơ sở thực tiễn
bám sát vào chương trình SGK Ngữ văn THPT, thực trạng dạy đọc hiểu truyện,
thực trạng việc phát huy khả năng “đồng sáng tạo” của HS qua dạy đọc hiểu
VB Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, những thuận lợi và khó khăn trong việc phát
huy khả năng “đồng sáng tạo” của HS qua dạy đọc hiểu văn bản Chí Phèo ở
chương trình Ngữ văn 11 ở các trường THPT huyện Yên Thành, Nghệ An.
14
- Chương 2
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG “ĐỒNG SÁNG TẠO”
CHO HỌC SINH QUA DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
1. Dựa vào Tiểu dẫn, bối cảnh ra đời tác phẩm, giúp học sinh hình
dung động lực, tâm thế sáng tạo của tác giả
Mỗi bài đọc hiểu văn bản trên lớp thường được chia thành bốn phần
lớn: I. Tiểu dẫn; II. Đọc hiểu văn bản; III. Tổng kết; IV. Củng cố, dặn dò.
Tìm hiểu phần Tiểu dẫn là cơ sở để hướng tới Đọc hiểu văn bản một cách
hiệu quả. Tìm hiểu phần Tiểu dẫn sẽ giúp HS nắm được tri thức về văn học sử
như kiến thức về bối cảnh thời đại, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; cuộc đời và
sự nghiệp sáng tác của tác giả, phong cách nghệ thuật của nhà văn. Mặt khác,
trong SGK phần Tiểu dẫn còn cung cấp cho người học tri thức lí luận văn học,
cụ thể là tri thức thể loại và loại hình của VB.
Trong SGK Ngữ văn hiện hành, nhà biên soạn đã đưa những thông tin về
tác giả, tác phẩm gắn liền với quan niệm văn, sử, triết bất phân là hiện tượng
đặc trưng và phổ biến của văn học Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói
chung. Nhất là nền văn học Việt Nam gắn liền với lịch sử đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của dân tộc. Hơn thế nữa, để HS tìm hiểu, khám phá được cái hay,
cái đẹp, những giá trị đặc sắc của văn bản văn học, phần Tiểu dẫn sẽ mang tính
chất dẫn dắt, gợi mở, định hướng để HS dễ dàng xâm nhập, tìm hiểu tác phẩm.
Điều quan trọng hơn khi tìm hiểu phần Tiểu dẫn, nhà biên soạn SGK
hướng tới giúp HS hình dung động lực, tâm thế sáng tạo của tác giả. GS. Phan
Trọng Luận đã từng phát biểu: “Tất cả những gì nhà văn sáng tác đều có cội
nguồn trực tiếp ở những sự kiện trong cuộc sống riêng tư của anh ta, ở tâm tư
tình cảm của nhà văn đó”. Việc nắm được thông tin về đặc điểm thời đại, hoàn
cảnh sáng tác và thông tin về tác giả đặc biệt là phong cách nghệ thuật như mở
ra một cánh của để người học đi vào tiếp cận và tìm hiểu tác phẩm văn học.
GV đặt câu hỏi: Hướng tiếp cận phần Tiểu dẫn giúp chúng ta Đọc hiểu
văn bản?
Định hướng: Dạy bài Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, phần Tiểu dẫn
trong SGK 12 đã nhắc đến sự thay đổi trong nhan đề của tác phẩm. Truyện
ngắn Chí Phèo lúc đầu có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó Nxb Đời mới đổi tên là
Đôi lứa xứng đôi, đến khi in lại trong tập Luống cày tác giả đặt lại tên là Chí
Phèo. Người biên soạn đã cung cấp thông tin nhan đề của tác phẩm đã giúp cho
người dạy xác định được trọng tâm của tác phẩm chính là hình tượng nhân vật
15
- Chí Phèo.
Phần Tiểu dẫn trong SGK chiếm một dung lượng nhỏ nhưng rất cần
thiết giúp GV định hướng được những nội dung cần tiếp cận trong quá trình
tiếp nhận văn bản.
2. Xây dựng các câu hỏi khơi gợi trí tưởng tượng, giúp học sinh thâm
nhập vào thế giới hình tượng của tác phẩm
Đổi mới dạy học hiện nay ở các trường phổ thông đang đặt ra yêu cầu phát
huy tính chủ thể, chủ động, tích cực của người học. Trước đây, người học thường
học thụ động, một chiều, chủ yếu tập trung lắng nghe, ghi chép cẩn thận những
lời giảng của thầy rồi về ghi nhớ, học thuộc phục vụ cho quá trình kiểm tra, thi
cử. Nhất là trong dạy đọc truyện, do dung lượng của các VB truyện thường dài,
dưới áp lực thời gian GV thường say sưa giảng theo bài giảng đã chuẩn bị sẵn ở
nhà, HS chăm chú lắng nghe và ghi chép. Đổi mới PPDH đồng nghĩa với yêu cầu
xây dựng hệ thống câu hỏi phát huy được các năng lực và phẩm chất của HS. Dạy
học thông qua hệ thống câu hỏi sẽ tạo ra được sợi dây liên kết, mối quan hệ tương
tác chặt chẽ giữa GV HS, giữa HS HS.
Để tạo nên giờ học cởi mở, mang tính đối thoại cần phải thông qua câu
hỏi. Việc đặt câu hỏi đối với HS trong quá trình đọc hiểu VBVH: “Có ý nghĩa
làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói cách khác là mở ra tình huống “có vấn
đề”, xác định tâm thế thực tại và đặt HS vào các yêu cầu của việc nhận thức”
[34, tr. 160]. Hệ thống câu hỏi trong bài đọc hiểu văn bản có thể gồm những
dạng câu hỏi sau: câu hỏi phát hiện; câu hỏi phân tích; câu hỏi so sánh; câu hỏi
tranh luận; câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng… Câu hỏi khơi gợi trí liên tưởng,
tưởng tượng cho HS được xây dựng dựa trên quá trình tiếp nhận tác phẩm
truyện, GV phải giúp HS cảm nhận được giá trị nội dung và nghệ thuật đặt ra
trong tác phẩm, giúp người học nhận thức được tư tưởng, thông điệp mà nhà
văn hướng tới độc giả. Muốn vậy người học phải dùng trí liên tưởng tưởng
tượng để hình dung ra được ý đồ, quan điểm, tư tưởng của nhà văn gửi gắm
thông qua tác phẩm.
Câu hỏi khơi gợi trí tưởng tượng là một bộ phận trong hệ thống các câu
hỏi phát huy khả năng đồng sáng tạo của HS trong quá trình đọc hiểu văn bản.
Câu hỏi khơi gợi trí tưởng tượng là “dạng câu hỏi phải kích thích được HS tạo
nên các hình ảnh của những cái chưa bao giờ thấy “tránh chủ quan và bịa đặt”,
loại câu hỏi này đi vào những bức tranh nghệ thuật bộ phận, sắc sảo, tinh tế, có
tính chất phát hiện sáng tạo” [15, tr. 45]. Dạng câu hỏi có khả năng khơi gợi trí
tưởng tượng của HS là câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng. Theo TS. Nguyễn
Trọng Hoàn, câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng có nhiều hình thức như:
Liên tưởng bối cảnh hiện thực trong tác phẩm với hiện thực đời sống xã
hội.
16
nguon tai.lieu . vn