Xem mẫu

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN ĐỀ TÀI “Phát tình huống sát thực tế đời sống, thực tế chiến đấu trong các bài học GDQP – AN trường THPT” Môn: GDQP - AN Năm học 2020 – 2021 1
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3 ĐỀ TÀI “Phát tình huống sát thực tế đời sống, thực tế chiến đấu trong các bài học GDQP – AN trường THPT” Môn: GDQP - AN Tác giả: Hoàng Văn Tình Số điện thoại: 0367-223-115 Năm học 2020 – 2021 2
  3. MỤC LỤC TT NỘI DUNG Trang PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ. 1 Lý do chọn đề tài 1-2 2 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2-3 3 Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu 3-4 4 Tính mới của đề tài 4 PHẦN II NỘI DUNG. 1 Cơ sở lý luận 5-6 2 Cơ sở thực tiễn 6- 9 3 Giải pháp thực hiện 10 – 28 4 Tính mới, tính khoa học – thực tiễn 29 5 Kết quả đạt được 29 – 31 PHẨN III KẾT LUẬN 1 Thời gian nghiên cứu 32 2 Ý nghĩa của đề tài 32 – 33 3 Kiến nghị, đề xuất 33 – 34 4 Tài liệu tham khảo 35 5 Phụ lục 35-43 3
  4. I . ĐẶT VẤN ĐỀ. 1. Lý do chọn đề tài Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ “thực hiện đồng bộ các giải pháp, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống, lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. Mục tiêu của nền giáo dục nước ta hiện nay là hướng đến đối tượng người học, để cung cấp cho người học kĩ năng, phương pháp, kinh nghiệm học tập hiệu quả nhất. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là trong giáo dục quốc phòng ở các trường THPT, Vấn đề rèn luyện kĩ năng, nhận thức cho học sinh về phương pháp họ tập mang tính chủ động, có tính tích cực dần được chú trọng. Giáo dục quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là một nội dung quan trọng của việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Giáo dục quốc phòng, an ninh cho học sinh THPT thuộc nội dung quan trọng của nền giáo dục quốc dân, có chiến lược quan trọng trong đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong những năm gần đây, công tác giáo dục quốc phòng an ninh cho học sinh, sinh viên, đặc biệt là lực lượng đông đảo học sinh trung học phổ thông dần dần đã đi vào nề nếp và ổn định. Tuy nhiên đây là một môn học vẫn chưa được chú trọng và vẫn còn hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng GDQP- AN còn thấp như đội ngũ giáo viên GDQP- AN còn thiếu, lực lượng chưa được đào tạo dài hạn, chính quy vẫn còn ít, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học quốc phòng an ninh vẫn chưa được đồng bộ, sử dụng kém hiệu quả, hình thức tổ chức, phương pháp dạy học chưa phù hợp. Nâng cao chất lượng GDQP-AN cho học sinh trường THPT cần phải chỉ đạo tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương tới các cơ sở bằng các cách phù hợp với từng lứa tuổi. Đồng bộ hóa các yếu tố cho giáo dục quốc phòng an ninh là nhiệm vụ, yêu cầu cấp thiết hiện nay, không những để thực hiện đầy đủ chương trình đào tạo mà còn để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục quốc phòng an ninh. Yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định tới hiệu quả, chất lượng giáo dục quốc phòng an ninh là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Dạy học tích cực bao gồm bao gồm phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp trực quan, phương pháp giảng dạy bằng tình huống, phương pháp làm mẫu, tái tạo, phương pháp tìm tòi, phương pháp nghiên cứu. Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt động của người dạy và người học, nói cách khác đó là sự thống nhất cách dạy, cách học của giáo viên và học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học GDQP-AN theo hướng tích cực là đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với quá trình nhận thức của người học. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là phủ nhận toàn bộ phương pháp dạy học cũ, thay vì toàn 4
  5. bộ phương pháp dạy học mới mà là kế thừa, phát triển, vận dụng linh hoạt những ưu điểm, kết quả tích cực vốn có của dạy học truyền thống. Muốn dạy học theo hướng tích cực phát huy năng lực của học sinh thì giáo viên cần phải nắm chắc nội dung, cũng như mọi điều kiện đảm bảo cho dạy và học, có nhiều vấn đề, nhiều tình huống được đặt ra. Phương pháp dạy học bằng tình huống phải đảm bảo rằng, giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu, có tay nghề vững vàng, có kinh nghiệm trong giáo dục đào tạo. Mục đích của phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh tránh được tình trạng học tập thụ động, hạn chế được tình trạng ghi chép vội vàng và đắm chìm vào những dòng ghi chép lý thuyết mà không vận dụng vào thực tiễn. Tính tích cực của phương pháp dạy học bằng tình huống là cả người dạy và người học luôn phát huy khả năng vốn có của bản thân để giải quyết vấn đề được đặt ra trong bài học. Phương pháp dạy học bằng tình huống còn giúp cho người học luôn có sự suy nghĩ, tư duy độc lập, sáng tạo, có cả chiều rộng và chiều sâu khi muốn hiểu biết và giải quyết vấn đề nào đó. Trong các phương pháp dạy học tích cực thì phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp có nhiều ưu điểm, lợi thế hơn các phương pháp dạy học khác. Dạy học bằng phương pháp tình huống đòi hỏi người dạy và người học phải có thái độ hoạt động nghiêm túc, có khả năng nhận biết được mâu thuẫn và giải quyết từng vấn đề mà tình huống đặt ra. Phương pháp dạy học bằng tình huống có tác dụng và ý nghĩa rất lớn, không những phát huy được khả năng nhận thức, tư duy sáng tạo, mà còn khuyến khích năng lực tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi học tập của người học. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là phương pháp dạy học tình huống và căn cứ vào các nội dung của chương trình GDQP-AN ở trường THPT lớp 10, 11, 12. Qua thời gian công tác, giảng dạy cũng như trong cuộc sống hằng ngày, tôi nhận thấy rằng, các nội dung của chương trình GDQP – AN ở trường THPT có quá nhiều nội dung mà áp dụng tình huống vào thì các em có thể vận dụng lý thuyết vừa học để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, có thể vận dụng vào thực tế đời sống và các yêu cầu của thực tiễn một cách nhanh chóng và hiệu quả. Chính vì vậy, qua một thời gian áp dụng có hiệu quả phương pháp dạy học tình huống qua các bài học của chương trình GDQP-AN ở trường THPT. Tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm: “Phát tình huống sát thực tế chiến đấu, thực tế đời sống trong các bài học Giáo dục quốc phòng – An ninh trường THPT” với mong muốn gắn liền lý thuyết với thực tiễn. Kích thích sự tìm tòi, chủ động, ham học hỏi và xử lý tốt các tình huống thường gặp của học sinh, giờ dạy được sôi động hơn và đóng góp một gần nhỏ nhoi của mình vào nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của đất nước. 2. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu phương pháp dạy học bằng việc phát tình huống sát thực tế chiến đấu, sát thực tế cuộc sống trong các bài học môn GDQP – AN để xây dựng, 5
  6. tiến hành cách dạy mới, cách học mới học sinh trường THPT. Qua đó giúp cho giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn của mình và tạo ra sản phẩm tốt nhất trong qua trình dạy học cũng như giúp học sinh có thể vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống một cách chủ động hơn. Qua các tình huống sát thực tế chiến đấu các em cũng sẽ phần nào hiểu được sự hy sinh, gian khổ của cha ông trong các cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc và có tâm thế sẵn sàng tham gia vào các tổ chức quân đội, công an khi tổ quốc cần. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học bằng tình huống. Đánh giá thực trạng về công tác giáo dục quốc phòng an ninh và phương pháp dạy học bằng tình huống trong giảng dạy môn quốc phòng an ninh ở trường THPT. Xây dựng các tình huống sát thực tế cuộc sống, sát thực tế chiến đấu để vận dụng vào một số nội dung thực hành môn GDQP – AN ở trường THPT. Thực hiện lý luận phải gắn liền với thực tiễn, phải giúp học sinh thực hiện được các tình huống xảy ra trong thực tế đời sống và hiểu được phần nào đó các tình huống trong thực tế chiến đấu. Giúp các em sẵn sàng, chủ động trước mọi tình huống có thể xảy ra. 4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Tôi chọn 2 lớp 12, 2 lớp 11 và 2 lớp 10, học sinh trường THPT tôi đang công tác. Được chia thành hai nhóm: Nhóm 1 làm đối chứng và nhóm 2 làm thực nghiệm. Nhóm 1: Học tập bình thường theo sự hướng dẫn của sách giáo khoa GDQP – AN 12 và các phương pháp dạy học truyền thống gồm các lớp: 12A10, có 42 học sinh, 11T4 có 43 học sinh,lớp 10D3 có 42 học sinh. Nhóm thứ hai: Tập luyện theo phương pháp thực nghiệm, áp dụng một số trò chơi quân sự vào bài học để tạo hứng thú học tập cho học sinh gồm các lớp: 12A3 có 43 học sinh, 11T5 có 43 học sinh và lớp 10D2 có 42 học sinh. Phạm vi nghiên cứu: Chương trình GDQP – AN của học sinh trung học phổ thông. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận Phân tích, so sánh, hệ thống hóa những cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu 5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. 5.3. Phương pháp quan sát sư phạm. 6
  7. Quan sát, dự giờ trong các buổi học để rút kinh nghiệm, cũng như cách ứng phó của học sinh trong thực tế đời sống. 5.4. Phương pháp phỏng vấn trực tiếp. Tìm hiểu những khó khăn, hạn chế khi học sinh học tập các nội dung của môn học GDQP – AN. 5.5. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, bằng mạng xã hội đối với đề tài. Đưa các nội dung tình huống và cách xử lý tình huống của học sinh lên mạng xã hội để thăm dò ý kiến dư luận. Sử dụng phiếu thăm dò mức độ tiếp thu và nhận thức về việc đưa tình huống vào trong giảng dạy. 5.6. Phương pháp thống kê. Sử dụng một số phép toán thống kê để xử lý kết quả nghiên cứu. 6. Tính mới của đề tài. Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh, trong hoạt động dạy và học này thì học sinh sẽ đóng vai trò chính, là trọng tâm và phát huy được hết năng lực của mình. Thông qua việc phát các tình huống sát với thực tế đời sống, thực tế chiến đấu thì học sinh sẽ tiếp thu một cách chủ động và là người trực tiếp xử lý tình huống với kiến thức vừa học được. Từ đây, lý luận sẽ gắn liền với thực tiễn mà không phải là thầy đọc, trò chép, lắng nghe và hình dung. Đem lại phương pháp dạy học mới, góp phần gắn liền lý thuyết với thực tiễn, học đi đôi với hành, trang bị cho các em các kiến thức cần thiết để xử lý các tình huống trong cuộc sống cũng như có những hiểu biết cơ bản để tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có thể dùng phương pháp phát tình huống sát thực tế đời sống, thực tế chiến đấu trong hoạt động khởi động, hỏi bài cũ, trong các chủ đề bài học, hệ thống lại nội dung cũng như dặn dò tiết học sau cũng như trong hội thao để kiểm tra phản ứng của học sinh khi vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết yêu cầu tình huống đưa ra 7
  8. II. NỘI DUNG. 1. Cơ sở lý luận. Đổi mới phương pháp dạy học là tất yếu, là quy luật phát triển và tồn tại của sự nghiệp giáo dục Việt Nam. Đổi mới phải có sự kế thừa, chọn lọc, không phủ định hết các giá trị truyền thống tốt đẹp của phương pháp dạy học cũ, cách dạy học cũ. Trong các phương pháp dạy học cũ thì chúng ta đều biết, thuyết trình là một phương pháp cơ bản được sử dụng từ hàng nghìn năm nay. Phương pháp thuyết trình có ý nghĩa lớn lao trong hoạt động nhận thức của học sinh trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Dạy học theo phương pháp thuyết trình là phương pháp tốn rất ít thời gian, chỉ cần một thời gian nhất định có thể truyền đạt một khối lượng kiến thức khổng lồ. Sử dụng phương pháp thuyết trình có thể giúp cho người học hiểu được khái niệm tri thức, làm cơ sở cho quá trình nhận thức. Nhưng hạn chế của phương pháp này là người học luôn ở thế bị động, luôn bị điều khiển theo phương thức hoạt động của người dạy. Chúng ta cần phải nhận thức rõ, sử dụng phương pháp gì, cách dạy học nào thì cái đích cuối cùng vẫn là sản phẩm, là hiệu quả đối với người học. Chúng ta không bắt buộc người học phải nắm vững tất cả khối kiến thức ngay tại lớp học mà làm cho người học nhận ra vấn đề cốt lõi, biết được cách tiếp cận dần với tri thức. Trong bài phương pháp dạy học, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, cố vấn ban chấp hành trung ương Đảng đã từng viết “Thời gian gần đây, tôi có đến dự lớp ở một số trường, cốt yếu là để nghe giảng của thầy. Phải nói rằng tôi ngạc nhiên cao độ lúc chỉ nghe thầy nói, trò chép trong gần một tiếng đồng hồ, không nghe thầy giảng, cũng không nghe đối thoại giữa thầy và trò. Tôi được biết ở một số trường khác, phương pháp dạy học cũng tương tự. Tìm hiểu thêm ở một số trường khác tôi rất vui vì học ở đây có sự tiến bộ hơn, hiện đại hơn. Thầy gợi ý để trò suy nghĩ, thầy nếu tình huống có vấn đề để thảo luận, tranh luận, tìm cách xử lý tốt nhất …. Tục ngữ có câu “không thầy đố mày làm nên” nhưng cũng có câu “học một biết mười”. Điều này cho chúng ta thấy được vị trí của người dạy quan trọng như thế nào, nhưng đồng thời cũng cho thấy tầm quan trọng của người học, có thể nói là cực kỳ quan trọng”. Dựa trên câu nói tâm huyết của thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng như cả một quá trình phát triển và đổi mới giáo dục của nước ta. Hiện nay chúng ta đã có rất nhiều cách dạy học mới theo hướng phát huy năng lực học sinh như trực quan, làm mẫu, tái tạo, đàm thoại, nghiên cứu… đặc biệt là phương pháp dạy học bằng tình huống đang được sử dụng rộng rãi trong nền giáo dục quốc dân hiện nay. Phương pháp dạy học bằng tình huống không những đem lại chất lượng, hiệu quả giảng dạy cho người thầy mà còn đem lại chất lượng rất tốt cho người học. Phương pháp dạy học tình huống còn phát huy được óc tư duy, khả năng tư duy, sáng tạo của người học và đặc biệt có tác dụng khuyến khích học sinh phát triển cách tự học, tự 8
  9. nghiên cứu, có khả năng độc lập giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Giảng dạy bằng phương pháp nêu tình huống đòi hỏi người dạy phải giỏi cả về lý thuyết lẫn thực hành, phải công phu sưu tầm những tình huống có thật và cụ thể có liên quan đến môn giảng, phải tâm huyết, dành toàn bộ tâm trí và thời gian cho công tác giáo dục và giảng dạy người học cũng từ đó hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc học, tự học, suy nghĩ, hành động, hiểu được giá trị tiềm ẩn của mình về trí tuệ, tư duy sáng tạo, nhận thức được giá trị của việc học là để giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Đổi mới phương pháp là tất yếu, là quyết định đến sự thành bại của cả nền giáo dục. Nhất là trong môn học GDQP – AN – một môn học có tính đặc thù riêng mà ở đó có rất nhiều nội dung có thể vận dụng vào để giải quyết các vấn đề mà thực tế đặt ra. Ngay trong nội dung GDQP –AN cũng đã chứa đựng rất nhiều tình huống cần phải giải quyết như trong dạy học các nội dung về nền quốc phòng toàn dân- an ninh nhân dân, kỹ thuật cấp cứu chuyển thương, cấp cứu ban đầu các tai nạn thông thường, ma túy, băng vết thương, kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK, ném lựu đạn, chiến thuật từng người vận động trên chiến trường. Chính vì vậy, đem phương pháp giảng dạy tình huống vào các nội dung thực hành môn GDQP – AN thực sự rất quan trọng. Bản thân tôi luôn trăn trở, cố gắng tích lũy chuyên môn cũng như nghiên cứu sâu các nội dung bài học, nghiên cứu các tình huống thực tiễn và cách xử lý tình huống, hướng dẫn hành động để áp dụng vào trong bài học. Từ đó có thể phát triển được năng lực chuyên môn và giúp cho học sinh nhận thức được vấn đề cốt lõi của nội dung bài học và dùng các kiến thức đã học để xử lý tốt các tình huống xảy ra trong thực tiễn, sẵn sàng tham gia vào nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và là lực lượng dự bị động viên hùng hậu khi tổ quốc cần. Chính vì những lý do đó và qua một quá trình nghiên cứu áp dụng, tôi mạnh dạn viết sáng kiến: “Phát tình huống sát thực tế đời sống, thực tế chiến đấu trong các bài học GDQP-AN trường THPT”. Nhằm góp phần đóng góp vào sự đổi mới phương pháp dạy học của môn GDQP-AN, nâng cao nhận thức của các thế hệ học sinh về tầm quan trọng của giáo dục quốc phòng an ninh đối với bản thân mỗi học sinh, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 2. Cơ sở thực tiễn. 2.1. Nhận thức của bản thân. Trong đời sống cũng như trong quá trình giảng dạy môn GDQP-AN ở trường THPT, bản thân tôi thấy rằng trong môn học GDQP – AN có rất nhiều nội dung liên quan đến đời sống hằng ngày, có rất nhiều tình huống mà các em học sinh đã học trong môn GDQP – AN ở chương trình THPT. Thế nhưng, dù lĩnh hội được các khái niệm, các bước giải quyết vấn đề, nhưng đến khi vấn đề đó xảy ra thì các em lại bị động, không thể nói là các em không được học cách giải quyết vấn đề mà phải nói rằng, lý luận quá xa rời thực tiễn dẫn đến nhiều vụ việc đáng tiếc. Tôi lấy ví dụ đã xảy ra như em Nguyễn Văn A, trong quá trình học bị ngất, cán bộ y tế chưa đến kịp. Mặc dù đã được học về cấp cứu ban đầu tai nạn thông thường 9
  10. rồi nhưng các em học sinh gần nhất vẫn bị động trong việc sơ cứu. Hay như một số em đi tắm ở ao hồ, sông suối, có một em Nguyễn Văn B trong quá trình tắm thì bị đuối nước mà các em còn lại chỉ biết chạy đi gọi người, la hét, hoảng loạn… dẫn đến trường hợp em B tử vong. Các bài báo, các thông tin sai lệch trên mạng xã hội của lực lượng phản động, ly khai làm cho học sinh nhận thức lệch lạc. Các trường hợp như điện giật, say nắng, say nóng, bong gân, sai khớp, gãy xương, chấn thương phần mềm, các tư thế vận động, cách cấp cứu chuyển thương…. Mặc dù các em học sinh đều đã được trang bị kiến thức, nhưng như tôi đã nêu ở phần cơ sở lý luận nếu lý luận xa rời thực tiễn, nếu không đặt các em vào trong những tình huống đó, chuẩn bị trước, tập dượt trước khi tình huống đó xảy xa trong mỗi nội dung của bài học thì các em sẽ luôn bị động và xảy ra những hậu quả đáng tiếc ( hằng năm đều có học sinh, sinh viên bị đuối nước, bị say nắng, say nóng, ngất…). Từ đó tôi luôn trăn trở, luôn tìm cách đổi mới phương pháp giảng dạy và tìm cách đưa những tình huống sát thực tế đời sống, thực tế chiến đấu vào trong các nội dung của môn học GDQP-AN để giúp các em có thể vận dụng lý luận sang thực tiễn, chuẩn bị tốt và sẵn sàng phản ứng tích cực lại với mọi tình huống xảy ra. 2.2. Đối với giáo viên 2.2.1. Ưu điểm. Được nhà trường, hội đồng giáo dục quốc phòng các cấp quan tâm, cung cấp vật chất đầy đủ cho quá trình thực hiện công tác GDQP – AN. Được tập huấn về các phương pháp dạy học mới, được kiểm tra, đánh giá, bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao năng lực chuyên môn. Rất nhiều giáo viên nhận thức rõ được tầm quan trọng của môn GDQP – AN và đang từng ngày nghiên cứu, tìm tòi đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với yêu cầu trong tình hình mới. 2.2.2. Nhược điểm So với các môn học khác thì môn GDQP – AN là môn học mới hơn, lực lượng giáo viên GDQP – AN chưa đủ dẫn tới việc phải bổ sung giáo viên bán chuyên trách ( ghép môn ). Việc phải thực hiện hai nhiệm vụ cùng một lúc khiến cho nhiều giáo viên nghiêng về chuyên môn chính của mình hơn là chuyên môn GDQP – AN. Nhiều giáo viên chưa tích cực trong việc đổi mới các phương pháp dạy học, nhất là các nội dung thực hành, dẫn đến đôi lúc lý luận chưa gắn liền với thực tiễn. Một số cán bộ, giáo viên còn có những quan niệm chưa đúng về Công tác GDQP – AN trong tình hình hiện nay, họ cho rằng GDQP – AN chỉ phù hợp với điều kiện thời chiến, không cần thiết trong thời bình nên không chủ động, thiếu tích cực trong chuẩn bị các điều kiện thực hành môn học. Thậm chí một số giáo viên môn khác còn còn mơ hồ đối với môn học GDQP – AN và làm cho học sinh có nhận thức lệch lạc theo và chỉ coi môn này là phụ và xem nhẹ. 10
  11. Một số giáo viên chưa chú trọng về công tác quốc phòng an ninh, chưa nhận thức rõ được việc GDQP – AN góp phần tích cực vào quá trình nâng cao nhận thức về chính trị, tư tưởng, sự giác ngộ cách mạng và rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho học sinh. Kết hợp với môn học GDQP – AN không nằm trong các nội dung thi THPT quốc gia nên xem nhẹ và không chú trọng vào chuyên môn. Nhiều giáo viên chưa hiểu thế nào là tình huống trong dạy học, phương pháp dạy học bằng tình huống, vẫn sử dụng phương pháp độc thoại, thầy đọc, trò chép dẫn đến việc hạn chế nhận thức của học sinh. 2.3. Đối với học sinh. Các em học sinh xem môn học này là môn phụ nên dẫn tới kết quả học tập chưa cao như: không học bài cũ, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp, không tập trung chú ý, chán học, …v.v Nhiều học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn học, số đông học sinh và cả định hướng của phụ huynh là tập trung vào các môn học chính để thi vào các trường đại học nên không chú tâm môn học này. Do nhận thức hạn hẹp về môn GDQP – AN, mà các em thậm chí lơ là, chểnh mảng cả trong những nội dung thực hành có liên quan đến thực tiễn và hay xảy ra trong đời sống ( Đuối nước, say nắng, sai khớp, gãy xương, các vấn đề liên quan đến nền QPTD – ANND, nghĩa vụ quân sự, địa hình, địa vật …). Khảo sát mức độ hứng thú của học sinh khi học giáo dục quốc phòng – an ninh Không thích Thích Lớp Sĩ số Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) 12A10 42 16 38,1 26 61,9 12A3 43 12 28 31 62 11T5 43 15 35 28 65 10D2 42 13 31 29 69 11T4 43 18 42 25 58 10D3 42 14 34 28 66 11
  12. Hình ảnh khảo sát hứng thú của học sinh với môn học GDQP - AN 12
  13. 3. Giải pháp thực hiện. 3.1. Xây dựng tình huống, xử lý tình huống sát thực tế đời sống, thực tế chiến đấu. 3.1.1. Xây dựng tình huống. Tùy vào nội dung lý thuyết cũng như thực hành của từng bài học môn GDQP – AN ở trường THPT mà giáo viên áp dụng tình huống vào cho phù hợp. Có thể sử dụng tình huống vào hoạt động khởi động, hỏi bài cũ, trong từng nội dung của bài học và kiểm tra, hệ thống lại kiến thức cuối giờ. Mỗi giáo viên cần phải tìm tòi, nghiên cứu và dựa vào yêu cầu kiến thức của bài học, kinh nghiệm của mình trong thực tế đời sống để đem ra các tình huống cho phù hợp với nội dung của từng bài học cũng như cách xử lý tình huống tốt nhất cho học sinh. Bản thân mỗi học sinh cũng cần phải tìm hiểu trước nội dung của bài, nghiên cứu chủ đề của bài học để đưa ra các tình huống trong phần thảo luận, thắc mắc để làm rõ nội dung tình huống có vấn đề đó. Trong mỗi bài học, giáo viên và một số em học sinh có thể hiệp đồng với nhau trong việc tạo tình huống để làm bài học sinh động hơn. ( Ví dụ: Khi chuẩn bị kết thúc tiết cuối cùng của bài 5 lớp 10, giáo viên hiệp đồng với 1 em học sinh, em đó sẽ giả vờ bị ngất để xem phản ứng của các bạn còn lại, lớp sẽ bị động do chưa được học cách cấp cứu ban đầu, qua đó sẽ về nhà để chuẩn bị kĩ nội dung cũng như nhận thức được tầm quan trọng của bài 6, cấp cứu ban đầu các tai nạn thông thường, băng vết thương ). Các cách phát tình huống: + Giáo viên trực tiếp phát tình huống để học sinh giải quyết. + Học sinh chuẩn bị tình huống để phát tình huống cho các bạn còn lại giải quyết, hoặc nhóm khác giải quyết. 3.1.2. Xử lý tình huống. Muốn xử lý tình huống cần phải qua 3 bước: Bước 1. dựa vào kiến thức đã được học để nghiên cứu tình huống, phân tích để thấy được bản chất của vấn đề, sự việc đang xảy ra. Bước 2. Bàn cách xử trí, đề ra những chủ trương, biện pháp, phương pháp cụ thể để xử lý và giải quyết tình huống. Bước 3. Hành động, xử lý tình huống. Học sinh thực hiện đóng vai với cương vị là các nhân vật tại thời điểm đó của tình huống để giải quyết yêu cầu mà tình huống đặt ra. Sau đó giáo viên và các em học sinh còn lại sẽ nhận xét và kết luận cách giải quyết tình huống và bổ sung nếu cách giải quyết của học sinh còn thiếu sót. 13
  14. 3.2. Một số nội dung áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống. Chương trình giáo dục quốc phòng an ninh ở trường THPT có rất nhiều nội dung sát với thực tế đời sống, thực tế chiến đấu. Nhưng trong khuôn khổ của đề tài cho phép, tôi xin đưa ra một số ví dụ mà đề tài áp dụng. 3.2.1. Bài 5, lớp 10 “Thường thức, phòng tránh một số loại bom đạn, thiên tai thông thường”. a. Tình huống 1: Thời điểm phát tình huống: Sau khi học xong nội dung một số biện pháp phòng tránh bom đạn thông thường( mục 2, I) Mục đích: Giúp các em học sinh hiểu rõ tác hại của bom đạn, biết cách phòng tránh bom đạn và trách nhiệm của mình đối với tổ quốc nếu chiến tranh xảy ra. Giáo viên nêu tình huống: Thời gian lúc này là 16 giờ ngày N, Theo thông tin của ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, một tốp máy bay ném bom của đế quốc X đang có ý đồ đổ bộ và ném bom trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Dự kiến vào khoảng 20 giờ cùng ngày thì chúng sẽ tới và tiến hành ném bom. Hết tình huống, trên cương vị là một người dân trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, em sẽ phản ứng lại với tình huống này như thế nào ? Học sinh xử lý tình huống: Trên cương vị là một người dân ở trên địa bàn, em sẽ chuẩn bị kĩ về tư tưởng, tâm lý, tinh thần, thông báo cho mọi người về sự việc sắp xảy xa, lắng nghe chỉ đạo của chính quyền các cấp, làm hầm hố phòng tránh hoặc lợi dụng địa hình địa vật để phòng tránh, xây dựng các vật cản, các đồ vật như lá cây, cành cây… để ngụy trang. Nhanh chóng sơ tán đến những nơi mà chính quyền cơ sở thông báo, hỗ trợ các lực lượng vũ trang trong quá trình đánh trả và chuẩn bị cho việc khắc phục hậu quả sau trận chiến. Giáo viên và các em học sinh còn lại lắng nghe, nhận xét và bổ sung cách xử lý của học sinh nếu còn thiếu sót. Hình ảnh học sinh tích cực tham gia xử lý tình huống 14
  15. b. Tình huống 2: Thời điểm phát tình huống: Sau khi học xong nội dung một số biện pháp phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. ( Mục 3.II ) Mục đích: Giúp các em học sinh hiểu rõ tác hại của thiên tai, chuẩn bị tốt các biện pháp phòng tránh thiên tai để đề phòng thiên tai có thể xảy ra cũng như trách nhiệm của mình đối với xã hội khi thiên tai xảy ra Giáo viên nêu tình huống: Theo thông tin từ đài dự báo khí tượng thủy văn và thông báo từ chính quyền xã Nam Kim, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Vào khoảng thời gian từ 15 giờ 30 phút ngày N đến 18 giờ 30 phút ngày N thì cơn bão số 12 với sức gió giật cấp 11 sẽ đổ bộ và xã Nam Kim là nơi mà tâm bão đi qua. Hết tình huống, trên cương vị là một người dân ở xã Nam Kim, em sẽ phản ứng lại tình huống này như thế nào? Học sinh xử lý tình huống: Trên cương vị là một người dân ở xã Nam Kim, em sẽ tuân thủ các chỉ đạo của ban phòng chống lụt bão đề ra. Sau đó, thông báo cho những người xung quanh để họ rõ hơn về tác hại, sự nguy hiểm của cơn bão, cùng với các cơ quan, tổ dân phố thực hiện các biện pháp như gia cố lại nhà cửa, làm bao cát để lên mái tôn, sửa lại mái ngói, chặt các cành cây, các cây cối có khả năng bị đổ, gia cố lại đường dây điện, cột điện, chuẩn bị lương thực, thực phẩm ( Phòng trường hợp mưa lũ, làng xã bị cô lập nhiều ngày, giúp đỡ những người xung quanh để cùng chống bão…. Chuẩn bị kĩ lực lượng cứu hộ cứu nạn, sẵn sàng khắc phụ hậu quả cũng như giúp đỡ mọi người xung quanh khắc phục hậu quả của bão gây ra để trở lại với cuộc sống thường ngày. Giáo viên và các em học sinh còn lại nhận xét cách xử lý, bổ sung nếu cách xử lý còn thiếu sót. Hình ảnh học sinh tham gia đóng vai, xử lý tình huống 15
  16. 3.2.2. Bài 6. Cấp cứu ban đầu các tai nạn thông thường và băng bó vết thương. a. Tình huống 1: Thời điểm phát tình huống: Sau khi học xong nội dung “Ngất” mục 3, I Mục đích: Giúp các em hệ thống lại kiến thức đã học, hiểu rõ cách cấp cứu ban đầu và sẵn sàng đối phó lại tình huống có người xung quanh bị ngất, từ đó rèn luyện thể chất thường xuyên, chế độ làm việc, nghỉ ngơi đều đặn để cơ thể thích ứng dần với mọi điều kiện của môi trường. Giáo viên nêu tình huống: Vào 09 giờ 45 phút ngày N, lớp 10X trường THPT Tân Kỳ đang học thể dục tại sân thể dục của trường, lúc này thời tiết rất oi bức. Sau khi thực hiện xong nội dung chạy bền thì lớp chia thành các tốp nhỏ và lợi dụng các bóng râm của cây trong sân thể dục để nghỉ ngơi. Bỗng dưng, em Nguyễn Văn A bị ngất, “ ngừng thở, tim ngừng đập”, người gần nhất cạnh em Nguyễn Văn A là em Vũ Đức B. Hết tình huống. Trên cương vị là bạn Vũ Đức B, trong tình huống này, em sẽ xử lý như thế nào?. Học sinh xử lí tình huống: Trên cương vị là Em Vũ Đức B, là người gần nhất bạn A. Em sẽ trực tiếp cấp cứu ban đầu cho bạn Nguyễn Văn A theo các bước, giải tán đám đông, kiểm tra tình trạng của nạn nhân, gọi một số bạn xung quanh đến hỗ trợ, nới lỏng quần áo của nạn nhân cho máu dễ lưu thông, cho đầu hơi ngửa ra sau, lau chùi đờm, dãi của nạn nhân ( Nếu có) sau đó thực hiện thổi ngạt và ép tim ngoài lồng ngực, phối hợp cùng một bạn khác, thổi ngạt 1 lần, ép tim 5 lần, làm khẩn trương, liên tục, kiên trì, khi nào bạn A tự thở được và tim đập lại mới dừng. Khi bạn A tỉnh thì chuyển đến cơ sở y tế gần nhất để theo dõi. Học sinh dựa vào tình huống giả định, đóng vai và thực hiện động tác theo yêu cầu tình huống. Giáo viên và các học sinh còn lại quan sát, nhận xét và bổ sung nếu cách xử lý còn thiếu sót. Hình ảnh học sinh đóng vai, thực hiện cấp cứu người bị ngất 16
  17. b. Tình huống 2: Thời điểm phát tình huống: Sau khi học xong nội dung cấp cứu ban đầu các tai nạn thông thường, giáo viên phát tình huống bất kì một nội dung nào đó để kiểm tra lại kiến thức cũng như khả năng sẵn sàng đối phó với tình huống xảy ra của học sinh. Mục đích: Kiểm tra lại mức độ nhận thức kiến thức của học sinh cũng như khả năng phản ứng lại với mọi tình huống liên quan đến các tai nạn thông thường đã học. Giáo viên nêu tình huống: Chiều ngày N năm 20XX, sau khi tan học thì một số em học sinh nữ của lớp 10E9 có rủ nhau đi bơi tại đập Bàu Đá xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Mực nước ở con đập này rất sâu và có diện tích rộng. Tuy rằng tất cả đều ý thức được chỉ tắm cho mát và bơi gần bờ từ 3m trở lại, nhưng do khởi động chưa kỹ nên em Dương Thị K và em Nguyễn Kim C bị chuột rút đang ở cách khu vực nước nông 1.5m, lúc này em K vẫn đang ngụp lặn kêu cứu còn em C đã có dấu hiệu đuối nước. Các em học sinh còn lại bơi kém, thậm chí không biết bơi, thời gian vàng để cứu 2 em học sinh trên là không quá 5 phút. Hết tình huống, trên cương vị là người bạn cùng đi chơi với em K và em C thì em sẽ xử lý tình huống này như thế nào. Học sinh xử lý tình huống: Đối với tình huống này, nếu em là một người bạn cùng đi tắm với C và K, nhận định rõ tình hình của hai bạn, em sẽ chia các bạn còn lại thành 2 tốp, một tốp nhanh chóng kết quần áo lại thành sợi giây, tiếp cận gần và ném cho bạn K, kéo bạn K vào bờ rồi ủ ấm, động viên bạn K. Tốp còn lại do bạn C đã đuối hết sức nên đã cơ động, tiếp cận, túm tóc hoặc xốc nách kéo bạn C vào bờ, sau đó nghiêng bạn C sang một bên để ép nước ra ngoài. Trường hợp bạn C vẫn còn tự thở được thì cởi bớt quần áo ướt của bạn C để ủ ấm và động viên bạn, nếu bạn C có dấu hiệu ngất thì lau chùi đờm dãi cho bạn C và thực hiện hô hấp nhân tạo cho bạn C bằng cách một người ấn tim ngoài lồng ngực, một người hà hơi thổi ngạt cho đến khi bạn C tỉnh lại. Sau khi bạn C tỉnh lại thì đưa bạn C đến cơ sở y tế gần nhất để kiểm tra lại sức khỏe. Học sinh dựa vào tình huống giả định để đóng vai để sơ cứu cho bạn. Giáo viên và các học sinh còn lại quan sát, nhận xét, bổ sung nếu cách xử lý của học sinh còn thiếu sót. 17
  18. Hình ảnh học sinh đóng vai, cứu nạn, cấp cứu ban đầu người bị đuối nước 18
  19. c. Tình huống 3. Thời điểm phát tình huống: Sau khi học xong nội dung băng số 8 Mục đích: Giúp học sinh có phản ứng tốt trong trường hợp đối mặt với người bị thương và có vết thương phức tạp. Hiểu rõ tầm quan trọng của y tế học đường, chuẩn bị tốt các vật tư y tế cần thiết trong tủ thuốc y tế của lớp để đề phòng các tình huống chấn thương không mong muốn. Giáo viên nêu tình huống: Trong giờ ra chơi, các em học sinh trong lớp 10A7 do vui đùa quá mức, em học sinh Nguyễn Văn A bị ngã, có va chạm vào vật nhọn và bị chảy máu ở mu bàn chân. Trong lớp lúc này, tủ thuốc của lớp đang có đủ bông, băng cuộn, oxy già…. Hết tình huống, trên cương vị là người gần bạn A nhất, em sẽ xử lý như thế nào ? Học sinh xử lý tình huống: Trên cương vị là người gần bạn A nhất thì em sẽ nhanh chóng lấy oxy già để làm sạch vết thương, lấy gạc, băng cuộn và băng bó vết thương theo kiểu băng số 8 cho bạn A. Sau đó chuyển bạn A đến cơ sở y tế gần nhất để thăm khám. Học sinh dựa vào tình huống giả định để đóng vai, thực hiện động tác theo yêu cầu của tình huống. Giáo viên quan sát cách xử lý của học sinh, nhận xét, bổ sung ý kiến nếu cách xử lý còn thiếu sót. Hình ảnh học sinh đóng vai, xử lý vấn đề theo yêu cầu của tình huống 19
  20. 3.2.3. Bài 7. SGK lớp 10. Tác hại của ma túy và trách nhiệm của học sinh trong phòng chống ma túy. a.Tình huống 1: Thời điểm phát tình huống: Sau khi kết thúc chủ đề, trách nhiệm của học sinh trong phòng, chống ma túy. Mục đích: Giúp học sinh thấy rõ được trách nhiệm của mình đối với những người xung quanh, với xã hội đối, với tệ nạn ma túy đang hoành hành. Giáo viên nếu tình huống: Em Nguyễn Văn K, học sinh lớp 10E trường THPT X là một em học sinh nghiện game và có chơi lô đề, gần đây một số em học sinh phát hiện ra em K có biểu hiện nghiện ma túy. Em Lê Anh M, là học sinh ngoan ngoãn và là người tiếp xúc nhiều nhất với em K, một hôm M phát hiện thấy K hút ma túy trong nhà vệ sinh của trường. Hết tình huống, trên cương vị là M thì em sẽ xử lý tình huống này như thế nào. Học sinh xử lý tình huống: Đối với tình nội dung tình huống này, em sẽ tâm sự với K để xem K mới hút lần đầu hay là nhiều lần rôi. Nếu K mới hút lần đầu thi trên cương vị là bạn thân em sẽ khuyên răn bạn K về tác hại của ma túy để bạn không lún sâu vào cái chết trắng nữa. Trường hợp K đã hút nhiều lần và nghiện thì em sẽ báo cáo lại sự việc với gia đình bạn K và nhà trường để có biện pháp đưa em K đi cai nghiện, sau đó vận động bạn bè động viên, giúp đỡ K để K có thể sớm cai nghiện, tránh xa khỏi ma túy, trở về với cuộc sống thường ngày và hòa nhập với cộng đồng. Học sinh dựa vào tình huống giả định để đóng vai, thể hiện phản ứng của mình theo yêu cầu của tình huống. Giáo viên và các học sinh còn lại quan sát, nhận xét cách xử lý của học sinh và bổ sung nếu còn thiếu sót. Hình ảnh học sinh đóng vai,xử lý vấn đề theo yêu cầu của tình huống 20
nguon tai.lieu . vn