Xem mẫu

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 3 - NGUYỄN XUÂN ÔN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LĨNH VỰC: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Đề tài: PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA TRƯỜNG HỌC HẠNH PHÚC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY Người thực hiện: 1. PHAN TRỌNG ĐÔNG Chức vụ: Hiệu trưởng Đơn vị: trường THPT Diễn Châu 3 - Nghệ An Điện thoại: 0915249666 Email: dongpt@nghean.edu.vn 2. NGUYỄN THỊ HÀ Chức vụ: Hiệu trưởng Đơn vị: trường THPT Nguyễn Xuân Ôn - Nghệ An Điện thoại: 0912884908 Email: Diễn Châu, tháng 03 năm 2021
  2. Mục lục Trang Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ .....................................................................................................1 1.1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................1 1.2. Mục tiêu, tính mới của đề tài ................................................................................1 1.2.1. Mục tiêu ................................................................................................................1 1.2.2. Tính mới ...............................................................................................................2 1.3. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................2 1.4. Phạm vi nghiên cứu đề tài ....................................................................................2 Phần II. NỘI DUNG ........................................................................................................3 2.1. Trường học hạnh phúc và thực trạng môi trường sư phạm trong các nhà trường hiện nay ................................................................................................................3 2.1.1. Trường học hạnh phúc ..........................................................................................3 2.1.1.1. Khái niệm về hạnh phúc ....................................................................................3 2.1.1.2. Trường học hạnh phúc ........................................................................................4 2.1.2. Thực trạng môi trường sư phạm trong các nhà trường hiện nay ở bậc THPT .....5 2.1.2.1. Thực trạng môi trường sư phạm trong các nhà trường hiện nay ........................5 2.1.2.2. Trường học hạnh phúc yêu cầu của thực tiễn .....................................................6 2.2. Phát huy các giá trị của trường học hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay..............7 2.2.1. Các giá trị của trường học hạnh phúc ...................................................................7 2.2.1.1. Nhóm giá trị về môi trường nhà trường và phát triển cá nhân gồm các tiêu chí8 2.2.1.2. Nhóm giá trị về dạy và học gồm các tiêu chí .....................................................8 2.2.1.3. Nhóm giá trị về các mối quan hệ trong và ngoài nhà trường gồm các tiêu chí .9 2.2.2. Một số biện pháp phát huy các giá trị của trường học hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay ................................................................................................................9 2.2.2.1. Đổi mới công tác quản lý nhằm phát huy các giá trị cao đẹp của mô hình trường học hạnh phúc phù hợp với sự phát triển của xã hội. ...........................................9 2.2.2.2. Nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên vì một trường học hạnh phúc .........12 2.2.2.3. Ban hành quy tắc ứng xử vì một trường học hạnh phúc ..................................14 2.2.2.4. Tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của các thành viên trong và ngoài nhà trường về tạo dựng môi trường học tập hạnh phúc cho học sinh .......................16 2.2.2.5. Phối hợp giữa nhà trường với chính quyền, gia đình và xã hội .......................18 2.2.2.6. Giáo dục kỷ luật tích cực vì một trường học hạnh phúc ..................................20 2.2.2.7. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và huy động hợp lý các nguồn lực nhằm tạo môi trường học tập an toàn, hiện đại ............................................23 2.2.3. Kết quả thực hiện đề tài ......................................................................................26 2.2.3.1. Kết quả khảo sát ...............................................................................................26 2.2.3.2. Một số kết quả thực hiện trường học hạnh phúc ..............................................28 Phần III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ..............................................................................34 3.1. Kết luận ..............................................................................................................34 3.2. Kiến nghị ............................................................................................................35 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................36
  3. Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn đề tài Tiêu đề Độc lập -Tự do- Hạnh phúc dưới Quốc hiệu được dùng ngay sau ngày thành lập nước đã nói lên một khát vọng lớn lao của chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là của dân tộc ta. Khát vọng đó không chỉ phản ánh trách nhiệm của bộ máy chính trị, trách nhiệm của những người làm quản lí nhà nước mà nó còn là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam chúng ta trên hành trình đi tìm giá trị thực của cuộc sống. Việc xây dựng mô hình trường học hạnh phúc (THHP) là một đột phá của Bộ Giáo dục và Đào tạo, thể hiện được sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và khát vọng của cả dân tộc. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia (Thân Nhân Trung), Giáo dục là quốc sách hàng đầu (Nghị Quyết Trung ương Đảng lần thứ 3 khóa VII năm 1993), những nhận định trên đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục với sự phát triển của đất nước. Với những trọng trách mà nhà nước và xã hội giao phó, giáo dục cho học sinh cảm nhận được hạnh phúc và tạo ra giá trị hạnh phúc là trách nhiệm của nhà trường. Các em có được hạnh phúc thì mới tạo ra đất nước hạnh phúc và xã hội hạnh phúc. Khoa học đã chứng minh rằng: “Việc đưa mô hình trường học hạnh phúc vào nhà trường dưới dạng lồng ghép vào các mô hình dạy học đổi mới khác thì thành tích học tập của học sinh được tăng lên 10 - 12%. Hạnh phúc như một loại kỹ năng mềm và được hình thành theo quy trình vòng tròn khép kín, như sau: Môi trường học đường -Học sinh tỏ thái độ - Bắt đầu động não - Nhận thấy hạnh phúc (tích cực hay tiêu cực) - Đưa ra hành động phù hợp - Có thành tích học tập - Môi trường học đường" Xuất phát từ mục đích của trường học hạnh phúc là thúc đẩy sự phát triển toàn diện và đem lại hạnh phúc cho người học. Trường học hạnh phúc là ngôi trường mà ở đó học sinh được phát triển toàn diện, trở thành chính mình và các em được che chở bởi môi trường học tập an toàn, thân thiện và đầy tình thương. Trong những năm qua, công tác giáo dục và đào tạo của các trường phổ thông ở Tỉnh Nghệ An nói chung, Huyện Diễn Châu nói riêng, đã có nhiều chuyển biến tích cực. Chất lượng giáo dục các môn văn hóa được nâng cao, việc giáo dục đạo đức học sinh được chú trọng. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sư phạm trong nhà trường thậm chí đang hàng ngày, hàng giờ trực tiếp tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Thực tế hiện nay, các giá trị của trường học hạnh phúc chưa cụ thể hóa bởi văn bản hiện hành, nên các nhà trường đang thật sự lúng túng trong việc triển khai thực hiện nhằm hướng tới một nền giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và hạnh phục. Chính vì thế, vấn đề xây dựng và phát huy các giá trị của trường học hạnh phúc là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt chủ trương của ngành, cũng như mục tiêu nhiệm vụ mà nhà trường hướng tới vì hạnh phúc của học sinh. Từ nghiên cứu và thực tiễn công tác quản lý, nhóm tác giả đã xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm “phát huy các giá trị của trường học hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay”. 1.2. Mục tiêu, tính mới của đề tài 1.2.1. Mục tiêu 1
  4. Xác định những giá trị căn bản đối với trường học hạnh phúc. Trên cơ sở các giá trị được xác định, đề tài hướng đến các biện pháp nhằm phát huy các giá trị của mô hình trường học hạnh phúc. 1.2.2. Tính mới “Phát huy các giá trị của trường học hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay” là một đề tài được nghiên cứu lần đầu ở các trường THPT trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Những biện pháp do tác giả đề xuất có giá trị thực tiễn làm cơ sở khoa học cho công tác quản lý, phát triển môi trường giáo dục đảm bảo văn hóa, văn minh, an toàn vì hạnh phúc của người học ở các trường trung học phổ thông. 1.3. Phương pháp nghiên cứu 1.3.1. Phương pháp tổng hợp lý luận Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan đến trường học hạnh phúc. 1.3.2. Phương pháp hồi cứu tư liệu Hồi cứu các văn bản chỉ đạo của Đảng và Pháp luật của Nhà nước, các hướng dẫn và các báo cáo của ngành, báo tạp chí, sách, … liên quan đến đề tài. 1.3.3. Phương pháp quan sát Sử dụng phương pháp này nhằm ghi chép lại về không gian, điều kiện giáo dục và đào tạo trong các trường; Quan sát thái độ, hành vi, tác phong, ứng xử giữa các đối tượng được nghiên cứu. 1.3.4. Phương pháp so sánh và phân tích thống kê Các dữ liệu thu thập được từ khảo sát và hồi cứu tư liệu sẽ được phân loại, sắp xếp, xử lý phục vụ cho phân tích và đưa ra các nhận định, đánh giá về xây dựng trường học hạnh phúc. 1.4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu công tác quản lý trường học hạnh phúc của chủ thể quản lý là Hiệu trưởng trường THPT. Đề tài được triển khai thực hiện tại một số trường trung học phổ thông thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. 2
  5. Phần II. NỘI DUNG 2.1. Trường học hạnh phúc và thực trạng môi trường sư phạm trong các nhà trường hiện nay 2.1.1. Trường học hạnh phúc 2.1.1.1.Khái niệm về hạnh phúc Tổ chức thế giới Liên hiệp quốc (UN) khẳng định: Hạnh phúc là một trong những quyền cơ bản của con người và lấy ngày 20/3 hàng năm làm ngày Quốc tế hạnh phúc nhằm tôn vinh, phát triển và nâng cao hạnh phúc trên toàn cầu. Trong hội nghị LHQ 28/7/2012, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon cho rằng: “Chúng ta cần một mô hình mới cho nền kinh tế, trong đó tôn trọng sự bình đẳng trong ba trụ cột của phát triển bền vững: phúc lợi về các vấn đề xã hội, kinh tế và môi trường là không thể tách rời. Chúng cùng nhau xác định tổng hạnh phúc toàn cầu”. Ngày 26/12/2013, Thủ tướng chính phủ nước ta đã ban hành Quyết định số 2589/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hàng năm”. Từ năm 2014, Việt Nam chính thức tham gia các hoạt động của Ngày Quốc tế Hạnh phúc. Mở đầu bài Thơ mừng năm 1961 được làm ngày đầu năm mới (1/1/1961), Bác Hồ viết: Mừng năm mới, mừng xuân mới Mừng Việt Nam, mừng thế giới Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh… Những câu thơ mang âm hưởng phơi phới những niềm vui, phấn khởi, tin tưởng, giàu hứa hẹn cho thấy quan niệm của Bác về hạnh phúc: hạnh phúc là đồng nghĩa với những gì tốt đẹp, mới mẻ, đầy tràn hi vọng. Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh không của cá nhân nào mà của tất cả mọi người, không của riêng Việt Nam mà còn của cả thế giới. Dễ thấy nhất là những văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ hành chính của Việt Nam đều phải có tiêu ngữ: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Điều này cho thấy Hạnh phúc là khát vọng, là mục đích hướng đến, là động lực hàng ngày của cả dân tộc Việt Nam. Trong tiếng Việt, về mặt nguồn gốc chiết tự, “hạnh phúc” là một từ vay mượn tiếng Hán với hai thành tố có giá trị đẳng lập: “hạnh” có nghĩa gốc là “may mắn”, còn “phúc” có nghĩa gốc là “tốt lành”. Trong tiếng Anh, “hạnh phúc” được xem là tương đương với từ “happiness”, vốn xuất phát từ căn tố happy có nghĩa là vui sướng, vui lòng. Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học) thì định nghĩa về hạnh phúc: “trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện”. Người ta có thể nói về hạnh phúc của cá nhân, một tổ chức như gia đình, nhà trường, một cơ quan đoàn thể và cũng có thể nói về hạnh phúc của cả một dân tộc. Như vậy, ta thấy có một điểm chung quan trọng trong quan niệm về hạnh phúc của nhiều quốc gia, đó là hạnh phúc nhất thiết phải gắn với niềm vui. 3
  6. Theo tác giả, Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở loài người, nó mang nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc gắn liền với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống. Suy cho cùng, chính tình yêu mới là điều quan trọng nhất để con người mang lại những cảm giác và hạnh phúc cho nhau. 2.1.1.2.Trường học hạnh phúc Khái niệm trường học hạnh phúc bắt nguồn từ nhiệm vụ của UNESCO là thúc đẩy hòa bình thông qua giáo dục, và đặc biệt từ hai trong bốn trụ cột của việc học: Học cách sống cùng nhau và học cách trưởng thành. Mặc dù học cách sống cùng nhau bao gồm các phẩm chất chủ yếu dựa trên các mối quan hệ, bao gồm sự đồng cảm, khoan dung, tôn trọng sự đa dạng, giao tiếp và tinh thần đồng đội (UNESCO, 2014); Học tập để trưởng thành những phẩm chất xuất phát từ bên trong con người, như sáng tạo, tư duy phê phán, tự thúc đẩy, kiên trì và lạc quan (Faure et. al., 1972). UNESCO đã đưa ra 10 tiêu chí xây dựng Trường học hạnh phúc: 1. Tình bạn và các mối quan hệ trong cộng đồng trường học. 2. Thái độ và phẩm chất tích cực của giáo viên. 3. Tôn trọng sự đa dạng và khác biệt. 4. Những giá trị và sự thực hành mang tính tích cực và hợp tác. 5. Điều kiện lao động và sức khỏe toàn diện cho giáo viên. 6. Kỹ năng và khả năng của giáo viên. 7. Làm việc nhóm và tinh thần hợp tác. Học tập theo nhóm giữa học sinh và giáo viên. 8. Sức khỏe tinh thần và quản lí. 9. Môi trường học tập ấm áp và thân thiện. 10. Môi trường an toàn, không có bắt nạt học đường và kỷ luật tích cực. Hiện nay, nhận xét, đánh giá việc học tập được xem trọng hơn là việc xếp loại kết quả học tập. Đây là việc làm khó khăn hơn nhưng giá trị nó mang lại thì rất có ý nghĩa với người học, tạo tâm lý tốt hơn, khi việc nhận xét, đánh giá vì sự tiến bộ của người học đã tạo động lực học tập tích cực. Muốn vậy, các nhà trường, giáo viên phải hạn chế việc giảng dạy theo kiểu chỉ truyền thụ kiến thức và kiểm tra kiến thức theo tiêu chuẩn quy định, thay vào đó là việc nhận xét, đánh giá tạo nên động lực học tập cho học sinh. Hơn nữa, bằng cách khai thác tiềm năng của giáo dục để nâng cao hạnh phúc của người học, người học sẽ được trang bị tốt hơn và có động lực để đóng góp cho xã hội hòa bình hơn, công bằng hơn, bền vững hơn và cuối cùng là hạnh phúc hơn. Hơn bao giờ hết, điều này báo hiệu sự cần thiết của các trường học để trở thành những nơi hạnh phúc hơn. 4
  7. Theo Đặng Tự Ân trường học hạnh phúc là ngôi trường mà ở đó học sinh được phát triển toàn diện, trở thành chính mình và các em được che chở bởi môi trường học tập an toàn, thân thiện và đầy tình thương. “Khoa học đã chứng minh, việc đưa mô hình trường học hạnh phúc vào nhà trường dưới dạng lồng ghép vào các mô hình dạy học đổi mới khác thì thành tích học tập của học sinh được tăng lên 10 - 12%. Hạnh phúc như một loại kỹ năng mềm và được hình thành theo quy trình vòng tròn khép kín, như sau: Môi trường học đường - học sinh tỏ thái độ - Bắt đầu động não - Nhận thấy hạnh phúc (tích cực hay tiêu cực) - Đưa ra hành động phù hợp - Có thành tích học tập - Môi trường học đường" - Đặng Tự Ân. Lấy cảm hứng từ mô hình Happy School - “Trường học hạnh phúc” - của UNESCO, được triển khai thí điểm vào tháng 4/2018 ở một số trường học tại thành phố Huế, được nhân rộng trên địa bàn cả nước và nhiều trường đang phấn đấu xây dựng “Trường học hạnh phúc”. Vậy “Trường học hạnh phúc” là gì và các tiêu chí xây dựng nó ra sao? Nghĩa của cụm từ “Trường học hạnh phúc” có thể hiểu là nơi không có bạo lực học đường, không có hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo, không có những hành xử xúc phạm danh dự, nhân phẩm, thân thể nhà giáo và học sinh. “Trường học hạnh phúc” là nơi thầy cô và học sinh vui sống trong sẻ chia, cảm thông và yêu thương nhau. Đồng thời, nơi đó cũng là mái nhà chung mà mỗi ngày giáo viên và học sinh đến trường là một niềm hạnh phúc. 2.1.2. Thực trạng môi trường sư phạm trong các nhà trường hiện nay ở bậc THPT 2.1.2.1.Thực trạng môi trường sư phạm trong các nhà trường hiện nay Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đã đưa tới nhiều thay đổi đáng kể về mặt kinh tế và đời sống sinh hoạt. Nhiều yếu tố tích cực tạo thuận lợi cho phát triển nhân cách học sinh. Song cũng không ít những yếu tố tiêu cực như mặt trái của cơ chế thị trường, các tệ nạn xã hội, các loại sách báo, văn hóa phẩm độc hại đang hàng ngày ảnh hưởng xấu đến lối sống và phát triển nhân cách của học sinh. Nhìn chung về tình hình tư tưởng, đạo đức, đa số học sinh có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm, nghĩa vụ trong học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức để trở thành con ngoan trò giỏi, thành người có ích cho xã hội. Học sinh rất quan tâm đến những vấn đề chính trị xã hội như công bằng xã hội, tương lai cá nhân và tiền đồ của xã hội. Bởi vậy, các em có nhu cầu rất cao về thông tin, được hiểu biết và thi thố trí tuệ. Điều này được thể hiện rõ bằng kết quả xuất sắc của các em học sinh tham dự các cuộc thi. Tuy nhiên việc bỏ học, gây gỗ, đánh nhau, gây áp lực, tạo nên trạng thái căng thẳng trong học sinh ở bậc học THPT cũng đang là vấn đề xã hội đáng quan tâm vì nó tạo nên một môi trường học tập căng thẳng, bạo lực, thiếu an toàn. Cùng với đó là các hiện tượng giáo viên gây áp lực hoặc dùng bạo lực với học sinh bằng nhiều hình thức (thái độ, lời nói, cử chỉ, hành vi, …) tạo nên một môi trường học tập bất an, thiếu an toàn, lành mạnh. Bên cạnh nguyên nhân chủ yếu về tâm sinh lý lứa tuổi dẫn đến tình trạng phạm tội ngày càng tăng của lứa tuổi này. Có những trường hợp học sinh phạm 5
  8. tội rất đáng báo động về sự suy thoái đạo đức nhân cách như sử dụng bạo lực, dùng vũ khí đâm chém thầy cô giáo đang dạy dỗ mình, hiếp dâm tập thể, tổ chức thành các băng nhóm có tính chất côn đồ gây rối trật tự trị an… Theo báo cáo Hội thảo “Xây dựng môi trường văn hóa học đường góp phần nâng cao chất lượng giáo dục địa bàn tỉnh Nghệ An” tháng 4/2019, cho thấy: Đang có sự suy giảm về đạo đức trong học sinh phổ thông theo thời gian, cấp học. Càng lên cấp học trên, tỉ lệ học sinh hạnh kiểm tốt giảm xuống, thay vào đó là tỉ lệ hạnh kiểm trung bình và yếu tăng. Nếu ở bậc THCS, tỉ lệ học sinh đạt hạnh kiểm trung bình là 5% và yếu là 0,7% thì đến cấp THPT, tỉ lệ này tăng lên trung bình là 5,9% và yếu là 3,9%. Từ số liệu cho thấy môi trường học tập, giảng dạy đang chịu rất nhiều áp lực, từ kết quả học tập, môi trường học tập đã làm cho người dạy, người học chưa thật sự được thỏa mãn, có phần căng thẳng, sự không hạnh phúc trong hoạt động dạy - học. Trong những năm gần đây, phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” được các cơ sở giáo dục hưởng ứng phát động nhằm “thiết lập lại môi trường sư phạm với 6 đặc trưng là trật tự kỷ cương, trung thực, khách quan, công bằng, tình thương và khuyến khích sáng tạo, hiệu quả”. Đây là phong trào có ý nghĩa và giá trị tác dụng tích cực để tạo nên một môi trường dạy - học hạnh phúc cho giáo viên và học sinh. 2.1.2.2. Trường học hạnh phúc yêu cầu của thực tiễn Thời kì hội nhập, nền kinh tế thị trường phát triển, sự giao lưu đa dạng hóa, đa phương hóa đã đem đến cho Việt Nam những cơ hội và thách thức trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, cũng như giáo dục. Để đáp ứng nguồn nhân lực toàn cầu, nền giáo dục Việt Nam đang đặt ra những mục tiêu mới. Thay đổi mô hình giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học đã và đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo nỗ lực trong những năm qua. Các mô hình: Trường học an toàn, Trường học thân thiện học- sinh tích cực và nay là Trường học hạnh phúc) đang trở thành mô hình trường học được Bộ Giáo dục triển khai xây dựng từ cấp Mầm non, Tiểu học đến trung học phổ thông trong cả nước. Khi xây dựng mô hình trường học hạnh phúc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã căn cứ vào cơ sở lí luận và thực tiễn nền giáo dục Việt Nam trong nhiều năm qua và từ những thành quả của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Mô hình trường học hạnh phúc ra đời cũng đã phản ánh sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và khát vọng về dân sinh hạnh phúc của cả dân tộc. trường học hạnh phúc hướng tới một môi trường học tập an toàn, thân thiện và đầy tình thương. Ở đó học sinh được phát triển toàn diện, được trở thành chính mình. Khi xem hạnh phúc là năng lực biết thưởng thức và giữ gìn cho bền vững tất cả những gì tạo ra sự thỏa mãn. Hạnh phúc là đầu ra của quá trình phấn đấu của con người với tư cách là một cá nhân và với tư cách là một thành viên của một cộng đồng, một dân tộc, một quốc gia thì “Việc đưa mô hình trường học hạnh 6
  9. phúc vào nhà trường dưới dạng lồng ghép vào các mô hình dạy học đổi mới khác thì thành tích học tập của học sinh được tăng lên 10 - 12%. Hạnh phúc như một loại kỹ năng mềm và được hình thành theo quy trình vòng tròn khép kín: Môi trường học đường -HS tỏ thái độ - Bắt đầu động não - Nhận thấy hạnh phúc (tích cực hay tiêu cực) - Đưa ra hành động phù hợp - Có thành tích học tập - Môi trường học đường" (dẫn theo Ông Đặng Tự Ân - Giám đốc Quỹ Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam (VIGEF). Đó chính là một phần trong chiến lược đổi mới tích cực của giáo dục Việt Nam). Bản chất của mô hình trường học hạnh phúc không khác nhiều so với các mô hình giáo dục đã có ở nhiều quốc gia, như: “Trường học thân thiện với trẻ em” (CFS) của UNICEF hay “Trường học thân thiện và học sinh tích cực” của Việt Nam, vv… Điểm khác biệt có tính sáng tạo của mô hình trường học hạnh phúc là người ta đã “lọc” ra những nội dung tâm lý và xã hội từ các thành tố của tất cả các mô hình giáo dục đã có để rồi tổng hợp lại thành các tiêu chí mang đặc trưng của một trường học hạnh phúc. Từ những cơ sở trên chúng ta dễ dàng nhận thấy hạt nhân cơ bản của trường học hạnh phúc được tạo nên từ một môi trường học tập thân thiện, yêu thương. Nói cách khác: thân thiện chính là giá trị nền tảng của trường học hạnh phúc. 2.2. Phát huy các giá trị của trường học hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay 2.2.1. Các giá trị của trường học hạnh phúc Xuất phát từ mục đích của trường học hạnh phúc là thúc đẩy sự phát triển toàn diện và đem lại hạnh phúc cho người học, theo ông Đặng Tự Ân, chúng ta có thể coi triết lý trường học hạnh phúc như là: Con người ta tồn tại và phát triển mạnh mẽ hơn nhờ có hạnh phúc. Từ đó, ông quan niệm: trường học hạnh phúc là ngôi trường mà ở đó học sinh được phát triển toàn diện, trở thành chính mình và các em được che chở bởi môi trường học tập an toàn, thân thiện và đầy tình thương. Khi coi trường học hạnh phúc là mô hình nhà trường đổi mới, thì bản chất của mô hình không khác nhiều so với các mô hình giáo dục đã có ở nhiều quốc gia, như: “Trường học thân thiện với trẻ em” (CFS) của UNICEF hay “Trường học thân thiện và học sinh tích cực” của Việt Nam… Thực hiện chủ trương xây dựng trường học hạnh phúc Công đoàn Giáo dục Việt Nam và Công đoàn Giáo dục Nghệ An đã có các công văn về việc hướng dẫn Công đoàn các trường học tổ chức và tham gia xây dựng trường học hạnh phúc, theo đó các giá trị của trường học hạnh phúc cũng được xác lập bằng các tiêu chí cụ thể làm cơ sở để các đơn vị giáo dục tổ chức thực hiện. Các giá trị được xác lập phân làm 3 nhóm: 7
  10. 2.2.1.1. Nhóm giá trị về môi trường nhà trường và phát triển cá nhân gồm các tiêu chí - Đảm bảo sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tâm lý (phòng ngừa và ứng phó với bắt nạt, bạo lực học đường, …) cho học sinh và cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động khi học tập và tham gia các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; không để xảy ra các hiện tượng vi phạm đạo đức nhà giáo và bạo lực học đường. - Phòng học, phòng làm việc, khu vệ sinh, nhà thể chất, sân chơi, các phòng thí nghiệm, các phòng hướng nghiệp vv… phải đảm bảo các điều kiện tiêu chuẩn theo quy định; tạo dựng môi trường xanh sạch đẹp, thân thiện, cởi mở; - Duy trì bầu không khí học tập, lao động ấm áp và thân thiện; mọi thành viên trong trường học, trong lớp học được yêu thương, được tôn trọng, được hiểu, được có giá trị và được bảo đảm an toàn; - Cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động thường xuyên sử dụng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực; - Nhà trường tạo cơ hội để mỗi học sinh và mỗi cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động đều được phát triển tối đa tiềm năng của bản thân, không ai bị bỏ lại, tất cả cùng thay đổi và tiến bộ; - Nhà trường thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở. 2.2.1.2. Nhóm giá trị về dạy và học gồm các tiêu chí - Các cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động làm gương cho học sinh trong mọi hoạt động giáo dục, hoạt động dạy và học; - Thực hiện việc phân công nhiệm vụ cho học sinh và cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động trong trường một cách công bằng, hợp lý và phù hợp với điều kiện, năng lực cá nhân; - Mọi hoạt động liên quan tới dạy và học, tới công tác quản lý được bàn bạc cởi mở, lắng nghe thấu hiểu, đối thoại tích cực; - Nội dung dạy học hữu ích, hấp dẫn và lôi cuốn học sinh; - Bài tập về nhà và thi cử vừa sức, không gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ thể chất và tâm lý của học sinh; - Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tạo hứng thú, phù hợp, thấu hiểu và chấp nhận sự khác biệt tâm lý, thể chất, hoàn cảnh của mỗi học sinh; - Học sinh và cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động được tự do phản hồi, sáng tạo và gắn kết; được chủ động thể hiện quan điểm, ý tưởng; có thói quen làm việc nhóm và hợp tác; - Tạo các điều kiện tốt nhất để mỗi học sinh và cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động có cơ hội phát triển, thể hiện và khẳng định năng lực, giá trị của bản thân; 8
  11. - Thành lập và duy trì các “Nhóm nhà giáo cùng nhau phát triển” ngay từ các tổ chuyên môn để có thể hỗ trợ nhau khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; - Tổ chức các hoạt động ngoại khóa để tăng cường các mối quan hệ, giao lưu, tăng cường thể lực và nuôi dưỡng cảm xúc tích cực; - Khắc phục triệt để cách quản lý và tương tác mang tính áp đặt, gây căng thẳng cho học sinh và cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động trong nhà trường; - Cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động tự chăm sóc sức khoẻ tâm lý và thể chất cho bản thân, tự trang bị cho mình và thực hành được các giá trị sống, kỹ năng sống phù hợp với đạo đức, nhân cách nhà giáo trong môi trường giáo dục. 2.2.1.3. Nhóm giá trị về các mối quan hệ trong và ngoài nhà trường gồm các tiêu chí - Các cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động làm gương cho học sinh trong các mối quan hệ, trong tương tác, giao tiếp và đối thoại; - Học sinh và cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động tôn trọng, lắng nghe thấu hiểu và chủ động xây dựng được các mối quan hệ tích cực, tốt đẹp; - Quản lý cảm xúc tiêu cực trong đối thoại, tương tác, giao tiếp và làm việc với học sinh, với cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động; - Học sinh và cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động hợp tác, chia sẻ, hỗ trợ lẫn nhau trong các nhiệm vụ được giao; - Giúp đỡ, chia sẻ với học sinh và cán bộ quản lý, nhà giáo, người lao động có nhu cầu đặc biệt; có hoàn cảnh riêng; 2.2.2. Một số biện pháp phát huy các giá trị của trường học hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay 2.2.2.1. Đổi mới công tác quản lý nhằm phát huy các giá trị cao đẹp của mô hình trường học hạnh phúc phù hợp với sự phát triển của xã hội. Để nâng cao chất lượng công tác quản lý và sử dụng cán bộ hiện nay trong các cơ quan nhà nước nói chung và trong các đơn vị giáo dục nói riêng, việc tìm hiểu và thay đổi triết lý quản lý con người trong tổ chức là quan trọng và cấp thiết. Việc tìm hiểu và đưa ra các giải phảp để nâng cao chất lượng người lao động là rất quan trọng, bởi đây chính là yếu tố tiên quyết để xác định xem chất lượng tổ chức thực hiện, đánh giá các chương trình giáo dục ở nước ta hiện đang ở mức độ nào và còn những gì còn thiết xót, chưa hợp lý hoặc cần thay đổi. Vì vậy, việc quản lý người lao động trong ngành giáo dục theo định hướng nào là vô cùng quan trọng. Lãnh đạo, quản lý cũng là một nghề, một khoa học và một nghệ thuật. Quản lý giáo dục cũng vậy. Song do đặc thù của lực lượng giáo dục là lực lượng trí thức, và hoạt động giáo dục là lao động nhằm hình thành và hoàn thiện nhân cách với các tri thức kỹ năng kỹ xảo cần thiết cho con người, nên lãnh đạo quản lý giáo 9
  12. dục có nhiều điểm khác với lãnh đạo quản lý các công việc khác. Do vậy, việc vận dụng một cách linh hoạt các mô hình quản lý là một điều vô cùng cần thiết. Trên cơ sở các nội dung đã được học, tác giả đề xuất một số cách thức vận dụng lý thuyết vào thực tế như sau: Trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, tích cực tự học, tự bồi dưỡng Muốn có uy tín với giáo viên, người cán bộ quản lý giáo dục trước hết phải là người có chuyên môn sâu, hiểu biết rộng và có tài năng, càng đa tài càng có lợi cho công việc. Đó không chỉ là người chỉ biết nói mà còn phải là người biết làm, hơn nữa phải biết làm giỏi. Một người hiệu trưởng thời nay mà không biết ngoại ngữ, kiến thức vi tính lại lơ mơ thì khó có sức thuyết phục anh chị em giáo viên cho dù có nói tài đến mấy. Không những làm giỏi mà còn phải biết quản lý giỏi, tổ chức giỏi, biết động viên lực lượng, biết sáng tạo thiết kế các phương án, có khả năng lựa chọn đúng phương án tối ưu do người tham mưu cho mình đề xuất đặc biệt biết khơi gợi được sáng kiến của đội ngũ tri thức rất giàu hiểu biết của mình. Một hiệu trưởng mà dám dùng người giỏi, có cách để họ không “lấn”, không ngại họ “đảo chính”, “kiêu binh” mới là người khôn ngoan, biết tận dụng hết sức mạnh tập thể. Tạo điều kiện để mọi người phát triển khả năng của mình Người hiệu trưởng nào biết cùng đồng nghiệp hoàn thành tốt các công việc được giao theo sự chỉ đạo của cấp trên thì chỉ là ngươì quản lý tốt. Còn người nào biết phát huy mọi năng lực của giáo viên, tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng và phấn đấu đi lên thì sẽ là người lãnh đạo giỏi. Muốn vậy phải biết được vai trò vị trí của mình trong tập thể. Trước hết phải biết việc, biết người, công bằng khéo léo, kết hợp các lực lượng xã hội để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục chung của nhà trường. Mỗi người lãnh đạo đều có phong cách làm việc riêng, nhưng người lãnh đạo được anh em quý mến thường là người có sự đồng cảm với giáo viên (hiểu cấp dưới nghĩ gì, muốn gì và họ hướng tới cái gì). Để đạt được như vậy đòi hỏi người lãnh đạo nhà trường phải có khả năng tự phân tích, tự quan sát, tự kiểm tra và tự phê bình. Đề cao tính chủ động và quyết đoán trong quản lý: Bất kỳ quyết định nào do người lãnh đạo đề ra đều được truyền đạt đến người dưới quyền. Phần lớn các quyết định ấy được thực hiện tốt là do họ đã biết khéo léo sử dụng quyền lực của mình để động viên khuyến khích những người dưới quyền làm việc cho tốt. Người dưới quyền thường có mong muốn lãnh đạo của mình phải có sự kiên quyết và ý chí, sự công bằng trong việc đánh giá cấp dưới. Sự tôn trọng khiến người dưới quyền có thể hoàn thành tốt công việc hơn nhiều lần việc sử dụng quyền uy thô bạo, áp đặt (dẫn đến kết quả tiêu cực). Họ mong tìm được sự đồng cảm của sếp để cùng chia sẻ khó khăn trong hoạt động chung. Vậy để khơi gợi cố gắng của bản thân họ, người lãnh đạo trường học cần hiểu động cơ làm việc của giáo viên để họ hướng tới, thúc đẩy họ hoạt động. Mặt khác, người lãnh đạo nhà trường cũng nên biết tạo môi trường lao động an toàn trong lành (gọi là môi trường học tập hạnh phúc). Người giáo viên được dạy học trong một môi trường sư phạm khang trang sạch đẹp, đầy đủ đồ dùng giảng dạy, 10
  13. sẽ có hứng khởi hơn và dạy học đạt hiệu quả hơn ở môi trường dạy học thiếu thốn xập xệ. Ngoài ra, người lãnh đạo trường học cần biết khích lệ động viên tinh thần đúng lúc với giáo viên. Khuyến khích tinh thần của họ cũng có nhiều biện pháp. Giáo viên nào cũng muốn được đánh giá đúng khả năng, được đối xử công bằng, được tạo điều kiện để có cơ hội thăng tiến, muốn được sếp quan tâm thông cảm, động viên giúp đỡ khen ngợi khích lệ họ. Ví dụ như một giáo viên có con nhỏ ốm, nếu người lãnh đạo biết động viên hỏi han cháu nhỏ (qua mẹ cháu) thì chắc chắn cô giáo đó sẽ tìm cách khắc phục khó khăn để bám trường bám lớp. Còn nếu chỉ ra lệnh thì người ta sẵn sàng xin nghỉ (kể cả không lương) để trông con ngay. Nâng cao kỹ năng quản lý cảm xúc, xử lý xung đột là một nghệ thuật trong quản lý giáo dục. Quản lý lao động trong giáo dục là một loại lao động đặc biệt. Nó mang đặc điểm của tính tổ chức (tập hợp huy động sức mạnh của từng thành viên để thực hiện tốt nhiệm vụ tập thể). Người lãnh đạo nhà trường cần có tính sáng tạo trong quản lý, hiểu được tính chất căng thẳng của công tác quản lý (đặc biệt là quản lý con người trong môi trường giáo dục con người). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến xung đột trong môi trường giáo dục mà người hiệu trưởng cần nhận rõ: đó là những thiếu sót trong quản lý lãnh đạo, trong tổ chức phân công lao động. Đó cũng có thể là những khác biệt về tâm lý giữa các thành viên trong tập thể. Hoặc do chưa có sự thống nhất cao trong nội bộ lãnh đạo. Có thể do mọi thành viên thiếu sự hiểu biết đầy đủ hoặc hiểu lầm nhau. Khi người lãnh đạo không đủ phẩm chất năng lực có thể dẫn đến mất uy tín, suy thoái nhân cách sẽ là nguyên nhân nguy hiểm nhất dẫn đến xung đột giữa lãnh đạo và cấp dưới (thể hiện như phiếu tín nhiệm thấp, anh em chống đối ngầm, kéo bè kéo cánh…). Làm lãnh đạo đã khó, làm quản lý trong ngành giáo dục càng khó hơn. Do tính chất đặc thù của công việc nên người lãnh đạo cần hiểu biết thấu đáo để có cách cư xử cho chuẩn và biết cách ngăn ngừa những xung đột có thể xảy ra. Thái độ tế nhị, lịch sự chu đáo niềm nở, tạo bầu không khí hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau là rất cần thiết. Nếu không có tính kiên định, người lãnh đạo trong nhà trường sẽ dễ nảy sinh trạng thái tâm lý cáu gắt, nếu không khéo léo công bằng thì người lãnh đạo sẽ khó mà giải quyết được xung đột một cách ổn thoả, mà khi xung đột đã xảy ra với những người làm công tác giáo dục thì rất dễ dẫn đến mất đoàn kết nội bộ (vì họ không dễ gì nói ra, mà chỉ chống đối ngầm). Nâng cao vai trò thủ lĩnh và đề cao tính nguyên tắc (nhưng không cứng nhắc) và khả năng sư phạm. Biết lắng nghe và khen chê đúng lúc, có nghệ thuật là một điều tuyệt vời mà không phải người quản lý nào cũng làm được. Giả dụ như biết sử dụng lời nói và các hành động thân thiện để cảm thông chia sẻ, luôn tỏ ra nhớ tên, mối quan hệ và những việc làm của cấp dưới; Biết chăm chú lắng nghe, luôn cần cho đối tượng mình giao tiếp (kể cả học trò và phụ huynh học sinh) biết rằng mình đang hiểu rõ tầm quan trọng và công việc của họ đang làm; Vui vẻ nhận thiếu sót khi biết mình có sự lầm lẫn nào đó; Biết phê bình người dưới quyền nhưng không gây cho họ sự khó chịu buồn bực bằng cách tìm hiểu nguyên nhân tính chất của những sai lầm ấy. Phê bình cũng phải có nghệ thuật. Trước khi đưa ra phê bình cần có lời khen cho những mặt tốt (trước đó) của họ, sau đó mới phê bình một cách từ tốn nhẹ nhàng, cấp dưới hẳn sẽ không bao giờ nghĩ mình là “đồ 11
  14. bỏ đi”, họ biết rằng lãnh đạo vẫn nhìn ra mặt tốt của mình để họ có động cơ phục thiện. Làm được như vậy, người lãnh đạo trường học mới tạo ra cho họ một niềm tin vào bản thân và cố gắng hành động theo sự góp ý phê bình vừa rồi của sếp. Gặp riêng cũng là một cách trao đổi rất hiệu quả. Việc đảm bảo giữ kín khuyết điểm cũng như thông tin của họ như đã hứa (rồi theo dõi sự tiến bộ và nhắc nhở) sẽ làm tăng uy tín của ngươì lãnh đạo nhà trường lên nhiều lần. Nên lấy phương châm để giáo viên và học trò mến đức chứ không nên để họ sợ uy (Tất nhiên đối với một số trường hợp vẫn cần dùng quyền uy để giải quyết). Nâng cao năng lực giao tiếp góp phần vào sự thành công của công tác quản lý. Cần vận dụng linh hoạt phần “cứng” trong giao tiếp (cử chỉ, lời nói, hành vi…) và phần mềm (ứng xử linh hoạt thích nghi với những bất thường trong cuộc sống, độ nhạy cảm của con người). Vận dụng phần cứng và phần mềm để tự điều chỉnh hành vi giao tiếp của mình cho phù hợp là điều tương đối khó, đòi hỏi người hiệu trửơng phải có một quá trình rèn luyện. Việc vận dụng này thể hiện trực tiếp như họp hành mít tinh, toạ đàm; gián tiếp như trả lời điện thoại, gửi báo cáo, fax; hay thông qua việc tiếp khách cấp trên, bạn đồng quyền với nhau, các cộng sự đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh, nhân dân và quần chúng. Vận dụng tốt khả năng biết giao tiếp sẽ làm cho công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường được thuận lợi, kêu gọi được nhiều “Mạnh thường quân” đầu tư cơ sở vật chất cho trường. Bàn về đổi mới công tác quản lý giáo dục là một vấn đề rộng, mỗi người có một cách riêng, nhưng tựu chung lại vẫn là để công tác quản lý giáo dục có chất lượng và hiệu quả, đạt được mục tiêu vì con người, cho con người. Để đạt đựơc điều này, người làm công tác quản lý nhà trường vẫn phải không ngừng học tập, trau dồi thông qua việc tham gia các hoạt động trong và ngoài nhà trường. Mặt khác, biết khai thác nội lực, tập hợp và phát huy nguồn sức mạnh tinh thần của tập thể Hội đồng sư phạm nhà trường thì tin rằng việc xây dựng một mái trường hạnh phúc sẽ sớm hoàn thành. 2.2.2.2. Nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên vì một trường học hạnh phúc Khi hướng đến mục tiêu sử dụng nguồn nhân lực để tạo ra một môi trường học tập hạnh phúc thì chất lượng đội ngũ giáo viên không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng yêu cầu của chuẩn mà còn phải được nâng cao, được bồi dưỡng, để phát triển năng lực nghề nghiệp vừa là mục tiêu vừa là động lực trong quá trình dạy học và giáo dục. Biện pháp này tập trung vào việc đáp ứng các yêu cầu mới mẻ đang đặt ra trong quá trình đổi mới giáo dục, đồng thời giáo viên ngày càng được hoàn thiện để phục vụ tốt hơn theo nhu cầu, nguyện vọng của người học, phụ huynh học sinh và cộng đồng xã hội, đem lại hạnh phúc cho người học. 2.2.2.2.1. Nội dung Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đổi mới phương pháp dạy học cho giáo viên đảm bảo đáp ứng được các năng lực: thiết kế tình huống dạy học và giáo dục theo hướng phân hóa người học; năng lực tự đọc, tự học, sáng tạo; năng lực trao đổi, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học với đồng nghiệp; 12
  15. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT, năng lực tiếng Anh, năng lực ngôn ngữ dân tộc (nếu cần thiết). Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên năng lực quản lý cảm xúc, hình thành kỹ năng phản ứng, thái độ thân thiện tích cực vì một môi trường sư phạm hạnh phúc. 2.2.2.2.2. Biện pháp thực hiện Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đổi mới phương pháp dạy học giáo viên toàn trường với các mục tiêu rõ ràng, khả thi; tạo dựng được môi trường làm việc tích cực - sáng tạo, thực hiện việc dạy chữ, dạy người và tiếp cận nghề nghiệp. Kế hoạch cần quy định việc thực hiện cụ thể (trong sinh hoạt tổ chuyên môn, giảng dạy, thao giảng - dự giờ, sinh hoạt chủ nhiệm…), lộ trình thực hiện trong tháng, học kỳ, năm học và từ 3 - 5 năm học. Chỉ đạo tổ/nhóm chuyên môn cụ thể hóa mục tiêu của nhà trường thành các biện pháp/chương trình hành động. Phát huy được vai trò của tổ trưởng/nhóm trưởng chuyên môn, của giáo viên cốt cán, giáo viên giàu kinh nghiệm trong tư vấn, hướng dẫn đồng nghiệp. Ban giám hiệu cùng với tổ trưởng chuyên môn tiến hành kiểm tra, đánh giá và khen thưởng cũng như hướng dẫn, làm mẫu, góp ý, phê bình, khiển trách… (quá trình thực hiện của giáo viên). Tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên năng lực thiết kế tình huống dạy học và giáo dục theo hướng phân hóa người học; Hiệu trưởng thực hiện thông qua tổ chức bồi dưỡng thường xuyên giáo viên theo yêu cầu của Bộ GD&ĐT (phù hợp với tình hình, đặc điểm của nhà trường); mời các giáo viên có kinh nghiệm, các chuyên gia giáo dục báo cáo trong các dịp sinh hoạt hội đồng trường hàng tháng, vào dịp bồi dưỡng hè. Tập huấn cho tổ trưởng chuyên môn về nội dung sinh hoạt chuyên môn (2 tuần/lần), tập trung vào các vấn đề như: Phương pháp phân tích tổng thể chương trình môn học nhằm định hướng cho việc khai thác, huy động chuyên môn để thực thi chương trình môn học; Cách thức cập nhật thông tin trong thực thi chương trình môn học; Thiết kế các nhiệm vụ học tập, xây dựng bài tập (định tính, định lượng, các tình huống…), hướng dẫn học tập để hình thành và phát triển hoạt động học tập môn học cho học sinh; Bồi dưỡng nâng cao bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh cần cố gắng; Tổ trưởng chuyên môn, giáo viên cốt cán, giáo viên giàu kinh nghiệm hướng dẫn, tư vấn đồng nghiệp về thực thi nhiệm vụ, về cách thức phát hiện khó khăn trong học tập của học sinh, về phương pháp giúp học sinh vượt qua những khó khăn của bản thân để tập trung cho việc học. Có kế hoạch cụ thể để xây dựng văn hóa đọc cho giáo viên của nhà trường bởi đọc sách và tìm kiếm tài liệu trên mạng xã hội là con đường hiệu quả nhất để giáo viên bổ sung kiến thức, có kỹ năng - kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển nghề nghiệp bản thân, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và hiểu biết xã hội cũng như cập nhật sự phát triển của kiến thức và đây cũng là yêu cầu của đổi mới giáo dục đặt ra cho cả người dạy và người học. Hiện nay giáo viên THPT còn nhiều người chưa có thói quen đọc sách. Có kế hoạch phát triển thư viện (truyền thống - điện tử) giúp giáo viên dễ dàng tiếp cận tài liệu tham khảo, rèn thói quen 13
  16. và đam mê đọc sách. Tài liệu tham khảo cần đa dạng đáp ứng yêu cầu của các nhóm giáo viên cốt cán, trưởng thành, tiềm năng, cần cố gắng. Bên cạnh đó, thư viện của trường có đủ các loại Báo - Tạp chí để giáo viên nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội kịp thời, học tập các mô hình - cách làm hay, bổ sung lý luận - phương pháp dạy học mới. Khuyến khích giáo viên chia sẻ nhận thức và kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học với đồng nghiệp. Căn cứ vào nhiệm vụ trọng tâm năm học của ngành, những hạn chế - bất cập của công tác giáo dục học sinh, yêu cầu trong việc đổi mới kiểm tra - đánh giá, định hướng của chương trình sách giáo khoa mới, Hiệu trưởng: + Tổ chức học tập, trao đổi, hội thảo (cấp tổ chuyên môn, trường) về vai trò, vị trí và việc sử dụng phương pháp dạy học tại đơn vị đảm bảo phù hợp với thực tiễn đồng thời triển khai thực hiện tốt yêu cầu về đổi mới phương pháp của Bộ, Sở GD&ĐT. + Chỉ đạo các tổ chuyên môn tăng cường triển khai hoạt động nghiên cứu bài học, dạy học theo chủ đề, học theo dự án, ứng dụng NCKH vào dạy học và giáo dục … + Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT trong dạy học và giáo dục cho giáo viên trường THPT. Sự ra đời và phát triển của mạng xã hội tạo cơ hội giúp con người thuận lợi ong việc trao đổi, cập nhật thông tin nhanh chóng. Vì thế giáo viên cần được bồi dưỡng để sử dụng và khai thác thông tin. Đối với giáo dục phổ thông, CNTT đang làm thay đổi sâu sắc nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và quản lý giáo dục. Việc ứng dụng và phát triển mạnh mẽ CNTT trong giáo dục phổ thông là tất yếu, hướng tới việc tạo dựng nhà trường trong thế giới phẳng. Thông qua đội ngũ giáo viên tin học, giáo viên cốt cán, giáo viên tiềm năng, … để phát triển kỹ năng sử dụng CNTT trong việc lập kế hoạch dạy học, soạn giáo án, quản lý học sinh, cập nhật điểm số … Tổ chức và thực hiện các hoạt động dạy học trên lớp phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo gắn với việc thường xuyên sử dụng thiết bị CNTT, Internet, ... 2.2.2.3. Ban hành quy tắc ứng xử vì một trường học hạnh phúc 2.2.2.3.1. Nội dung quy tắc ứng xử văn hóa nhà trường Trên cơ sở hướng dẫn tại các văn bản của Ngành Giáo dục và Đào tạo nhà trường xây dựng quy tắc ứng xử văn hóa nhà trường làm làm cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng môi trường sư phạm an toàn, lành mạnh, văn minh, văn hóa, thân thiện, hạnh phúc. Xây dựng nếp sống văn hóa trong học tập và rèn luyện cho học sinh bao gồm việc hình thành ý thức, hành vi và thói quen đảm bảo tính văn hóa trong quá trình học tập và rèn luyện cho học sinh. Xây dựng lối sống văn hóa, trong sạch, ý thức học tập chủ động và sáng tạo, tinh thần yêu nghề, tính kỷ luật cao trong rèn luyện. Nâng cao ý thức chấp hành thực hiện nếp sống văn minh, văn hóa nơi học đường, rèn luyện đạo đức cho học sinh. Thực hiện nếp sống văn minh, văn hóa nơi học đường trong nhà trường được thể hiện thông qua việc thực hiện qui định về trang phục khi đến trường, nói năng lịch sự, 14
  17. văn hóa nơi giảng đường cũng như nơi sinh hoạt, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ của công ở mọi lúc mọi nơi. 2.2.2.3.2. Biện pháp tổ chức thực hiện Đây là biện pháp nhằm tác động vào những điều kiện trực tiếp, quy trình cụ thể cho các hành vi ứng xử nhằm tạo an toàn, lành mạnh hóa môi trường học tập. Để đạt hiệu quả cao khi thực hiện biện pháp này, cần lưu ý: - Bảo đảm tính hiệu lực của các quy định về xây dựng văn hóa nhà trường. Đây là yêu cầu nhằm làm cho quá trình xây dựng trường học hạnh phúc từ “khả thi” trở thành “thực thi” cao. Điều này được thể hiện ở sự hợp lý trong việc sắp xếp các quy tắc quy định, yêu cầu các đối tượng phải thực hiện. Sự bao quát trong các nội dung, sự đa dạng trong các chế tài (bao gồm khen thưởng - kỷ luật, biểu dương - phê phán, giáo dục - hành chính...) và sự cân đối trong các phần của quy định để tạo ra sự đồng thuận, sự thống nhất, đồng bộ trong quá trình tiến giáo dục và đánh giá hiệu quả các giá trị văn hóa của trường học hạnh phúc mạng lại. Bảo đảm tính chuẩn mực của các tiêu chí về giá trị văn hóa nhà trường ở trường THPT sẽ tạo cơ sở khoa học cho việc áp dụng thành công vào công tác đánh giá, bình xét các danh hiệu đảm bảo sự công minh, dân chủ cho các chủ thể, đối tượng có thành tích trong quá trình xây dựng, thực hiện văn hóa nhà trường. - Xây dựng các quy tắc ứng xử văn hóa nhà trường để điều chỉnh nhận thức của học sinh, hình thành nên những chuẩn mực về văn hoá đạo đức phù hợp với lứa tuổi học sinh. Kết hợp với các nội quy, quy chế của học sinh do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành để soạn thảo ra quy tắc ứng xử cho phù hợp với điều 15
  18. kiện học tập sinh hoạt và đặc thù của nhà trường. Việc xây dựng và hình thành các quy tắc quy định, chuẩn mực về văn hoá, đạo đức trong Trường THPT cần đảm bảo những yêu cầu sau: + Các quy tắc đó phải có tác dụng nâng cao nhận thức, điều chỉnh thái độ hành vi của học sinh trong mọi hoạt động. Tạo ra động lực bởi những chế độ khen thưởng kỷ luật để thu hút học sinh phải tham gia; + Nội dung quy chế, quy định cần hướng vào đạo đức, lối sống, thái độ hành vi ứng xử của học sinh, cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong các mối quan hệ nhà trường, phải thiết thực, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nhà trường và phù hợp với điều kiện phát triển xã hội; + Phải phù hợp với pháp luật hiện hành, các chuẩn mực về đạo đức và văn hoá chung của dân tộc; + Các quy định, quy tắc phải cụ thể rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện. 2.2.2.4. Tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của các thành viên trong và ngoài nhà trường về tạo dựng môi trường học tập hạnh phúc cho học sinh 2.2.2.4.1. Nội dung 16
  19. Hiện nay, hiểu và nhận thức về trường học hạnh phúc của các nhà quản lý giáo dục, giáo viên, nhân viên, học sinh, phụ huynh, nhân dân chưa cao, chưa thật sự quan tâm, chú trọng đến việc tạo dựng môi trường dạy - học hạnh phúc. Hệ quả là nhiều biểu hiện tiêu cực trong nhà trường chưa được ngăn chặn; các hoạt động giáo dục nhằm tạo dựng niềm tin, cảm xúc, cảm nhận hạnh phúc còn bị coi nhẹ, chủ yếu chỉ thực hiện nhiệm vụ truyền thụ kiến thức nhằm hoàn thành công việc được giao. Vấn đề tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng trường học hạnh phúc có ý nghĩa to lớn. Điều này rất cần thiết, vì thực chất đây là hoạt động nhằm tạo dựng môi trường học tập hiệu quả với những cảm xúc thỏa mãn song hành với sự hài lòng về học tập cho các thành viên trong nhà trường qua đó học sinh, thầy cô cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên ... hình thành thái độ đúng đắn đối với những giá trị, chuẩn mực, mục tiêu phát triển của nhà trường, bồi đắp các quan hệ giữa các thành viên trong và ngoài nhà trường theo hướng tích cực. Phát huy được vai trò tích cực của chủ thể, đối tượng trong việc giữ gìn và phát triển các giá trị trường học hạnh phúc. Để từ đó làm cho chất lượng và hiệu quả giáo dục càng cao và phát triển theo chiều sâu, góp phần tích cực vào việc hoàn thành các mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà trường cũng như khẳng định được thương hiệu của trường với xã hội. Xây dựng trường học hạnh phúc không phải là công việc có thể thực hiện dễ dàng. Bởi lẽ các giá trị của trường học hạnh phúc muốn hình thành, tồn tại và phát triển phải có sự công nhận của các thành viên trong và ngài trường. Ý thức trách nhiệm và nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng trường học hạnh phúc là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để làm thay đổi được nhận thức cũng như tăng cường tính trách nhiệm của các thành viên thì cần phải thực hiện thường xuyên công tác tuyên truyền, bồi dưỡng nhận thức, gắn trách nhiệm qua phân công công việc rõ ràng trong quá trình tham gia vào công tác. Nâng cao nhận thức về xây dựng trường học hạnh phúc sẽ được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục truyền thống, phong trào thi đua và sự tác động liên tục của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) đến các thành viên bằng phương pháp thuyết trình để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động. 2.2.2.4.2. Biện pháp tổ chức thực hiện Đây là việc làm đòi hỏi sự linh hoạt, nhuần nhuyễn thông qua các phương pháp, hình thức giáo dục phù hợp với điều kiện nhà trường. Trong đó, cần lưu ý những điểm sau: Một là: Hiệu trưởng nhà trường phải lập kế hoạch chi tiết về công tác bồi dưỡng ý thức và nâng cao nhận thức cho tất cả các đối tượng trong và ngoài nhà trường. Trong đó nhấn mạnh đến tính trách nhiệm của các thành viên thông qua bảng phân công nhiệm vụ rõ ràng. Trong một năm học lãnh đạo cũng như giáo viên phải lập kế hoạch thực hiện các phong trào hoạt động, các lớp bồi dưỡng 17
  20. nhận thức về công tác xây dựng nhà trường, xây dựng nếp sống văn minh thanh lịch, hướng tới xây dựng trường học hạnh phúc. Cán bộ quản lý nhà trường thông qua hoạt động của Đoàn thanh niên nhà trường để thực hiện các phong trào tuyên truyền, nâng cao nhận thức của học sinh. Chính thông qua những hoạt động này ý thức, nhận thức của thành viên trong nhà trường được nâng cao. Tính tự giác của các thành viên được hình thành qua mỗi hoạt động và cũng từ những hoạt động đó các thành viên kết nối gần nhau hơn để tạo nên một tập thể gắn kết, có tính trách nhiệm cao. Mỗi cá nhân thông qua các hoạt động tập thể được bồi đắp thêm ý thức cá nhân, tinh thần đoàn kết để rồi tự xây dựng kế hoạch, xác định nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu của bản thân. Khi các thành viên tự giác nỗ lực làm việc, chia sẻ trách nhiệm thì nhiệm vụ của cán bộ quản lý giảm bớt áp lực, có thêm động lực và chủ động hơn để thực hiện chức năng của mình. Hai là: Hiệu trưởng yêu cầu các thành viên của nhà trường quán triệt và thực hiện đầy đủ các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. Lãnh đạo nhà trường và cán bộ quản lý kết hợp với cấp ủy Đảng nhà trường xây dựng các Nghị quyết, Chỉ thị nhằm phát triển nhà trường và khẳng định được vai trò của việc xây dựng trường học hạnh phúc. Hưởng ứng và tham gia các phong trào, hoạt động lớn của Ngành, của Chính quyền để qua những hoạt động đó cá nhân thấy được vai trò và ý nghĩa của các hoạt động. Mỗi cá nhân phải được quyền chủ động tham gia vào các hoạt động tập thể, được quyền đóng góp ý kiến vào các quyết sách, kế hoạch của nhà trường theo từng cấp độ cho phép. Ba là: Hiệu trưởng chỉ đạo thực hiện các hoạt động giáo dục nhằm hướng tới các giá trị của trường học hạnh phúc. Với các hoạt động này thì nên giao cho Công đoàn của nhà trường dưới sự chỉ đạo của Cấp ủy Chi bộ. Nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, các cuộc thi, hội thi để tăng cường tính tập thể đoàn kết và ý thức cá nhân của các thành viên. Bốn là: Tổ chức các cuộc thi, các cuộc giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể thao, tìm hiểu tri thức nhân loại nhằm đánh giá mức độ nhận thức, tinh thần trách nhiệm của các thành viên. Các cuộc thi, giao lưu kiến thức là dịp để các thành viên được thể hiện tinh thần cá nhân, tập thể cũng như kiến thức chuyên môn của bản thân cho nên nó luôn tạo được sức cuốn hút lớn đối với mọi thành viên, tổ chức trong nhà trường. Cũng thông qua các cuộc thi cán bộ nhà trường có thể đánh giá được mức độ nhận thức của thành viên trong vấn đề xây dựng trường học hạnh phúc. Đặc biệt coi trọng vai trò, tác dụng của website, trang mạng xã hội như zalo, facebook trong việc cung cấp thông tin, tuyên truyền, thông báo nội dung các hoạt động, biểu dương các cá nhân điển hình, tập thể tiên tiến … 2.2.2.5. Phối hợp giữa nhà trường với chính quyền, gia đình và xã hội Trong nền kinh tế thị trường, học sinh đang trở thành một trong những đối tượng được các tổ chức kinh tế, đơn vị kinh doanh hướng tới với tư cách là những khách hàng của họ. Theo đó, những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của 18
nguon tai.lieu . vn