- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao năng lực tự học cho học sinh trong dạy đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao (Chương trình Ngữ văn 11)
Xem mẫu
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT KIM LIÊN
Tên sáng kiến:
NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH
TRONG DẠY ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN “CHÍ PHÈO”
CỦA NAM CAO
MÔN: NGỮ VĂN
Tác giả: Lữ Thị Phường Lan
Giáo viên: Môn Ngữ văn
Tháng 3/2021
- MỤC LỤC
Chữ viết tắt Viết đầy đủ
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
GV Giáo viên
HS Học sinh
SGK Sách giáo khoa
THPT Trung học phổ thông
SKKN Sáng kiến kinh nghiệm
GDPT Giáo dục phổ thông
KTĐG Kiểm tra đánh giá
VHVN Văn học Việt Nam
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lí do chọn đề tài
1.1. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa từ
chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm
được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện
thành công việc chuyển từ PPDH nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách
học, cách vận dụng kiến thức, đồng thời phải đổi mới hình thức KTĐG từ nặng
về kiểm tra trí nhớ sang KTĐG năng lực vận dụng kiến thức vào giải quyết vấn
đề, chú trọng đánh giá trong quá trình dạy học để có thể tác động kịp thời nhằm
nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ PPDH theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ
năng của người học, tập trung vào dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng phát triển
năng lực”. Muốn làm được điều đó thì phải đổi mới phương pháp dạy và học
nhằm phát huy tốt nhất năng lực của học sinh.
Với đặc thù môn Ngữ văn, để HS có hứng thú và chủ động lĩnh hội kiến
thức GV đóng vai trò rất quan trọng. Việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực
hoá hoạt động của học sinh, có kênh chữ và kênh hình, có nhiều câu hỏi phát
huy tính tích cực và đặc biệt khả năng tự học của HS sẽ đem lại hứng thú với
HS.
Trong xu thế xã hội ngày càng phát triển, vấn đề tự học trong nhà trường
lại càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Tự học cần phải trở thành một trong
những kỹ năng quan trọng nhằm phát triển năng lực trong mỗi cá nhân HS.
Trong mỗi bài học, HS cần phải có thói quen với vấn đề tự học, từ đó hình
thành năng lực tự học để sau này có điều kiện học tiếp nữa hay không vẫn có
thể tự học hỏi để trau dồi tri thức và thích nghi với thời đại. Vì vậy, vấn đề tự
học của HS THPT là một vấn đề cần thiết mang tính chiến lược.
1.2. “Chí Phèo” của Nam Cao là một kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện
đại, có sức lôi cuốn với nhiều bạn đọc. Đọc truyện ngắn này, người đọc có thể
rút ra được nhiều bài học sâu sắc, nhiều liên hệ thực tế ý nghĩa. Trên thực tế
dạy học hiện nay, khi dạy tác phẩm Chí Phèo, giáo viên mới chỉ hướng dẫn học
sinh tìm hiểu giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm, ít chú ý đến
việc hướng dẫn học sinh ứng dụng, liên hệ vào các vấn đề thực tiễn. Một số
giáo viên có ứng dụng PPDH theo định hướng phát triển năng lực nhưng còn mờ
nhạt, chung chung, chưa chú ý nhiều đến hình thành kĩ năng sống và phẩm chất
cho người học.
3
- Vì vậy, để việc dạy và học tác phẩm Chí Phèo có hiệu quả trong việc
hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh thì việc nâng cao năng lực tự học
cho học sinh là vấn đề cần thiết, sát thực, đúng với xu thế đổi mới phương
pháp, phù hợp mục tiêu giáo dục.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã tìm tòi, suy nghĩ và đề xuất giải pháp
“Nâng cao năng lực tự học cho học sinh trong dạy đọc hiểu truyện ngắn “Chí
Phèo” của Nam Cao (Chương trình Ngữ văn 11) làm đề tài cho sáng kiến của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Năng lực tự học của học sinh trong quá trình dạy đọc hiểu
truyện ngắn Chí Phèo ở trường THPT năm học 2020 2021.
Phạm vi: Dạy hoc đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo trong môn Ngữ văn
THPT.
3. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng các hình thức dạy học (đọc đóng vai, thảo luận nhóm, sử dụng
phiếu học tập (PHT) nhằm phát triển năng lực tự học cho HS , qua đó góp phần
đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng dạy học và ôn thi THPT Quốc gia ở
trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực HS, phù hợp với chương
trình giáo dục phổ thông tổng thể mới được Bộ GD&ĐT ban hành
4. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu và chỉ ra cách phát triển năng lực tự học cho học sinh trong
dạy học Văn ở trường THPT.
Trong quá trnh th
́ ực hiện chuyên đề này, chúng tôi đã vận dụng và phối
hợp nhiều phương pháp trong đó có các phương pháp cơ bản sau :
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu có liên quan đến phương
pháp giảng dạy theo định hướng phát triển năng lực đặc biệt năng lực tự học môn
Ngữ Văn.
Phương pháp điều tra, quan sát: Thông qua việc dự giờ thăm lớp, qua
thực tế dạy học.
Phương pháp tổng kết và đúc rút kinh nghiệm: Tìm hiểu thực trạng việc
dạy học của giáo viên và học sinh qua môn Ngữ văn cấp THPT.
Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với giáo viên trong nhóm Ngữ văn
Trường THPT Kim Liên về vấn đề dạy Ngữ văn nói chung và dạy theo định
hướng phát triển năng lực tự học của HS nói riêng.
Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm
tính khả thi và xác định tác dụng của các ý kiến đóng góp về vấn đề dạy học
theo định hướng phát triển năng lực nhằm hình thành và phát triển năng lực tự
học của HS để có những điều chỉnh cho hợp lý hơn.
4
- 5. Thời gian nghiên cứu
Năm học 20202021, từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 1 năm 2021 tôi đã
thực nghiệm đề tài: “Nâng cao năng lực tự học cho học sinh trong dạy đọc hiểu
truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao (Chương trình Ngữ văn 11)
6. Những điểm mới của sáng kiến
Về lý luận: Sáng kiến đóng góp với các bạn đồng nghiệp dạy bộ môn
Ngữ văn lớp 11 nói riêng và bộ môn Ngữ văn cấp THPT nói chung về thực trạng
vấn đề phát triển năng lực tự học cho học sinh hiện nay.
Về thực tiễn: Đi sâu vào vấn đề phát triển năng lực tự học cho học sinh
thông qua giảng dạy bộ môn mình phụ trách, tôi muốn đưa ra một số giải pháp
mà bản thân tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy tại trường THPT Kim
Liên với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc thực hiện
mục tiêu của ngành giáo dục: đào tạo các em học sinh trở thành con người toàn
diện.
5
- PHẦN II. NỘI DUNG
2.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG
CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY ĐỌC HIỂU
TRUYỆN NGẮN “CHÍ PHÈO” CỦA NAM CAO
2.1.1 Cơ sở lí luận
2.1.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1.1 Năng lực
“Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối
cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc
tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí... Năng lực của cá nhân được
đánh giá qua phương thức và kết quả hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết
các vấn đề của cuộc sống”. Năng lực không phải là một thuộc tính đơn nhất.
Đó là một tổng thể của nhiều yếu tố có liên hệ tác động qua lại và hai đặc
điểm phân biệt cơ bản của năng lực là: (1) tính vận dụng; (2) tính có thể chuyển
đổi và phát triển. Năng lực được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt
động tích cực của con người. Phát triển năng lực của người học chính là mục
tiêu mà dạy và học tích cực muốn hướng tới. Tùy theo môi trường hoạt động mà
năng lực có thể đánh giá hoặc đo được, quan sát được ở những tình huống nhất
định.
2.1.1.1.2 Tự học
Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà
trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy
Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo,
là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh,
phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri
thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của
nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn
về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra
tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự
đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải
quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp… Tự học thuộc quá trình cá nhân
hóa việc học”.
Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức
vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao
giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ
nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của
mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
6
- Như vậy, từ những quan điểm về tự học ở trên, chúng ta có thể xác định
được tự học luôn gắn liền với hoạt động tích cực, chủ động của từng chủ thể
học sinh mà chúng ta có thể gọi là “tự mình”, có nghĩa là các em phải tự mình
phát hiện kiến thức, tự mình nắm bắt kiến thức và tự mình vận dụng kiến thức.
Điều đó không chỉ có giá trị đối với bản thân các em mà còn giá trị đối với xã
hội, đối với nhân loại. Ngoài ra, năng lực tự học đối với học sinh THPT còn tạo
ra sự biến đổi về mặt nhận thức, đem lại một ý nghĩa lớn hơn là hình thành thói
quen tự học với những suy nghĩ tìm tòi để đặt vấn đề, tự giải quyết vấn đề. Đó
là những hoạt động có tác dụng rèn luyện, phát triển tư duy logic đồng thời cũng
là một dấu hiệu biểu đạt mức độ của sự phát triển trí tuệ.
2.1.1.1.3 Năng lực tự học
Tự học của HS THPT nói riêng cũng như tự học của HS nói chung là tổng
hợp của nhiều năng lực. Mục đích tự học của HS là hoàn thành tốt những phần
nào đó trong nhiệm vụ học tập của mình khi không có thầy bên cạnh. Như vậy,
tự học của HS THPT luôn gắn với năng lực chủ động, tích cực, HS phải tự
nghiên cứu tài liệu, tự mình phát hiện kiến thức, tự mình nắm bắt một phần
kiến thức. HS phải thường xuyên tự tìm tòi những tài liệu liên quan đến bài học
để có sự so sánh, đối chiếu, tự biết vận dụng chuyển hóa kiến thức bài học
dưới sự định hướng và dẫn dắt của GV.
Năng lực tự học của HS THPT mới chỉ dừng lại ở mức độ thấp, nhưng
đây lại là cơ sở vô cùng quan trọng cho việc hình thành năng lực tự học, tự
nghiên cứu ở mức độ cao sau này. Nhà trường sẽ là nơi tạo dựng một nền móng
vững chắc cho kinh nghiệm tự học, tự nghiên cứu thuần thục của một nhà khoa
học sau này.
GV là người hướng dẫn, tổ chức cho HS tự nghiên cứu tìm ra kiến thức
và tự thể hiện mình trong lớp học, GV là một trọng tài hay cố vấn, kết luận
trong các cuộc tranh luận đối thoại (HS – HS – GV – GV) để khẳng định kiến
thức do HS tìm ra và GV là người kiểm tra đánh giá kết quả tự học của HS.
HS tự đánh giá, tự kiểm tra lại sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi,
hợp tác với bạn bè và dựa vào kết luận của GV, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự
hoàn thiện đồng thời tự rút kinh nghiệm về cách học, cách xử lý tình huống,
cách giải quyết vấn đề của mình.
Trong quá trình tự học, HS luôn tự chủ, năng động và sáng tạo, biết học
hỏi và đánh giá, biết so sánh và đối chiếu, biết kiểm nghiệm và xử lý tình
huống. Quan trọng hơn là HS phải biết tự tìm cho mình một cách tự chiếm lĩnh
tài liệu.
Như vậy, tự học của HS THPT không đòi hỏi mức độ cao như tự học của
các nhà nghiên cứu, mà chủ yếu dựa vào bài học cụ thể trong SGK, những tài
liệu có liên quan đến bài học để đối chiếu, so sánh, mở rộng làm cho quá trình
nhận thức của HS mang tính chủ động và có tính chất nghiên cứu. Mục đích tự
7
- học của HS THPT giúp các em hiểu sâu sắc, trọn vẹn bài học bằng chính năng
lực của mình và biết vận dụng kiến thức thành kinh nghiệm của bản thân.
2.1.2 Sự cần thiết của việc rèn luyện năng lực tự học trong dạy đọc
hiểu môn Ngữ văn
Sự bùng nổ của tri thức, sự phát triển của thời đại đặt ra một yêu cầu hết
sức cấp bách cho nền giáo dục nước nhà là phải hiện đại hóa nội dung và
phương pháp dạy học, trong đó chú trọng phát triển năng lực tự học của học
sinh. Bộ môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thực tế dạy đọc hiểu
trong môn Ngữ văn là nội dung rất quan trọng để giúp học sinh phát triển các kỹ
năng tự chiếm lĩnh, khám phá tri thức của tác phẩm. Điều này đòi hỏi người
giáo viên cần phải thay đổi phương pháp dạy học tốt nhất để giúp kích thích
khả năng ham học hỏi, say mê nghiên cứu, hình thành ở học sinh những kỹ năng
tự học nhằm rút ngắn thời gian học tập trên lớp mà vẫn đạt hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu của giáo dục và thời đại.
Kiến thức trong mỗi tác phẩm văn học vừa mang tính khái quát, vừa mang
tính cụ thể. Để học sinh cảm nhận tác phẩm bằng chính năng lực của mình,
việc nâng cao năng lực tự học cho học sinh là một sự lựa chọn tối ưu nhất trong
hành trình nâng cao hiệu quả dạy học mà ngýời giáo viên đang kiếm tìm.
Những nội dung kiến thức trong mỗi tác phẩm là yếu tố thuận lợi cho
việc rèn luyện nãng lực cho học sinh THPT, đặc biệt là năng lực tự học. Dưới
sự dẫn dắt, điều khiển của giáo viên, học sinh sẽ được rèn luyện và phát huy
những kỹ năng quan trọng như tự đọc sách, tài liệu, tự phát hiện luận điểm, tự lập
dàn ý, tự tìm dữ liệu cho một nhận định... Từ đó, hình thành cho các em một tư duy
logic, khoa học, một khả năng tự học, tự nghiên cứu bài học, một năng lực độc lập
suy nghĩ.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Thực trạng của vấn đề ở phía giáo viên
Trong những năm gần đây dạy học Ngữ văn ở trường THPT đã có nhiều
chuyển biến tích cực và đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào. Tuy nhiên,
trong dạy học Ngữ văn nói chung và đọc hiểu tác phẩm văn học nói riêng vẫn
đang còn chú trọng truyền thụ kiến thức chứ chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng
và phát triển năng lực tự học cho học sinh.
Để có cơ sở nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát một số giáo viên ở
Trường THPT Kim Liên. Thông qua trao đổi trực tiếp, trao đổi giáo án, dự giờ
trên lớp và điều tra qua phiếu trắc nghiệm khách quan (phụ lục 1). Qua dự giờ
đồng nghiệp, phương pháp dạy học chủ yếu mà giáo viên sử dụng là truyền thụ
tri thức, chưa chú trọng đến thực hành; chưa chủ động sử dụng các phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để phát huy tính chủ động tích cực của học sinh.
8
- Khi hỏi về những phương pháp và kỹ thuật dạy học được áp dụng trong
giờ dạy văn học , hầu hết giáo viên đều chọn thuyết trình, giảng giải tri thức
chưa chú trọng rèn luyện năng lực này trong giờ văn học . Vì thế, việc học sinh
chuẩn bị bài chu đáo ở nhà, giáo viên định hướng giảng giải, giải thích những
thắc mắc, học sinh chủ động nắm bắt tri thức khoa học bằng con đường tự
nghiên cứu, tự học ít khi xảy ra. Chính vì thế cho nên giờ dạy học văn thường
trầm lắng, tạo cảm giác mệt mỏi, không có hứng thú học tập, các em có thái độ
dửng dưng, thờ ơ.
Những tồn tại, hạn chế của giáo viên tất yếu dẫn tới sản phẩm giáo dục
của chúng ta chính là các em học sinh ít nhiều bị ảnh hưởng.Trong học tập nói
chung và trong các bài đọc hiểu nói riêng, nhiều em chưa biết lật đi lật lại vấn
đề, phát hiện thắc mắc, suy nghĩ sâu sắc về vấn đề học tập. Đa số học sinh
chăm chỉ, chịu khó học song các em thiếu phương pháp học tập khoa học,
thường tiếp thu tri thức một cách thụ động bằng cách ghi nhớ, tái hiện. Do đó,
phương pháp tự học văn học chủ yếu là các em cố gắng ghi nhớ toàn bộ lời
giảng của giáo viên rồi cố gắng lặp lại y nguyên, ngại đào sâu suy nghĩ, tìm dấu
hiệu bản chất của nội dung vấn đề nghiên cứu (học vẹt). Bên cạnh đó,việc
kiểm tra đánh giá vẫn nặng về tái hiện kiến thức mà chưa phát huy được sự
sáng tạo của học sinh.
2.2.2 Thực trạng của vấn đề ở phía học sinh
Cũng qua điều tra, tôi nhận thấy, các em rất ngại đọc sách giáo khoa. Hầu
như các em chỉ đọc lướt tác phẩm để biết qua mà chưa có sự suy luận, ghi chép,
để hiểu được vấn đề.
Việc chưa chú trọng chuẩn bị bài trước khi lên lớp đã quyết định rất lớn
đến các hoạt động tự học. Hoạt động chủ yếu của các em là nghe giáo viên
giảng và ghi chép vào vở một cách máy móc, rập khuôn. Các em ít được tham
gia thảo luận, bày tỏ quan niệm, ý kiến riêng của cá nhân hoặc đề xuất các
hướng giải quyết vấn đề... Khi giáo viên đặt câu hỏi trong giờ học các em cũng
ngại xung phong trả lời câu hỏi, chỉ trả lời câu hỏi khi được cộng điểm hoặc bị
chỉ định. Những yếu tố này đã làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người
học, biến người học thành người quen suy nghĩ, diễn đạt bằng ý vay mượn, lời
sẵn có, thành người nô lệ của sách vở; học sinh nắm kiến thức văn học không
vững vàng, chưa có tính hệ thống, dễ dàng quên ngay sau khi tiết học kết thúc.
Điều đó cho thấy phương pháp, hình thức dạy văn học hiện nay chưa tạo sự
hứng thú, chưa kích hoạt được tính chủ động, tích cực của học sinh cũng như
chưa được hình thành và phát triển năng lực tự học.
Trước tình hình thực tế trên, mỗi giáo viên cần mạnh dạn tìm tòi, đổi mới
phương pháp, hình thức dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh để từ đó
các em tích cực, chủ động, sáng tạo tự mình chiếm lĩnh kiến thức. Điều này đặt
ra vấn đề cần rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trong nhà trường THPT,
đặc biệt qua giờ dạy đọc hiểu tác phẩm văn học.
9
- 2.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP “NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO
HỌC SINH TRONG DẠY ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN “CHÍ PHÈO” CỦA
NAM CAO
2.2.1 Các phương pháp dạy học tích cực nhằm hình thành và phát
triển năng lực tự học
2.2.1.1 Phương pháp hướng dẫn Đọc để Tự học
Có rất nhiều tài liệu, sách, báo, đặc biệt là sách giáo khoa HS cần đọc để
học. Trong đó việc đọc trước sách giáo khoa sẽ tạo tiền đề cho việc tiếp thu
kiến thức từ việc dạy học của GV, nó giúp HS biết một cách khái quát về nội
dung sắp được học, phát hiện vấn đề từ đó có nhu cầu giải quyết vấn đề.
Tuy nhiên phần lớn HS chưa biết cách đọc nên không thể đảm bảo đọc là
đã học được. Trước hết GV cần giúp HS phân biệt được các mức độ đọc:
Mức không: nghĩa là HS chỉ thuần túy đọc và tin rằng sau đó lập tức sẽ
hiểu ra. HS chỉ chăm chú làm sao đọc thật nhanh cho xong tài liệu này.
Mức bề mặt: HS đọc với thái độ thụ động, chỉ quan tâm đến: bao quát nội
dung, các em đã đọc được bao nhiêu, tìm đúng được câu trả lời, học đúng nguyên
văn.
Mức bề sâu: HS đọc với thái độ tích cực và quan tâm đến: nội dung
trọng tâm, hiểu nội dung đó nói gì? Từ nội dung này rút ra đươc gì? Nó có liên
quan đến cái gì? Những điểm chưa rõ cần đặt ra vấn đề?
Đọc để học phải là một quá trình tích cực, Vậy làm cách nào để tận dụng
cơ hội cho HS học được nhiều qua việc đọc? Câu hỏi này có thể trả lời bằng
việc GV cần phải nêu yêu cầu và khuyến khích đọc bằng cách:
Đưa ra yêu cầu tìm kiếm một thông tin cụ thể từ cuốn sách đọc.
Đa dạng yêu cầu đối với các đối tượng học sinh khác nhau: thể hiện
theo nhiều mức độ: biết, hiểu, thậm chí là vận dụng nội dung đã đề cập.
Có thể yêu cầu một số nhóm đọc một số tài liệu khác nhau và sẽ trình
bày trước tập thể lớp để trao đổi, bàn luận về một số vấn đề.
Muốn thu được hiệu quả từ việc đọc, GV ngoài việc nêu ra yêu cầu cũng
cần phải cho phép học sinh đọc với tốc độ của các em và rèn cho các em kĩ năng
đọc:
Đọc khảo sát: đọc lướt cả tài liệu, chú ý nội dung và bố cục.
Đặt câu hỏi: trước khi đọc mỗi phần nên đặt ra các câu hỏi: Mình đang
đọc gì? Cần rút ra điều gì ở phần này? Điều mới mẻ và thú vị ở đây?
Đọc nghiền ngẫm tài liệu và cố gắng trả lời từng câu hỏi đã đặt ra ở
trên.
10
- Cuối mỗi phần cần dừng lại để nhấn mạnh, ghi lại những điểm chủ
yếu nhất hoặc những thắc mắc của người đọc.
Đọc xong cuốn sách hình dung lại toàn bộ bố cục, rút ra logic của tài
liệu và đưa ra những nhận xét của bản thân về cuốn tài liệu.
Tuy nhiên ý thức đọc để học của học sinh cũng rất quan trọng. Nhưng
thực tế cho thấy rằng các em không có nhu cầu đọc nên không chủ động tiếp
cận kiến thức. Để kích thích việc đọc một cách hiệu quả hơn tôi thường đặt ra
thang điểm trong kiểm tra thường xuyên cụ thể là 2/10 điểm tùy theo mức đọc
của học sinh từ 1 đến 1,5 điểm đạt được khi các em đọc ở mức bề mặt và 0,5
cho đọc ở mức sâu. Thang điểm này sẽ dần chuyển dịch tăng lên ở mức sâu sau
thời gian rèn luyện kĩ năng đọc ở học sinh.
Chẳng hạn như khi dạy học tác phẩm Chí Phèo của Nam cao, GV yêu cầu
học sinh đọc với mức độ sâu để gợi hứng thú nhập cuộc cho HS khi cảm thụ
tác phẩm. HS căn cứ vào kết cấu của tác phẩm tự tìm ra cách đọc thích hợp với
từng đoạn, từng giọng điệu để có thể diễn tả được cảm xúc phong phú và đa
dạng của truyện ngắn. HS cần đọc ở mức độ sâu để có thể trả lời được các
câu hỏi:
Câu hỏi 1: Cách vào truyện của Nam Cao độc đáo như thế nào? Ý nghĩa
tiếng chửi của Chí Phèo trong đoạn mở đầu?
Câu hỏi 2: Việc gặp Thị Nở có ý nghĩa như thế nào với cuộc đời Chí
Phèo? Những gì đã diễn ra trong tâm hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ đó?
Câu hỏi 3: Phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi bị Thị Nở
từ chối chung sống? Vì sao Chí Phèo có nhành động dữ dội, bất ngờ (uống
rượu, xách dao đi giết Bá Kiến rồi tự sát)?
Câu hỏi 4: Qua hình tượng Chí Phèo, hãy làm rõ nghệ thuật điển hình hóa
của Nam Cao?
Câu hỏi 5: Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả và ngôn ngữ trong truyện có
gì đặc sắc?
Câu hỏi 6: Tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao qua truyện
ngắn này?
2.2.1.2 Phương pháp dạy học theo dự án
a). Khái niệm Dạy học theo dự án
Dạy học dự án là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện
một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực tiễn, thực
hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học
thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định
mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá
11
- quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức làm việc cơ bản của
dạy học dự án
b) Các bước dạy học dự án
Bước 1: Lập kế hoạch: Là bước đầu tiên quan trọng, tất cả các thành
viên trong nhóm cùng tham gia xây dựng.
Lựa chọn chủ đề
Xây dựng tiểu chủ đề
Lập kế hoạch thực hiện các các nhiệm vụ học tập và phân công trong nhóm.
Bước 2: Thực hiện dự án
Thu thập thông tin dưới nhiều hình thức
Xử lí thông tin
Thảo luận nhóm để xử lý thông tin.
Trao đổi và xin ý kiến GV hướng dẫn.
Bước 3: Tổng hợp kết quả
Tổng hợp kết quả, xây dựng sản phẩm
Báo cáo kết quả dự án
Đánh giá và nhận thông tin phản hồi
Rút ra bài học kinh nghiệm sau khi thực hiện dự án.
c) Dạy học dự án truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
Xác định chủ đề và yêu cầu của dự án
Để giúp cho HS khám phá nội dung sáng tác của Nam Cao thì GV cần xây
dựng chủ đề và yêu cầu của dự án có liên quan đến nội dung bài học trên lớp.
Cụ thể, GV cung cấp số đề tài liên quan đến bài học về tác giả Nam Cao, tác
phẩm Chí Phèo cho HS lựa chọn thực hiện.
Dạy học truyện ngắn Chí Phèo, GV có thể cung cấp các đề tài xoay
quanh chủ đề “Người nông dân” hoặc “người trí thức tiểu tư sản” cho HS lựa
chọn để thực hiện. Với những chủ đề lớn và các đề tài nhỏ được đặt ra, GV
yêu cầu mỗi nhóm HS tùy vào sở trường và sở thích, năng lực, năng khiếu của
từng cá nhân, nhóm mà chọn lựa để thể hiện sản phẩm của mình bằng bài viết
nghiên cứu, hay tờ rơi, tập báo ảnh, hoặc clip, phim,... Sau khi các nhóm thực
hiện xong sản phẩm dự án thì tiến hành báo cáo, công bố giới thiệu trước tổ,
lớp, khối hay cả trường.
Mục đích của dự án
+ Giúp HS hiểu sâu về con người và tác phẩm của Nam Cao luôn gắn liền
với những giá trị hiện thức xã hội và giá trị nhân đạo sâu sắc
12
- + Phát triển kĩ năng thu thập thông tin qua sách báo, tranh ảnh, tài liệu
tham khảo, trang mạng, tham quan,… và cả ách xử lí thông tin để trình bày
những hiểu biết của bản thân HS liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp Nam Cao
+ Nhằm giáo dục và nâng cao ý thức cho HS giữ gìn và phát huy những giá
trị văn học.
+ Giúp HS phát triển kĩ năng trình bày trước đám đông cũng như tự bộc lộ, bày
tỏ những suy nghĩ, quan điểm thái độ của bản thân về cuộc đời, sự nghiệp của Nam
Cao
Cách thức thực hiện
Bước 1) Xây dựng kế hoạch thực hiện
Để tổ chức thành công các chủ đề dự án trên, GV hướng dẫn HS biết
cách xây dựng kế hoạch, đảm bảo các mặt (thời gian, phân công công việc trong
nhóm, phương pháp tiến hành, thiết bị cần dùng, kinh phí,…).
Bước 2) Thực hiện dự án
Mỗi nhóm cần xây dựng bản kế hoạch chi tiết cho từng công việc và luôn
thể hiện tinh thần làm việc nhóm, khả năng tư duy sáng tạo, khả năng suy nghĩ
độc lập và cách giải quyết các vấn đề theo sự sáng tạo riêng. Lưu ý, trong quá
trình thực hiện, GV cần động viên, khích lệ HS nhằm phát huy được tất cả
những sở trường, năng lực cá nhân để thực hiện đề tài dự án đạt hiệu quả cao
nhất.
Bước 3) Thu thập kết quả
Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng bài viết nghiên cứu,
báo cáo, hay tờ rơi, báo tường, tập tranh ảnh, clip,… Bài viết có thể được trình
bày trên phần mềm powerpoint, hay dạng văn bản viết, hoặc là các ấn phẩm
(bản tin, báo, áp phích), phim, ảnh,…
Bước 4) Công bố sản phẩm
Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm HS và được
giới thiệu trong toàn trường.
Bước 5) Đánh giá dự án
Đây là giai đoạn kết thúc dự án, ngoài GV kiểm tra, đánh giá thì bản thân
HS, cũng như những người tham dự đều tham gia đánh giá. Từ đó giúp cho mỗi
HS tự nhận thấy được mặt ưu và mặt khuyết của mình để rút kinh nghiệm cho
việc thực hiện đề án tiếp theo.
Tất cả những biện pháp, kĩ thuật dạy học trên sẽ hỗ trợ rất đắc lực cho
GV trong việc dạy học chủ đề truyện hiện đại (Ngữ văn lớp 11).
13
- 2.2.1.3 Phương pháp kiểm tra đánh giá để phát triển năng lực tự học.
Như đã nêu để khuyến kích phát triển năng lực tự học thì GV cần động
viên một cách thiết thực bằng điểm số trong các khâu của quá trình lên lớp, từ
kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố bài học
Bước 1: Qua việc “Kiểm tra bài cũ”. Thường thì trong phần kiểm tra
bài cũ, GV đưa ra câu hỏi kiểm tra kiến thức bài trước đã học. Để tạo hứng thú
cho HS, GV nên khuyến khích các em bằng hệ thống câu hỏi tường minh rõ ràng
tránh quá rộng hoặc quá vụn vặt. Đặc biệt GV đưa ra câu hỏi kiểm tra kiến
thức liên hệ với thực tế hoặc câu hỏi có nội dung liên quan đến bài mới, từ
đó vừa dẫn dắt HS đi vào vấn đề của bài mới vừa đánh giá lượng kiến
thức HS đạt được qua việc tự học của mình. Chú ý câu hỏi cần đặt đúng đối
tượng học sinh theo năng lực chung và năng lực tự học, cần dự kiến trước
phương án trả lời của HS.
Bước 2: Để thực hiện có hiệu quả phải tạo hứng thú trong khâu
“Đặt vấn đề" hoạt động khởi động.
Phần này giáo viên nên đưa ra các tình huống có vấn đề đòi hỏi học sinh tái
hiện kiến thức tự học qua việc đọc để học hoặc đọc tài liệu để hoàn thành hợp
đồng. Những ý kiến HS trình bày chính là nội dung mà học sinh sẽ biết được qua bài
học mới.
Trong hoạt động khởi động khi dạy Bài “Chí Phèo” (Nam Cao).
GV chiếu cho HS xem một trích đoạn vi deo trong bộ phim “Làng Vũ Đại
ngày ấy”. GV đặt câu hỏi cho HS. Câu hỏi: Đoạn clip em vừa xem có những
nhân vật nào? Nhân vật đó gợi cho em nhớ đến tác phẩm văn học nào? Ai là tác
giả?. HS trả lời câu hỏi và GV dẫn vào bài.
Bước 3: Trong quá trình dạy “Bài mới” hoạt động hình thành kiến
thức cũng có thể đánh giá được kiến thức HS có được qua việc tự học.
Việc đánh giá này thể hiện qua các câu hỏi, vấn đề, tình huống mà GV
đặt ra trong quá trình truyền thụ kiến thức lần lượt qua các mức độ tự học để
biết, để hiểu và vận dụng được. Và để khuyến khích việc tự học này GV cần
thể hiện bằng cách cộng điểm khuyến kích cho HS. Nhưng để đảm bảo kiến
thức tự học là khoa học, chính xác thì nhất thiết phải dành thời gian cho học
sinh hoạt động suy nghĩ, thực hành, phán đoán, thảo luận…thời gian càng nhiều
càng tốt, miễn là tổ chức khoa học. Nên có phần dành riêng cho học sinh khá
giỏi, có phần phù hợp với học sinh yếu kém. Như vậy các nhóm học sinh có
trình độ khác nhau đều được thử thách và đánh giá sẽ không gây hiện tượng
nhàm chán hay “ đuối sức” trong tự học nói riêng và học tập nói chung.
GV đặt ra các vấn đề, các câu hỏi, giao nhiệm vụ cho HS (cho nhóm HS), từ đó
sẽ hình thành năng lực tự học cho học sinh. Chẳng hạn khi giao nhiệm vụ cho HS để
14
- đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao), GV nêu vấn đề trong từng nội dung như
sau:
Nội dung 1: Hình ảnh làng Vũ Đại
Câu hỏi 1: Hình ảnh làng Vũ Đại được miêu tả như thế nào trong tác
phẩm? Trong làng tồn tại những mẫu thuẫn gì?
Câu hỏi 2: Theo em làng quê Việt Nam ngày nay có giống với làng Vũ Đại
trong truyện ngắn Chí Phèo không? Từ đó em thấy mình có trách nhiệm gì để
đóng góp, xây dựng quê hương đất nước.
Nội dung 2: Nhân vật Bá Kiến
GV chia lớp thành 2 nhóm, tổ chức trò chơi Ô chữ bí mật, cho HS lần lượt
trả lời các câu hỏi sau:
Hàng thứ 1: Từ ngữ chỉ sự độc ác và hung bạo. → TÀN BẠO
Hàng thứ 2: Từ ngữ chỉ sự khéo léo để lừa đảo. → XẢO QUYỆT
Hàng thứ 3: Kiểu nhà nước nào là kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử xã
hội loài người? → PHONG KIẾN
Hàng thứ 4: Điền từ còn thiếu trong câu thơ sau:
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong … giết người không dao.
→ NHAM HIỂM
Hàng ngang 5: Từ ngữ chỉ sự gian manh, lừa lọc. → ĐỂU CÁNG
Hàng ngang 6: Từ ngữ chỉ cách hành động theo chiều hướng chuyển thiệt
hại của người khác thành lợi ích của mình. → THỦ ĐOẠN
→ Từ ngữ ở ô chữ hàng dọc là: BÁ KIẾN
Từ việc tổ chức trò chơi Ô chữ bí mật, giáo viên hướng dẫn học sinh tự
rút ra những ý kiến then chốt về bản chất con người Bá Kiến.
Nội dung 3: Nhân vật Chí Phèo
Vấn đề 1: Trước khi vào tù, Chí Phèo là một người như thế nào?
Vấn đề 2: Qúa trình tha hóa:
GV yêu HS đọc văn bản kết hợp với phần chuẩn bị phiếu học tập ở nhà
trả lời theo một số câu hỏi gợi ý để tìm hiểu khái quát về quá trình tha hóa của
Chí Phèo như sau:
+ Giai đoạn 1: Từ người nông dân lương thiện bị tha hóa thành lưu manh.
+ Giai đoạn 2: Từ thằng lưu manh trở thành con quỷ dữ.
15
- Vấn đề 3: Quá trình hồi sinh
GV chia lớp thành 04 nhóm, mỗi nhóm nhận 1 nhiệm vụ.
Nhóm 1: Tìm những chi tiết nói về sự tỉnh rượu của Chí Phèo.
Nhóm 2: Tìm những chi tiết nói về sự tỉnh ngộ của Chí Phèo.
Nhóm 3: Tìm những chi tiết nói về sự ngạc nhiên, xúc động của Chí Phèo.
Nhóm 4: Tìm những chi tiết nói về những hy vọng, khao khát của Chí
Phèo.
Như vậy, dạy học nêu vấn đề sau khi học sinh đọc sâu tác phẩm có thể
phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi học sinh nhằm chuẩn bị cho các em
thích ứng và hội nhập tốt đối với xã hội đang phát triển và thay đổi liên tục.
Việc dạy học nêu vấn đề sẽ tạo cho học sinh sự hưng phấn, hứng thú khi lĩnh
hội kiến thức trong giờ học làm cho việc học tập sẽ sôi nổi, hào hứng và dễ
dàng hơn.
Bước 4: Trong phần “củng cố, đánh giá” hoạt động luyện tập
Khi đánh giá GV phải đưa ra một số câu hỏi trắc nghiệm gọn, dễ nhớ;
hoặc câu hỏi tự luận mang tính khái quát, vận dụng, liên hệ thực tế. Yêu cầu
học sinh làm trên phiếu học tập hoặc làm trên giấy, bảng cá nhân. Sau đó giáo
viên nêu đáp án, biểu điểm, học sinh có thể chấm bài của bạn. Khi chấm bài
của bạn giúp các em lần nữa khắc sâu kiến thức cho bản thân mình, nếu cá nhân
hoặc nhóm hoạt động tốt nhanh có kết quả đúng thì cũng có thể ghi điểm hoặc
có thưởng (điểm cộng hay đơn giản tràng pháo tay khích lệ).
Trong hoạt động luyện tập khi dạy truyện ngắn Chí Phèo của Nam
Cao,giáo viên giao bài tập sau cho học sinh
Trăng nở nụ cười
Đâu Thị Nở, đâu Chí Phèo
Đâu làng Vũ Đại đói nghèo Nam Cao
Vẫn vườn chuối gió lao xao
Sông Châu vẫn chảy nôn nao mạn thuyền
Ả ngớ ngẩn
Gã khùng điên
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người
Vườn sông trăng nở nụ cười
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau
Giữa đời vàng lẫn với thau
16
- Lòng tin còn chút về sau để dành
Tình yêu nên vị cháo hành
Đời chung bát vỡ thơm lành lứa đôi.
(Lê Đình Cánh)
Đọc bài thơ trên và thực hiện những yêu cầu sau từ câu 1 đến câu 3:
1/ Xác định thể thơ? Chép lại 2 câu thơ sử dụng nhịp lẻ trong bài thơ?
2/ Các từ ngữ Thị Nở;Chí Phèo;làng Vũ Đại đói nghèo;ngớ ngẩn;khùng
điên;Vườn sông;trăng;cháo hành;lứa đôi..đạt hiệu quả nghệ thuật như thế
nào khi người đọc liên tưởng tới truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao?
3/ Nêu và phân tích hiệu quả nghệ thuật biện pháp tu từ về từ trong hai câu
thơ:Vườn sông trăng nở nụ cười/Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau.
Bước 5: Ở phần “hướng dẫn về nhà”hoạt động vận dụng, mở rộng:đây
là phần hết sức quan trọng bỡi lẽ nó giúp HS được định hướng nội dung cần tự
học trước vì vậy GV nên giao các công việc cụ thể cho các em. Cũng có thể
cho HS sưu tầm mẫu vật hay tranh ảnh, hoặc cũng có thể cho học sinh tìm hiểu
một số vấn đề có liên quan đến bài học , từ các công việc đó giúp các em khám
phá, thích tìm hiểu khoa học hơn cũng như tạo thói quen tự học cho các em.
Khi dạy truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao,giáo viên giao bài tập cho
học sinh làm ở nhà ,nộp sản phẩm vào tiết sau:
Nếu được viết một kết thúc khác cho truyện Chí Phèo, em sẽ viết như thế
nào?
Tình cảm nào của nhà văn Nam Cao dành cho người nông dân trong tác
phẩm khiến em cảm động nhất? Vì sao?
Sự cảm thông và tình thương của Thị Nở đã giúp Chí Phèo mong muốn
hoàn lương về cuộc sống lương thiện (Giá trị sống yêu thương). Các em đã rút
ra được bài học gì cho bản thân đối với gia đình, bạn bè?
Đánh giá:
Với việc đánh giá học sinh trong quá trình dạy học qua 5 bước lên
lớp này, giáo viên sẽ đánh giá được một cách tổng quát về học sinh của mình
trên mọi khía cạnh, từ ý thức tự học, năng lực tự học, tiếp cận kiến thức, thế
giới quan khoa học, khả năng phát hiện vấn đề, khả năng tiếp thu kiến thức đến
khả năng vận dụng giải thích các vấn đề liên quan đến kiến thức đã học...
17
- ̣
Bên canh nh ưng ph
̃ ương phap day hoc theo đăc tr
́ ̣ ̣ ̣ ưng cua bô môn Ng
̉ ̣ ư văn,
̃
̣ ́ ương phap day hoc tich c
viêc phat huy cac ph
́ ́ ̣ ̣ ́ ực cung gop phân vao viêc đôi m
̃ ́ ̀ ̀ ̣ ̉ ới
phương phap day hoc Ng
́ ̣ ̣ ư văn đat hiêu qua.
̃ ̣ ̣ ̉
2.2.2 Các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm hình thành và phát triển
năng lực tự học.
2.2.2.1 Kĩ thuật chia nhóm
Tổ chức học sinh làm việc theo nhóm là giải pháp đảm bảo quá trình học
tập diễn ra tích cực và hiệu quả, qua đó giờ học trở nên mềm mại, linh hoạt,
không rập khuôn, máy móc. Mặt khác, tổ chức thảo luận nhóm còn tận dụng tối
đa các nguồn lực dạy học và tạo không gian hoạt động đa dạng, nâng cao khả
năng hợp tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh.
Vai trò chính của việc thảo luận nhóm là tạo môi trường học tập đa thông
tin cho học sinh, tạo cơ hội giúp học sinh tự nghiên cứu, tự bộc lộ để thể hiện
năng lực và kết quả nghiên cứu của cá nhân, tự kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập và nghiên cứu. Thông qua thảo luận nhóm học sinh không chỉ được học tri
thức, kinh nghiệm, thái độ mà còn được các kỹ năng thực hành, kỹ năng hợp tác,
học cách tương tác, giúp các em phát triển ý thức làm việc tập thể, phát huy trí
tuệ tập thể, phát huy tính tích cực, năng lực tự học của bản thân như năng lực
tổ chức, quản lí, tạo điều kiện để học sinh trải nghiệm thành công hay thất bại
của mình. Từ đó, kiến thức thu được của học sinh tăng thêm tính khách quan,
khoa học, sâu sắc, bền vững, dễ nhớ. Học sinh được trình bày ý kiến của mình,
biết lắng nghe, có phê phán ý kiến của bạn từ đó học sinh dễ hòa nhập, tạo cho
các em sự tự tin, hứng thú trong học tập.
Khi tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách
chia khác nhau gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo cơ hội cho các em được học
hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp.
Khi đứng trước nhiều nhiệm vụ cần giải quyết một lúc, hoặc để phát huy sự
giao lưu, hợp tác, tinh thần đoàn kết giữa các học sinh chúng ta có thể sử dụng kĩ
thuật này.
Với truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Khi hướng dẫn HS đọc hiểu,
GV lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học và PPDH phù hợp với đặc trưng thể
loại. Khi tổ chức Hoạt động hình thành kiến thức, GV chia nhóm và giao nhiệm vụ
cụ thể:
Nhóm 1: Lai lịch, tính cách của Chí Phèo trước khi vào tù?
Nhóm 2: Sự thay đổi về nhân hình, nhân tính và ý nghĩa tiếng chửi của Chí
Phèo sau khi ra tù?
Nhóm 3: Qúa trình thức tỉnh của Chí Phèo (Diễn biến khi gặp Thị Nở)
18
- Nhóm 4: Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí.
Nhóm 5: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm?
Khi HS giải quyết được các nhiệm vụ GV giao cho, các em sẽ hình thành
các năng lực: Năng lực hợp tác; Năng lực tự học, Năng lực sáng tạo; Năng lực
giải quyết vấ đề… Từ cuộc đời của Chí Phèo, học sinh sẽ nhận thức được
nhiều vấn đề
2.2.2.2 Kỹ thuật bản đồ tư duy
Không phải các môn học khác mới có thể dùng kĩ thuật này mà ngay cả
môn Ngữ văn nếu chúng ta biết sử dụng hợp lý thì cũng mang lại hiệu quả rất
cao.
Sau khi hướng dẫn học bài “Chí Phèo” giáo viên cho HS vẽ lại sư đồ tư duy
để khái quát lại nội dung bài học. Học sinh đã khái quát bài học bằng sơ đồ tư duy
sau:
2.2.2.3 Kĩ thuật “trình bày 1 phút”
Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại các kiến thức đã học và đặt
câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng cách bài trình bày ngắn
19
- gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi đưa ra sẽ giúp củng cố quá
trình học tập của các em và cho các em thấy được các em đã hiểu vấn đề như
thế nào.
2.3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Dạy học theo định hướng năng lực đặc biệt là năng lực tự học là một
trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và với môn Ngữ văn
nói riêng. Đây được coi là một quan điểm dạy học hiện đại, phát huy được tính
tích cực chủ động của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng dạy học.
Dạy học nhằm hình thành và phát triển năng lực tự học làm cho việc dạy
văn và học văn không chỉ dừng lại ở vệc thuyết trình, ghi chép đơn thuần lý
thuyết, nó thực sự đưa học sinh nhập cuộc, bằng kiến thức văn và biến kiến
thức đó thành sản phẩm thực tế.
Quá trình dạy học nhằm hình thành và phát triển năng lực tự học cũng
đem đến cho bản thân người giáo viên cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề dạy và
học văn trong trường phổ thông qua cái nhìn của chính các em, từ đó có thể có
những sự điều chỉnh phù hợp, hiệu quả hơn trong việc dạy và học văn.
Với đặc điểm là một môn học có vai trò quan trọng trong việc hình thành
nhân cách cho học sinh, ngoài ra môn Ngữ văn cũng liên quan đến nhiều môn
học và nhiều vấn đề thực tiễn đời sống xã hội nên tôi đã xây dựng tiết học để
giúp các em học sinh tự thấy được khả năng của mình, giúp các em phát huy
được sở trường và năng lực vốn có mà bấy lâu nay chưa được thể hiện . Qua đề
tài này, tôi chỉ mong muốn hình thành ở các em thói quen tự học, tạo hứng thú
cho học sinh khi học tập, nhờ đó mà học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, tự
khám phá và tìm hiểu các dung lượng bài học , từ đó sẽ góp phần nâng cao hơn
nữa chất lượng giảng dạy bộ môn ngữ văn ở trường trung học phổ thông. Tuy
nhiên, với phạm vi đề tài của cá nhân tôi chỉ dừng lại biên soạn hai tiết học
dành cho học sinh lớp 11 khi đọc hiểu tác phẩm “Chí Phèo” (Nam Cao) phần II
Tác phẩm
2.3.1. Mục đích thực nghiệm
Qúa trình thực nghiệm nhằm đánh giá tính khả thi, tính hiệu quả khi thực
hiện đề tài. Kết quả thu được từ thực nghiệm sự phạm sẽ là cơ sở chứng minh
tính khoa học, tính đúng đắn, tính khả thi của các giải pháp mà đề tài đề xuất.
Từ đó bồi dưỡng, phát triển năng lực tự học cho HS một cách hiệu quả.
2.3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
a) Đối tượng, địa bàn: Đối tượng để chọn thực nghiệm là HS lớp
11A2,11ª4,11C2,11C4 Trường THPT Kim Liên, 100% HS có học lực từ trung
bình trở lên. Lớp thực nghiệm đã sử dụng các giải pháp “Nâng cao năng lực tự
học trong dạy Đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao” như đã đề xuất ở
phần nội dung .
20
nguon tai.lieu . vn