Xem mẫu

  1.                                          Sáng kiến kinh nghiệm                                             Đề tài:       Một số kinh nghiệm dạy học chủ đề môn Ngữ văn THPT Tác giá: Võ Anh Tiến – Dương Như Quỳnh  Chuyên ngành: Phương pháp dạy học văn Đơn vị: Trường THPT Thanh Chương 3.        A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đổi mới quan điểm, phương pháp dạy học  được coi  là  khâu then chốt  quyết định sự  thành công trong chương trình cải cách của nền giáo dục nhằm  đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp giáo dục đào tạo trong thời kì công nghiệp   hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm giáo dục mới đã chỉ ra rằng “Nội dung   giáo dục phải đảm bảo tính cơ  bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ   thống”,“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động,   tư duy sáng tạo của người học” (Điều 5, Luật giáo dục ban hành 2002). Vì vậy,   yêu cầu của quá trình dạỵ học là kết hợp kiến thức với kĩ năng, phát triển năng   lực, phẩm chất gắn liền với thực tiễn cuộc sồng. Trên tinh thần đó rất nhiều   hình thức, phương pháp dạy học được đưa vào chương trình đào tạo ở mọi cấp   học và bước đầu đã có những kết quả tích cực. Hình thức dạy học  theo chủ  đề  tích hợp  được coi là một phương pháp  dạy học hiện đại đáp ứng được cơ bản quan điểm đổi mới hiện nay. Hình thức  này được chính thức đưa vào áp dụng trong nhà trường phổ  thông từ  năm học  2002­2003, khi chúng ta tiến hành cải cách giáo dục  ở  cấp THCS  và hiện nay  đang được áp dụng trên mọi môn học, cấp học. Trong chương trình dạy học văn ở trường phổ thông, dạy học theo chủ đề  tích hợp đang được triển khai ngày càng sâu rộng, từng bước nâng cao và hoàn   thiện. Có thể nói, đây là hình thức dạy học có nhiều ưu thế, có tính khả thi trong   dạy học nói chung và dạy học văn nói riêng. Tuy nhiên, là một phương pháp mới   nên trong quá trình thực hiện  đang gặp nhiều khó  khăn. Những bất cập về  chương trình sách giáo khoa hiện hành, những hạn chế  về  tài liệu tham khảo,   về kinh nghiệm dạy học... đang là những thử thách không nhỏ. Là một giáo viên giảng dạy môn Ngữ  văn ở  THPT, tôi nhận thấy cần có  những hành động từ nhiều phía để hoàn thiện hình thức dạy học này. Đúc rút từ  thực tế  dạy học, qua nghiên cứu lý thuyết về  phương pháp, tôi đã nhận thức  2
  2. được một số vấn đề và xin trình bày qua đề tài: “Một số kinh nghiệm dạy học   Chủ đề tích hợp môn Ngữ văn THPT” Bàn về một phương pháp dạy học là bàn về một vấn đề khoa học đòi hỏi  phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu. Hơn nữa, trước một vấn đề  mới đòi hỏi phải có thời gian để  thẩm định.  Ở  đây, trong khuôn khổ  của một   công trình nghiên cứu nhỏ, tôi chỉ đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân, với   hi vọng làm thấu triệt hơn hình thức dạy học đang được quan tâm này.  II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trên   cơ   sở   khảo   cứu   thực   trạng,   tiến   hành   nghiên   cứu   lý  thuyết  về  phương pháp dạy học theo chủ đề,  về  lý thuyết của ngành lý luận phê bình văn  học, tôi đã phối hợp vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: ­ Phương pháp khảo cứu khoa học  ­ Phương pháp phân tích tổng hợp ­ Phương pháp so sánh đối chiếu ­ Phương pháp phân loại thống kê... III. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Ngoài phần đặt vấn đề, phần kết luận chung, đề  tài có một số  nội dung   được chia thành các chương sau: ­ Chương 1:  Cơ sở lý luận và thực tiễn ­ Chương 2: Một số kinh nghiệm dạy học chủ đề tích hợp ­ Chương 3: Thực nghiêm đề tài  IV. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI ­ Trên cơ  sở  trình bày một số  kinh nghiệm đúc rút được trong thực tế  giảng dạy chủ  đề  tích hợp môn Ngữ  văn  ở  THPT, hi vọng đề  tài sẽ  có những   kiến giải rõ hơn, tạo được những hướng đi hướng tích cực cho hình thức dạy   học này. ­ Đề tài không phải là những nghiên cứu mang tính lý thuyết mà chủ yếu  xoay quanh những vướng mắc có tính phổ  biến trong thực tế  dạy học nên có  thể áp dụng dễ dàng. ­ Đề tài đề cập tới việc áp dụng một số lý thuyết của ngành Lý luận phê  bình văn học nên nó có tính “ khai mở”, từ kết quả của đề tài này có thể gợi ra  những nhận thức mới và áp dụng vào dạy học trong chương trình   Ngữ  văn  THPT. 3
  3. ­ Trên cơ  sở  những vấn đề  từ  lý thuyết và thực tiễn giảng dạy, những  phát hiện và đề xuất của đề tài không chỉ có ý nghĩa trong dạy học theo chủ đề  của bộ môn Ngữ văn, mà tiến xa hơn trong dạy học chủ đề của những môn học   khác. ­ Bên cạnh những kiến giải làm rõ hơn những vấn đề có tính lý thuyết về  phương pháp,  đề  tài còn đưa ra một số  đề  xuất mới có tính khả  thi trong các  hoạt động dạy học giúp mang lại những hiệu quả nhất định. 4
  4.           B.NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN I.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số nhận thức chung về dạy học theo chủ đề tích hợp 1.1.1.1 Thế nào là tích hợp?  Theo từ điển Tiếng Việt:“Tích hợp là sự kết hợp các hoạt động, chương   trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có   nghĩa là sự thống nhất sự hòa hợp, sự kết hợp”.  Trong khoa học giáo dục “Tích  hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu giảng dạy, học tập của   cùng một lĩnh vực hoặc một vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế  hoạch   dạy học”. 1.1.1.2. Dạy học chủ đề tích hợp là gì? Dạy học theo chủ  đề  tích hợp là hình thức lựa chọn một số  đơn vị  kiến  thức có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau dựa trên các mối quan hệ về lý luận   và thực tiễn được đề  cập trong các môn học, các hợp phần của môn học làm   thành một nội dung dạy học, kế hoạch dạy học. Từ đó giúp cho việc dạy học  có tính hệ thống, khoa học, đồng thời tác động một cách tích cực vào quá trình  tự chiếm lĩnh và vận dụng tri thức vào thực tiễn của người học. Dạy học chủ đề tích hợp được coi là một hình thức dạy học phù hợp với  quan điểm giáo dục trong thời kì mới ­ lấy học sinh làm trung tâm, chú trọng tới  mục tiêu phát triển phẩm chất năng lực, gắn kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Về  thuật ngữ, hiện có hai cách gọi tên: “Dạy học theo chủ  đề” và “Dạy  học theo chủ đề  tích hợp”. Nội hàm của hai thuật ngữ  này về  cơ  bản là giống  nhau, có nghĩa là chúng đều là những hình thức dạy học dựa trên sự  tích hợp  những kiến thức nội dung để  xây dựng thành một kế  hoạch, một phương án  dạy học. Tuy nhiên cũng có khi người ta phân biệt “Dạy học theo chủ  đề” chỉ  dừng lại  ở  sự  liên kết các đơn vị  kiến thức trong phạm vi một môn học, còn  “Dạy học theo chủ đề tích hợp” là mở rộng liên kết kiến thức liên môn hoặc là   liên phân môn (trong các môn học có nhiều hợp phần). Như vậy, vấn đề  thuật   ngữ cũng cần phải có sự thống nhất. Theo cá nhân tôi thì hai thuật ngữ trên đều  chỉ một hình thức dạy học mà bản chất như nhau. Sử dụng thuật ngữ “Chủ đề  tích hợp” bao hàm hơn và đúng với tính chất của hình thức dạy học này. Về quan điểm, có một số  cho rằng dạy học theo chủ đề  chỉ  là hình thức  giải quyết vấn đề  về  mặt nội dung kiến thức không liên quan đến phương   pháp, một số  khác lại quan niệm đây là hình thức bao hàm cả  mặt nội dung và  5
  5. phương pháp. Tuy nhiên theo quan điểm giáo dục hiện nay giữa nội dung và  phương pháp luôn gắn bó với nhau, kết hợp với nhau để  hướng tới mục tiêu  chung. Mục tiêu của dạy học theo chủ đề  tích hợp là tạo ra một năng lực bền   vững trong cấu trúc tâm lý của người học. Vì thế, các chủ  đề  được xây dựng  thành những  kế hoạch dạy học cụ thể  bao hàm cả nội dung lẫn phương pháp. Hiện nay việc triển khai hình thức dạy học này đã phổ  cập trong toàn hệ  thống giáo dục. Tuy nhiên, dựa trên phạm vi và mức độ tích hợp, ở mỗi cấp học   có sự  khác nhau.  Ở  cấp Tiểu học và Trung học cơ  sở  đã  ở  mức tích hợp liên  môn còn  ở  cấp Trung học phổ  thông chỉ  dừng lại  ở  cấp độ  đơn môn hay liên   phân môn (ở  các môn học có nhiều hợp phần). Điều này phụ  thuộc vào nhiều   yếu tố  như: nội dung chương trình, yêu cầu, mục tiêu giáo dục trong từng cấp   học...  1.1.1.3. Tính ưu việt của hình thức dạy học theo chủ đề tích hợp Quan điểm về nội dung và phương pháp giáo dục của Nhà nước ta là giáo   dục toàn diện. Điều 5 Luật Giáo dục ghi rõ: “Nội dung giáo dục phải đảm bảo   tính cơ  bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ  thống”, “Phương pháp   giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động, tư  duy sáng tạo của   người học”.  Quan điểm đó đã được cụ  thể  hóa trong việc biên soạn chương  trình và sử  dụng phương pháp theo hướng tích hợp. Điều này đã trở  thành một  tiêu chí đánh giá hiệu quả trong dạy học. Từ quan điểm đó chúng ta thấy việc áp dụng dạy học theo chủ đề đã đáp  ứng được cơ bản yêu cầu của giáo dục hiện nay. Thứ  nhất,  dạy học theo chủ  đề   ở  bậc THPT là sự  cố  gắng tăng cường   tích hợp kiến thức, làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là   sự  tích hợp vào nội dung những ứng dụng kĩ thuật và đời sống thông dụng làm   cho nội dung học có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn.  Thứ hai, dạy học theo chủ đề tập trung xây dựng những nội dung học tập  mang tính tổng quát liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đơn vị  kiến thức tránh   được tình trạng tổ  chức học tập kiến thức đơn lẻ, cô lập hoặc trùng lặp, giúp  cho quá trình học tập khoa học và có hiệu quả. Thứ ba, mô hình dạy học này tạo điều kiện để học sinh có cơ hội tổ chức  nhiều hoạt động học tập tích cực, khả  năng tự  chiếm lĩnh kiến thức, khả  năng   phát triển và mở rộng kiến thức, áp dụng vào thực tiễn. 1.1.2. Đặc thù của môn Ngữ văn và việc áp dụng  dạy học theo chủ đề   tích hợp 1.1.1.1. Mối liên kết giữa bộ môn Ngữ văn với các bộ môn học khác. Môn Ngữ  văn được coi là môn học mang tính công cụ  và tính thẩm mĩ ­   nhân văn; giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ  sỏ  để  học tập tất cả  6
  6. các môn học và hoạt động khác trong nhà trường. Nội dung môn Ngữ văn mang   tính tổng hợp, bao gồm cả  tri thức văn hóa, đạo đức, triết học...liên quan tới  nhiều môn học khác như  Địa lý, Lịch sử, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ, các  hoạt động trải nghiệm, hướng nghiêp...Môn Ngữ  văn cũng liên quan mật thiết  với cuộc sống giúp học sinh hình thành nhiều phẩm chất, năng lực thẩm mĩ, bồi  dưỡng tư tưởng, tình cảm, phát triển tâm hồn và nhân cách. Từ “tính liên quan”  và “giao thoa”  của môn học, chúng ta có thể xây dựng được nhiều chủ đề  tích  hợp liên môn nhằm tăng cường các năng lực về văn học, ngôn ngữ, kĩ năng vận   dụng kiến thức vào cuộc sống và định hướng nghề nghiệp cho học sinh.  1.1.1.2. Mối liên kết giữa các phân môn trong bộ môn Ngữ Văn Môn Ngữ Văn có ba phân môn là Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn. Xét về  nội dung, kiến thức, mục tiêu cần đạt của các phân môn có quan hệ  mật thiết  với nhau đó là đều hướng tới năng lực sử  dụng Tiếng Việt và khả  năng cảm   thụ  văn chương. Có thể  nói rằng, mối liên kết giữa các phân môn của bộ  môn   Ngữ Văn giống như “kiềng ba chân”. Trong dạy học văn cần phải đặt mối liên   kết này như một yêu cầu bắt buộc hướng tới mục tiêu chung và mang lại những  hiệu quả  thiết thực. Năng lực ngôn ngữ  khi học Tiếng Việt sẽ hỗ  trợ đắc lực  cho việc đọc hiểu văn bản và ngược lại. Từ  đó, nâng cao kĩ năng làm văn và  định hướng hình thành phẩm chất năng lực cho học sinh.   Mỗi phân môn có rất nhiều bài học, nhiều đơn vị kiến thức tương đồng,  giao thoa cần phải tích hợp một cách có hệ  thống để  việc dạy học đáp  ứng   được tính khoa học và hiệu quả.   Cả  ba phân môn được đưa vào một kế  hoạch dạy học cụ  thể, do một   giáo viên phụ trách trên một đơn vị lớp học, đó là những điều kiện thuận lợi cho  việc xây dựng kế hoạch dạy học theo chủ đề tích hợp. Xét những đặc điểm trên chúng ta thấy áp dụng hình thức Dạy học theo   chủ  đề  tích hợp  ở  môn Ngữ  văn là hết sức cần thiết, phù hợp với quan điểm  giáo dục chung, với kế hoạch xây dựng chương trình tổng thể. 1.1.1.3. Một số lý thuyết của ngành Lý luận phê bình văn học phù hợp với  dạy học chủ đề tích hợp Hoạt động nghiên cứu văn học có rất nhiều ngành khác nhau, áp dụng lý  thuyết của một số  ngành trong hoạt động dạy học là điều rất cần thiết. Trong  quá trình khai thác tác phẩm văn học giáo viên có thể mở  rộng áp dụng một số  lý thuyết khác có tính khả  thi cao như  Thi pháp học, Liên văn bản, Cấu trúc   học... Đây là những phương pháp ưu việt đã được áp dụng rộng rãi trong nghiên  cứu văn học và ít nhiều được sử  dụng trong dạy học văn  ở  nhà trường. Nhìn   chung các lý thuyết này đều tiếp cận văn chương trên cơ sở khoa học, khai thác  thác tác phẩm dựa trên tính hệ  thống, tính phổ  quát tránh được sự  “ võ đoán”,  “cảm tính” còn tồn tại trong kiểu học văn cũ.  7
  7. Dạy học theo chủ đề tích hợp dựa trên quan điểm tìm những điểm tương  đồng, gần gũi về  mặt kiến thức của những bài học để  khai thác. Áp dụng   những lý thuyết này chắc chắn sẽ  đem đến những điều bổ  ích, lý thú và hiệu   quả trong quá trình dạy học.  Trong khuôn khổ  đề  tài này tôi chỉ  áp dụng lý thuyết Thi pháp học để  minh chứng cho những quan điểm nêu trên.  1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Những yêu cầu thực tiễn Xuất phát từ mục tiêu đào tạo con người có tri thức mới, năng động sáng   tạo khi giải quyết các vấn đề  trong thực tiễn cuộc sống, xu hướng tích hợp   trong hoạt động dạy học, trong đó có dạy học Văn đang được áp dụng và thử  nghiệm một các rộng rãi và đồng bộ. Trong dự thảo của bộ GD và ĐT năm 2002  cũng đã ghi rõ:  “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ  đạo để  tổ  chức   chương trình biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp dạy học”,   “Nguyên tắc tích hợp cũng phải được quán triệt trong toàn bộ môn học từ  Đọc   văn, Tiếng Việt đến Làm văn, quán triệt trên mọi khâu của quá trình dạy học,   quán triệt trong mọi yếu tố  của quá trình hoạt động học tập; tích hợp trong   chương trình; tích hợp trong sách giáo khoa; tích hợp trong các sách đọc thêm,   tham khảo”. Trong các hoạt động chuyên môn của giáo viên  ở  trường học, việc áp   dụng  hình thức dạy học theo chủ đề tích hợp cũng được triển khai ở nhiều hình   thức hoạt động từ hội thảo đến dạy học thực nghiệm, tổ chức biên soạn...  Như  vậy, dạy học văn theo chủ  đề  tích hợp là xu hướng tất yếu không  cần phải bàn cãi. Vấn đề ở đây là áp dụng như thế nào cho có hiệu quả. Vì vậy   chúng ta cần phải có nhiều những nghiên cứu khoa học, nhiều sáng kiến để phát  triển và hoàn thiện thêm. 1.2.2. Thực trạng dạy học 1.2.2.1. Về nội dung chương trình Hiện nay, chương trình Ngữ  văn THPT đã đưa vào thực hiện một số chủ  đề. Về  cơ  bản chúng đã thể  hiện tính chất và yêu cầu của hình thức dạy học   này. Tuy nhiên, nhìn chung mới chỉ  dừng lại  ở  chủ  trương, định hướng, việc  triển khai thực hiện còn mang tính hình thức, chưa mang lại hiệu quả. Theo kế  hoạch dạy học được triển khai đầu năm học, tùy vào thực tế, các trường phổ  thông tự quyết định lựa chọn chủ đề theo định hướng từ tài liệu hướng dẫn của  Bộ và Sở giáo duc.Việc biên soạn chương trình chưa có những quy cách cụ thể  thống nhất. Bên cạnh đó các tài liệu hướng dẫn, nguồn tham khảo còn hạn chế  nên việc thực hiện gặp nhiều khó khăn. 8
  8. Ở  chương trình Ngữ  văn THPT việc áp dụng cũng đang  ở  mức độ  hạn   chế (Năm hoc 2020­2021  ở đơn vị  chúng tôi chỉ  áp dụng bảy chủ  đề  cho cả  ba  khối 10, 11,12). Số lượng chủ đề ít, hơn nữa kế hoạch chưa mang tính tổng thể  nên hoạt động dạy học còn mang tính hình thức. 1.2.2.2. Về hoạt động dạy học * Về phía giáo viên  Là một hình thức dạy học mới nên giáo viên còn thiếu kinh nghiệm nhiều   mặt trong quá trình thực hiện. Thứ  nhất, việc biên soạn giáo án còn “mò mẫm”,  chưa xác định được  những nội dung kiến thức bài học. Do những  đơn vị  được tích hợp thường   nhiều (từ  2 bài trở  lên), hơn nữa không chỉ  có tích hợp cùng phân môn mà còn  tích hợp liên phân môn nên việc xác định lựa chọn những nội dung kiến thức   trong bài học còn hạn chế. Một số  giáo án chưa xác định được những yêu cầu   về mặt thời lượng, dung lượng, các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của bài học  nên còn rơi vào tình trạng  ôm đồm, dềnh dàng, rối rắm.  Thứ hai, giáo viên còn thiếu phương pháp lên lớp. Trong dạy học chủ đề  tích hợp đòi hỏi giáo viên phải sử  dụng các phương pháp một cách linh hoạt.  Dạy học theo chủ  đề  tích hợp đòi hỏi học sinh phải hoạt động nhiều hơn, các   hoạt động cũng phong phú hơn, chính vì vậy vai trò hướng dẫn của giáo viên  cũng đòi hỏi sát hơn, cụ  thể  hơn. Những hạn chế  thường gặp như: học sinh   thường rơi vào thế bị động do việc hướng dẫn chuẩn bị bài của giáo viên chưa  tốt, hệ  thống câu hỏi trong giờ  học còn vụn vặt, thiếu liên kết, các hoạt động  phối hợp nhóm mang tính hình thức, chưa thể hiện được tinh thần tích hợp của   bài học...dẫn tới giờ học kém hiệu quả.  * Về phía học sinh  Xuất phát từ thói quen học tập (học theo các đơn vị bài học riêng lẻ) nên   việc tiếp nhận phương pháp mới gặp nhiều khó khăn. Những khó khăn này bắt đầu ngay từ khâu chuẩn bị bài. Trước đây các em   chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu một văn bản, một bài học với dung lượng thời gian   trong vòng một vài tiết. Các yêu cầu cũng đơn giản, chủ  yếu là trả  lời các câu  hỏi có sẵn trong sách giáo khoa. Hình thức dạy học mới này yêu cầu các em  phải chuẩn bị cho một hệ thống bài học kết hợp với nhiều lĩnh vực khác nhau vì  thế học sinh không xác định được yêu cầu học tập dẫn đến “tâm thế” đón nhận  bài mới không tốt. Thói quen tư duy của học sinh đang nặng về kiểu tư duy đơn lẻ thiếu khả  năng tổng hợp khái quát, thiếu liên kết, đang là rào cản lớn khi dạy học theo chủ  đề tích hợp. Ví dụ: khi dạy chủ đề  Văn xuôi thời kì kháng chiến chống Mỹ các  em có thế   hiểu được những nét tính cách, phẩm chất của các nhân vật Chiến   9
  9. Việt, Tnú... nhưng các em không thể  khái quát được “kiểu” nhân vật của thời   đại, kiểu nhân vật được xây dựng bởi quan niệm nghệ thuật về con người của   văn học thời kì chiến tranh chống Mỹ. Hay khi học chủ  đề   Kí hiện đại Việt   Nam các em không biết vận dụng một số kiến thức đã học về các phương thức  biểu đạt, các thao tác lập luận để khai thác tác phẩm. Điều này do nhiều yếu tố,   nhưng chủ yếu do thói quen tiếp nhận, thói quen tư duy của kiểu học cũ để lại. Dạy học theo chủ đề tích hợp là hình thức dạy học mở, từ một bài học cụ  thể  sẽ  mở  ra cho học sinh con đường tự  chiếm lĩnh, đòi hỏi các em tự  tìm tòi  khám phá để  phát triển, hoàn thiện về  kiến thức và kĩ năng. Tuy nhiên do điều  kiện về khách quan và chủ  quan (thiéu thời gian học, thiếu nguồn tài liệu tham  khảo, thiếu định hướng, tâm lý học để thi...) nên hiệu quả còn hạn chế. * Thực trạng chung Từ  những lý do nêu trên, qua thực tiễn , tôi có nhận xét chung về  thực  trạng dạy học như sau: Một số giờ dạy còn rơi vào tình trạng “ Bình mới rượu cũ”; dạy học theo   chủ đề tích hợp nhưng khi tiến hành dạy học lại sử dụng phương pháp cũ. Giáo  viên dạy thứ tự từng tác phẩm riêng rẽ ở phần đọc hiểu rồi ra bài tập vận dụng   liên quan đến phần Tiếng Việt và Tập làm văn làm cho bài học rời rạc thiếu hệ  thống. Một số  giờ  dạy có sử  dụng tích hợp nhưng còn “sống sượng”, “khiên  cưỡng” chỉ mang tính hình thức minh họa về kiến thức mà thiếu phương pháp. Một số giờ học chỉ chú ý đến “ tích hợp dọc” (tích hợp ở  phần đọc hiểu   văn bản) mà không hoặc hạn chế về hoạt động “Tích hợp ngang” (liên kết với  kiến thức Tiếng Việt và Tập làm văn) nên giờ học chỉ đáp ứng được phần  nào  yêu cầu về mặt kiến thức, chưa đáp ứng được yêu cầu về kĩ năng. Một số  giờ  dạy còn rơi vào tình trạng thuyết giảng, hoạt động chỉ  thiên  về  một phía, học sinh rơi vào thế  thụ  động nên giờ  học thiếu hào hứng, kém  hiệu quả.                                             * *              * Trước những tồn tại nêu trên, đang rất cần những đóng góp để hình thức   dạy học này được hoàn thiện và mang lại hiệu quả thiết thực. Với kinh nghiệm   qua nghiên cứu và thực tiễn, một số đề xuất trong đề tài này hi vọng sẽ giúp ích  phần nào cho giáo viên khi giảng dạy các chủ  đề  tích hợp trong chương trình  Ngữ Văn PTTH. 10
  10. Chương 2 MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY HỌC CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP 2.1. Cách xây dựng chủ đề tích hợp 2.1.1. Xác định yêu cầu mục tiêu, nguyên tắc phương pháp tích hợp Như đã nói trên, hiện nay trong chương trình Ngữ văn THPT đã có một số  chủ đề tích hợp được lựa chọn và đưa vào dạy học, nhưng nhìn chung số lượng  và mức độ chưa đáp ứng đươc yêu cầu. Các chủ đề được lựa chọn đều dựa trên   chương trình sách giáo khoa hiện hành nên có những bất cập trong việc lựa   chọn bài học (Tình trạng thừa và thiếu ngữ  liệu). Trong điều kiện hiện nay,  việc xây dựng chủ  đề  tích hợp chỉ  mang tính tương đối trên tinh thần định  hướng để  hoàn thiện một kế  hoạch tổng thể, Căn cứ  vào thực tế  nêu trên, khi  lựa chọn và xây dựng các chủ đề cần xác định được một số yêu cầu sau: *Mục tiêu: Mục tiêu tích hợp được xem là “ Kim chỉ nam” cho chủ đề tích hợp nhằm  trả lời cho câu hỏi sử dụng tích hợp trong bài dạy để làm gì ?  Trên cơ sở đó cần phải xác định: ­ Dạy học chủ  đề  tích hợp nhằm cung cấp các kiến thức theo tính hệ  thống, khoa học. ­ Thể hiện tính liên kết trong chương trình ­  Nhằm  phối  hợp giữa cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ  năng, bồi   dưỡng năng lực, phẩm chất chất cho người học. *Nội dung :  Xác định nội dung của chủ đề  là lựa chọn những kiến thức cần tích hợp   trong chương trình để xây dựng chủ đề. Việc chọn lựa này cần dựa trên những  tiêu chí như: ­ Các nội dung kiến thức có những điểm tương đồng, gần gũi (về  nội   dung tư tưởng lẫn hình thức thể hiện) ­ Các nội dung kiến thức cần thể  hiện được sự  liên kết, tương hỗ  (liên   kết và tương hỗ giữa các phân môn) Ví dụ: ­ Chủ  đề  Văn xuôi thời kì chống Mỹ  ­ Nghị  luận về  một tác phẩm, một   đoạn trích văn xuôi tích hợp những  tác phẩm cùng tương đồng thể loại (Truyện   ngắn) gần giũi nhau về nội dung (cùng viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ) kết  hợp với một số kiến thức kĩ năng làm bài văn nghị luận như phân tích một nhân  vật, khai thác một chi tiết nghệ thuật, nhận xét về một biện pháp nghệ thuật... 11
  11. Hay:  Tích hợp hai bài kí thuộc thể  Tùy bút kết hợp với các kiến thức, kĩ năng  về các thao tác lập luận và các phương thức biểu đạt thành một chủ đề   Kí hiện   đại ­ Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, các thao tác lập luận  nhằm  hình thành khả năng khai thác kiến thức đọc hiểu và bồi dưỡng kĩ năng làm văn  nghị luận.  *Nguyên tắc:  Xác định nguyên tắc là để trả  lời câu hỏi: Sử  dụng PPDH tích hợp trong  bài dạy xuất phát từ những cơ sở nào ?  Đó là : ­ Phải căn cứ vào mục tiêu cần đạt của tiết học. ­ Phải căn cứ  vào nội dung chương trình hiện hành (các bài học hiện có  trong chương tình) ­ Phải xác định yêu cầu chính, phụ  của nhiệm vụ  học tập (ưu tiên phần   Đọc hiểủ hay phần Tiếng Việt và Tập làm) ­ Phải lựa chọn tính mới, cũ của kiến thức dạy học (phần Đọc hiểu là  mới, Tiếng Việt, Tập làm văn là cũ) ­ Phải xác định  ưu tiên về  yêu cầu kiến thức và kĩ năng (phần Đọc hiểu  chủ yếu là kiến thức, phần Tiếng Việt và Tập làm văn là kĩ năng) ­ Phải phù hợp với đối tượng học sinh (phù hợp với trình độ  tiếp nhận   của đối tượng dạy học)   *Phương pháp:  Trả  lời cho câu hỏi: Cách thức sử  dụng phương pháp  tích hợp như thế nào? Vì thế cần sử dụng các cách thức sau: ­  Xác định  nội dung, phạm vi kiến thức cần tích hợp. Một chủ đề có rất nhiều ngữ liệu được đưa vào (các văn bản văn học, các  bài học về  phần Tiếng Việt, Tập làm văn) với lượng kiến thức lớn nên giáo  viên không thể cùng một lúc chuyển tải hết tất cả. Tùy từng mục đích dạy học  cụ  thể  mà giáo viên lựa chọn kiến thức thích hợp, dựa trên yêu cầu:  tiêu biểu,  giao thoa và liên kết  ­  Lựa chọn ngữ liệu tích hợp. Lụa chọn ngữ liệu tích hợp là việc phát hiện và lựa chọn những biểu hiện  tiêu biểu về mặt nội dung, hình thức nghệ thuật của tác phẩm để phân tích khai   thác, những kiến thức của phần Tập làm văn, Tiếng Việt để vận dụng. Ví dụ : Khi dạy chủ  đề  Kí hiện đại ­ vận dụng kết hợp các phương thức biểu   đạt các thao tác lập luận trong văn nghị  luận chúng ta chọn một số  đoạn văn  trong hai bài Kí để  phân tích làm rõ nghệ  thuật của các phương thức biểu đạt  như miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, các thao tác lập luận như so sánh, phân tích  để hình thành kiến thức kĩ năng làm văn cho học sinh. Khi dạy chủ  đề  Văn xuôi thời kì chống Mỹ  ­ nghị luận về một tác phẩm   một đoạn trích văn xuôi có thể  chọn đoạn văn mở  đầu của tác phẩm Rừng xà  12
  12. Nu làm ngữ liệu hay một số hình tượng nghệ thuật như hình tượng rừng Xà Nu,  hình tượng buôn làng Xô Man, hình tượng “dòng sông truyền thống”, nhân vật   Tnú, nhân vật Chiến, Việt và  một số chi tiết nghệ thuật khác để phân tích. Trên   cơ sở đó hình thành kĩ năng cụ thể cho học sinh  khi làm bài văn nghị luận. ­ Sử dụng các biện pháp tích hợp Có hai hình thức tích hợp cơ bản sau :  Tích hợp ngang: là hình thức tích hợp liên môn, liên phân môn được sử  dụng trong quá trình dạy học. Đối với môn Ngữ văn, giáo viên sử dụng tri thức   của các phân môn Tiếng Việt, Lí luận văn học, Làm văn để giải mã văn bản văn  học, ngược lại từ đọc hiểu văn bản học sinh có được những kiến thức cũng như  kĩ năng về  các phân môn khác. Nói chung tích hợp ngang được coi là yêu cầu   thiết yếu để thực hiện mục tiêu phát triển năng lực toàn diện. Ví dụ: Khi dạy các đoạn trích trong truyện Kiều ta có thể  áp dụng kiến  thức về  các biện pháp tu từ  để  khai thác văn bản và Hiểu được nghệ  thuật sử  dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du sẽ góp phần nâng cao khả năng sử dụng Tiếng  Việt cho học sinh Tích hợp dọc: là tích hợp theo thể loại, đề  tài, chủ đề  của tác phẩm văn  học. Mục đích của việc tích hợp này chủ yếu là so sánh, đối chiếu giữa các bài   học các đơn vị  kiến thức có quan hệ  tương đồng, từ  đó giúp cho quá trình học  diễn ra một cách có hệ thống, khoa học.   Ví dụ: Khi dạy chủ  đề  Thơ  Mới chúng ta bắt đầu từ  phương diện khai  thác “cái tôi trữ tình” trong thơ mới để  thấy sự  tương đồng cũng như  khác biệt  trong từng tác phẩm từ  đó khám phá những giá trị  nội dung và hình thức nghệ  thuật.  2.1.2. Lựa chọn, sắp xếp kiến thức trong bài học Một chủ  đề  dạy học là tổng hợp một khối lượng kiến thức khá lớn về  nhiều lĩnh vực khác nhau được thực hiện trong một lượng thời gian có hạn. Có  những kiến thức tương đồng, có những kiến thức khác biệt, những kiến thức   liên quan... Vì thế không thể ôm đồm để giải quyết hết trong một bài học. Hơn   nữa theo nguyên tắc của hình thức dạy học này là tích gộp và liên kết nên cần   phải lựa chọn và sắp xếp các đơn vị kiến thức một cách hợp lý, làm thế nào để  quá trình dạy học diễn ra đúng như mục tiêu, yêu cầu đã định. Khi lựa chọn nội dung kiến thức cho bài học cần đảm bảo một số  tính  chất như: *Tính chọn lọc Chọn lọc kiến thức đòi hỏi giáo viên dựa trên yêu cầu cần đạt và mục tiêu  bài học tìm tòi những đơn vị nội dung phù hợp vào quá trình dạy học. Để  tránh  13
  13. tình trạng “ôm đồm” giáo viên phải xác định được những kiến thức được coi là  trọng tâm, tiêu biểu và phù hợp với đặc thù của hình thức dạy học. Ví dụ:   Khi dạy chủ  đề  Kí hiện đại tích hợp với bài Vận dụng kết hợp các  phương thức biểu đạt và các thao tác lập luận trong văn nghị luận. Giáo viên có   thể chọn dạy một số đoạn văn trong hai tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật miêu   tả, biểu cảm, một số nghệ thuật so sánh liên tưởng để  hình thành kiến thức kĩ  năng tập làm văn cho học sinh.   Khi dạy chủ đề Văn xuôi thời kì kháng chiến chống Mỹ tích hợp với Nghị  luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi, giáo viên không thể dạy tuần tự  từng tác phẩm theo kiểu truyền thống mà chọn dạy những kiến thức “có vấn   đề” nhóm thành một đơn vị kiến thức của bài học thể hiện qua các mục, phần.  Ví dụ  như: hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm (cả  hai tác phẩm   đều ra đời  trong thời kì ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ); cấu trúc cốt truyện  (cả hai đều có cấu trúc độc đáo: truyện lồng trong truyện của  Rừng Xà nu, theo  dòng hồi ức của Những đứa con trong gia đình); cách xây dựng hình tượng nghệ  thuật trong các tác phẩm (xây dựng hình tượng các nhân vật qua các thế hệ, xây   dựng những hình tượng  ẩn dụ  như  hình tượng Rừng Xà nu, hình tượng Dòng  sông truyền thống); tư tưởng chủ đề  của các tác phẩm (đều ngợi ca sức mạnh  đoàn kết, tinh thần, ý thức đánh giặc của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến  chống Mỹ).  Việc lựa chọn kiến thức trong một bài học tùy thuộc vào mục đích của  từng chủ  đề  cụ  thể    nhưng cần phải đảm bảo yêu cầu chung về  những tính   chất như:  *Tính hệ thống Một bài học luôn được coi là một “công trình khoa học”, là một chỉnh thể  trọn vẹn về  nội dung và hình thức. Dạy học theo chủ  đề  tích hợp là tổng hợp  kiến thức của nhiều bài học, nhiều lĩnh vực khoa học vì thế  đòi hỏi phải có sự  sắp xếp các nội dung kiến thức hợp lý khoa học phù hợp với “mạch” của bài   giảng và tâm lý tiếp nhận của học sinh, để  mang lại hiệu quả  tối  ưu cho giờ  học. Xuất phát từ  đặc điểm của hình thức dạy học này tôi nhận thấy cần phải   sắp xếp nội dung bài học theo cấu trúc sau: Dạy kiến thức khái quát trước. Khi tích hợp hai hay nhiều văn bản đọc hiểu trong một chủ đề cần hướng  dẫn cho học sinh cách thức khai thác kiến thức trên cơ sở  trang bị cho học sinh   những kiến thức chung về văn học sử  (bối cảnh lịch sử  , văn hóa, xã hội, đặc  điểm của các giai đoạn, trào lưu, xu hướng...), kiến thức về thể loại (đặc điểm  loại hình, cấu trúc, thi pháp thể loại..); kiểu tác giả (các yếu tố về thời đại, hệ  tư  tưởng, hoàn cảnh sống..). Từ  đó học sinh có thể  nắm được cách thức đọc   14
  14. hiểu loại văn bản đã tích hợp làm tiền đề  cho quá trình phân tích, khai tác tác   phẩm. Dạy đọc hiểu chi tiết văn bản sau   Sau khi học sinh đã nắm được những kiến thức khái quát, những kĩ năng  đọc hiểu văn bản đã được định hình, giáo viên hướng dẫn khai thác những kiến  thức cụ  thể  trong các văn bản trên cơ  sở  sở  so sánh để  học sinh nắm được  những giá trị nội dung, nghệ thuật. Dạy học đọc hiểu văn bản kết hợp với rèn kĩ năng làm văn, tiếng Việt  Tính hệ  thống không đơn giản chỉ  là việc sắp xết thứ  tự  trước, sau của   kiến thức bài học mà nó còn thể hiện tính đan xen, liên kết một cách khoa học  về  kiến thức. Sự  kết hợp giữa phần đọc hiểu văn bản và các phân môn khác  nhiều khi không thể  tiến hành một cách rạch ròi thông qua các phần, các mục   mà cần phải khéo léo tích hợp để việc tiếp thu của học sinh diễn ra một cách tự  nhiên, không gò ép.  *Tính giao thoa, liên kết  Tính giao thoa là thể  hiện  ở  những nét tương đồng của các văn bản đọc   hiểu. Những văn bản trong chủ đề sẽ  có rất nhiều điểm tương đồng về đề  tài,  chủ  đề, thể  loại, cấu trúc...đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi phát hiện, lựa chọn   những kiến thức được coi là hợp lý nhất, nhóm thành các đơn vị  trong cấu trúc  nội dung của bài học Tính liên kết là tính chất liên quan kiến thức giữa các phân môn. Mỗi chủ  đề được xây dựng trên cơ sở tích hợp, xâu chuỗi những kiên thức của các phân  môn khác nhau nhằm hình thành cho học sinh những kĩ năng cụ  thể. Một văn  bản đọc hiểu hàm chứa rất nhiều những kiến thúc về  tiếng Việt, Tập làm văn  và ngược lại cần rất nhiều kiến thức về tiếng Việt, tập làm văn để  khai thác   văn bản đọc hiểu. Trong một bài học giáo viên cần lựa chọn những biểu hiện  nào (về chi tiết nghệ thuật, cấu trúc văn bản, ngôn ngữ thể hiện..) của tác phẩm  để làm dữ liệu thực hành là hết sức quan trọng. *Tính định lượng Tính định lượng là xác định đúng, đủ  dung lượng kiến thức phù hợp vói  thời gian dạy học trong một chủ đề. Thời lượng của chủ  đề  được hoạch định   trong kế hoạch dạy học phù hợp với chương trình chung của môn học. Chúng ta   cũng không thể  cộng gộp thời lượng các đơn vị  bài học được tích hợp thảnh  tổng thời lượng của chủ đề (ví dụ: Khi dạy chủ đề Kí hiện đại không thể cộng   các các đơn vị bài Ai đã đặt tên cho dòng sông bao nhiêu tiết, bài  Người lái đò   Sông Đà bao nhiêu tiết, Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, các thao  tác lập luận bao nhiêu tiết thành tổng thời lượng chung của chủ đề), cũng không  thể phân chia mỗi bài là bao nhiêu thời gian. Một chủ đề  được xây dựng thành   15
  15. một kế hoạch dạy học thống nhất trong một lượng thời gian h ợp lý. Việc phân  chia thời gian phải được dựa trên những nhiệm vụ học tập trong quá trình hình  thành kiến thức chứ  không phải là phép chia kiến thức cơ  học. Sắp xếp, phân  chia các nhiệm vụ trong từng tiết học để quá trình chiếm lĩnh kiến thức diễn ra   một cách hợp lý, khoa học cũng là một yêu cầu quan trọng trong tiến trình dạy  học. 2.2. Sử dụng một số phương pháp trong hoạt dạy học 2.2.1. Hoạt động chuẩn bị bài Hoạt động chuẩn bị bài  hết sức quan trọng, đó là quá trình chẩn bị  “tâm  thế đón đợi” tạo điều kiện tốt cho việc tiếp thu bài học mới. Ở  hình thức dạy   học này, yêu cầu của hoạt động chuẩn bị  bài phức tạp hơn, nặng nề hơn cách   học truyền thống, ngoài việc tham khảo bài mới (ở  phần Đọc hiểu) học sinh   còn phải ôn tập bài cũ (ở các bài Văn học sử, Tập làm văn, Tiếng Việt) trên cơ  sở  xác định được nhiệm vụ, yêu cầu của bài học sắp tới. Do một số  hạn chế  trong chương trình biên soạn sách giáo khoa hiện hành, để  tránh tình trạng học  sinh lúng túng, bị động trong việc tiếp thu bài mới, giáo viên cần phải thể hiện   vai trò của mình nhiều hơn trong việc hướng dẫn học sinh làm tốt các nhiêm vụ  trong hoạt đông này. Hoạt động chuẩn bị bài được phân chia theo các phần sau: 2.2.1.1. Tham khảo ngữ liệu bài mới. Ngữ liệu tham khảo cơ bản là những văn bản đã có trong sách giáo khoa.   Nhiệm vụ của học sinh trước hết là đọc văn bản, trả lời các câu hỏi hướng dẫn  học bài trong sách giáo khoa. Công việc này tương tự  như  công việc soạn bài  trong cách học truyền thống.Tuy nhiên, dạy học theo chủ  đề  tích hợp đòi hỏi  học sinh cùng một lúc phải tham khảo nhiều văn bản, ngoài việc nắm được  kiến thức từng văn bản còn phải nắm được kiến thức “liên văn bản”. Có nghĩa   là phải xâu chuỗi được hệ thống kiến thức, hiểu được ý nghĩa tích hợp của các   văn bản. Vì thế ngoài những câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài ở sách giáo  khoa giáo viên phải bổ sung những câu hỏi, định hướng tiếp nhận cho học sinh. 2.2.1.2. Ôn tập bài cũ Ôn tập bài cũ là củng cố  lại những kiến thức đã học trong chương trình  để phục vụ cho học tập bài mới. Mục đích của dạy học theo chủ đề tích hợp là   liên kết kiến thức và rèn luyện kĩ năng. Ôn tập kiến thức của các phân môn  Tiếng Việt, Tập làm văn là để chuẩn bị tốt cho việc khai thác các kiến thức đọc  hiểu. Quá trình này được xem như  việc chuẩn bị  “công cụ” để  “ đào xới” tác   phẩm và ngược lại công việc “đào xới” sẽ có tác dụng “mài sắc” công cụ. Căn cứ vào mục đích yêu cầu và mục tiêu bài học mà giáo viên cần hướng  dẫn học sinh ôn tập những kiến thức nào để chuẩn bị cho bài mới 16
  16. 2.2.1.3. Hoạch định thời gian chuẩn bị. Do dung lượng kiến thức và thời gian dạy học chủ  đề  rất lớn nên giáo   viên cũng cần có kế  hoạch để  học sinh đủ  thời gian thực hiện nhiệm vụ  của   mình  2.2.1.4. Chuẩn bị các phương tiện học tập Hoạt động dạy học theo chủ đề   đòi hỏi tích hợp ngữ  liệu  ở nhiều vùng  khác nhau vì thế  giáo viên và học sinh cần chuẩn bị các phương tiện như  máy   chiếu, máy tính xách tay, máy thu phát âm thanh... để quá trình dạy học diễn ra  thuận lợi. Hình thức dạy học này cũng đòi hỏi nhiều hoạt động khác nhau vì thế cần   chuẩn bị  một số  phương tiện như  bảng biểu, phiếu học tâp, các phương tiện   thực hiện hoạt đông nhóm.. Ví dụ: Khi thực hiện dạy học chủ đề  Văn xuôi thời kì chống Mỹ ­ Nghị luận về   một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi, giáo viên phải hướng dẫn học sinh thực  hiện các nhiệm vụ chuẩn bị bài như sau: ­ Đọc kĩ hai tác phẩm Rừng Xà nu của Nguyễn Trung Thành và   Những   đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, trả  lời các câu hỏi trong phần hướng   dẫn học bài ở sách giáo khoa ­ Đọc lại bài Khái quát văn học Việt Nam từ  Cách mạng tháng tám năm   1945 đến hết thế kỉ XX để  nắm được các kiến thức về  hoàn cảnh lịch sử  thời   đại, đặc điểm về nội dung và hình thức qua một số câu hỏi như: Văn học Cách  mạng Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến 1975 diễn ra trong bối cảnh lịch sử văn   hóa như thế nào? Nêu những đặc điểm về nội dung của giai đoạn văn học này?   Tính sử thi được thể hiện như thế nào trong văn học thời kì chống Mỹ? ... ­ Ôn tập kiến thức về bài Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn   xuôi trên cơ  sở  yêu cầu học sinh nắm được cách nghị  luận về  một đoạn trích  văn xuôi, cách làm bài văn nghị luận về một tác phẩm, cách phân tích một nhân   vật, một chi tiết, một hình tượng nghệ thuật... ­ Phân chia nhóm chuận bị  các đồ  dùng học tập, một số  tranh  ảnh minh   họa. ­ Thời gian chuẩn bị trước ba ngày 2.2.2.  Biên soạn hệ thống câu hỏi và bài tập vận dụng 2.2.2.1. Yêu cầu chung: Câu hỏi trong dạy học là linh hồn của tiết học. Hệ  thống câu hỏi trong  dạy học chính là vấn đề  giáo viên đặt ra trên cơ  sở  logic bài dạy, yêu cầu học   sinh thực hiện dựa trên nền tảng kiến thức sẵn có nhằm hoàn thành mục tiêu bài  17
  17. học. Câu hỏi trong dạy học có vai trò cực kỳ  quan trọng: tạo môi trường giao   tiếp; tạo môi trường học tập; là công cụ  khai thác kiến thức, phát triển tư  duy  cho người học; đồng thời câu hỏi để kiểm tra, đánh giá kết quả của người học. Trong dạy học theo chủ đề tích hợp hệ thống câu hỏi lại càng quan trọng  vì nó sẽ là linh hồn của rất nhiều hoạt động, nhiều yêu cầu phức hợp. Hơn nữa   hình thức dạy học theo chủ đề dặc biệt chú trọng hướng tới năng lực và phẩm  chất, vì thế ngoài những yêu cầu chung của một bài học thông thường cần phải  thể hiện được những biện pháp mang tính đặc thù của hình thức dạy học này. 2.2.2.2. Cách biên soạn ­ Dựa vào bảng miêu tả năng lực Dạy học theo chủ  đề  tích hợp chú trọng đến phát triển phẩm chất năng  lực nên việc biên sọạn các câu hỏi phải dựa trên cơ sở của bảng mô tả đánh giá  năng lực học sinh; mục đích, yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, phẩm chất theo các  mức độ  từ  thấp đến cao. Chính vì thế  cần phải xác định câu hỏi  ở  tất cả  các   mức độ năng lực.  Sau đây là ví dụ minh họa bảng mô tả đánh giá trong một chủ đề  BẢNG MÔ TẢ MỨC ĐỘ ĐÁNH GIÁ CHỦ ĐỀ (Bảng mô tả về những chủ đề thuộc thể loai truyện) Thông hiểu Vận dụng Nhận biết Cấp độ thấp Cấp độ cao ­   Nêu   thông   tin  ­   Lý   giải   được   mối­    Vận   dụng   hiểu­    So   sánh   các   phương  về   tác   giả,   tác  quan   hệ,   ảnh   hưởngbi   ết về  tác giả, tácdi   ện   nội   dung   nghệ  phẩm, hoàn cảnh  của   hoàn   cảnh   sángph   ẩm để viết đoạnthu   ật giữa các tác phẩm  sáng tác, thể loại tác với việc xây dựngvăn     giới   thiệu   về cùng   đề   tài,   hoặc   thể  cốt   truyện   và   thể tác giả, tác phẩm loại,   phong   cách   tác  hiện   nội   dung,   tư  giả. tưởng của tác phẩm ­ Hiểu, lý giải ý nghĩa  nhan đề ­ Nhận diện  ­ Phân tích giọng kể,­    Khái   quát   được­ Trình bày nh   ững kiến  được ngôi kể,  ngôi kể  đối với việcđ  ặc   điểm   phonggi   ải   riêng,   phát   hiện  trình tự kể thể  hiện nội dung tư cách của tác giả  từ sáng tạo về văn bản. 18
  18. tưởng của tác phẩm. tác phẩm ­ Nắm được cốt  ­ Lý giải sự phát triển­ Khái quát các đ   ặc­ Bi   ết tự  đọc và khám  truyện,   nhận   ra  của   cốt   truyện,   sự điểm   của   thể   loạiphá các giá tr   ị  của một  đề tài, cảm hứng  kiện,   mối   quan   hệ từ tác phẩm văn   bản   mới   cùng   thể  chủ đạo giữa các sự kiện loại ­   Liệt   kê/chỉ  ­ Giải thích, phân tích­    Trình   bày   cảm­ V   ận dụng tri thức đọc  ra/gọi   tên   hệ  đặc điểm, ngoại hình,nh   ận về tác phẩm – hiểu văn bản để  tạo  thống   nhân   vật  tính   cách,   số   phận  lập   văn   bản   theo   yêu  (xác   định   nhân  nhân vật. cầu. vật   trung   tâm,  ­ Đánh giá khái quát  ­ Đưa ra những ý kiến  nhân   vật   chính,  về nhân vật quan điểm riêng về  tác  phụ) phẩm,   vận   dụng   vào  tình   huống,   bối   cảnh  thực để nâng cao giá trị  sống cho bản thân ­   Phát   hiện,   nêu  ­ Hiểu, phân tích  Thuyết minh về tác ­   Chuyển   thể   văn   bản  tình   huống  được ý nghĩa của tình phẩm (vẽ tranh, đóng kịch...) truyện huống truyện ­ Nghiên cứu khoa học,  dự án. ­   Chỉ   ra/kể   tên/  ­   Lý   giải   được   ý  liệt kê được các  nghĩa và tác dụng của  chi   tiết   nghệ  các từ  ngữ, hình  ảnh,  thuật   đặc   sắc  chi   tiết   nghệ   thuật,  của   mỗi   tác  câu văn, các biện pháp  phẩm/đoạn   trích  tu từ... và các đặc điểm  nghệ   thuật   của  thể loại truyện. CÂU   HỎI   ĐỊNH   TÍNH,   ĐỊNH  BÀI TẬP THỰC HÀNH LƯỢNG ­ Trình bày miệng, thuyết trình ­ Trắc nghiệm khách quan ­ So sánh tác phẩm, nhân vật theo chủ đề ­   Câu   tự   luận   trả   lời   ngắn   (lý   giải,  ­ Đọc diễn cảm, kể  chuyện sáng tạo, trao  nhận xét, phát hiện, đánh giá...) đổi thảo luận ­ Bài nghị luận (trình bày suy nghĩ, cảm  ­ Nghiên cứu khoa học... nhận, kiến giải riêng của cá nhân...) ­   Phiếu   quan   sát   làm   việc   nhóm,   tao  đổi,   thảo   luận   về   các   giá   trị   của   tác  19
  19. phẩm ­ Sử dụng các loại câu hỏi phù hợp với các tình huống hoạt động học tập Các dạng câu hỏi khác nhau được ưu tiên bố trí từng hoạt động khác nhau  của quá trình dạy học + Loại câu hỏi biết  là loại câu hỏi được dùng để học sinh nhớ lại những   kiến thức đã học đây là loại câu hỏi đơn giản chủ  yếu được dùng trong phần  chuẩn bị  bài phần đầu của mỗi hoạt động. Giáo viên nhằm để  hỏi   nhằm tái  hiện  các kiến thức đã học như những kiến thứcvề văn học sử, kiến thức Tiếng   Việt, Tập làm văn: những kiến thức liên quan làm công cụ để học bài mới.  Ví dụ: Khi học chủ đề Văn xuôi thời kì chống Mỹ ­ Nghị luân về một tác   phẩm, một đoạn trích văn xuôi có thể dùng câu hỏi: Em hãy nhắc lại một số đặc   điểm về nội dung, nghệ thuật của văn học cách mạng thời kì chống Mỹ?  + Câu hỏi hiểu: Nhằm kiểm tra học sinh các liên hệ kết nối  chỉ nên đặt   ở  trung tâm các hoạt động. Ví dụ:  Tìm một số  điểm chung về  đề  tài, chủ  đề   của hoàn cảnh ra đời của hai tấc phẩm Rừng xà nu ( Nguyễn Trung Thành) và   Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)? + Câu hỏi vận dụng: Nhằm kiểm tra khả năng áp dụng những thông tin   kiến thức đã thu được vào tình huống mới. Ví dụ: Tại sao nói truyện ngắn thời   kì chống Mỹ là những truyện ngắn xung kích? + Câu hỏi phân tích: là dạng câu hỏi nhằm kiểm tra khả  năng phân tích  vấn đề từ đó tìm ra mối liên hệ vận dụng phối hợp các kiến thức đã học để đưa   ra cách giải quyết vấn đề, chứng minh luận  điểm. Ví dụ:   Tại sao nói hình   tượng rừng Xà Nu là biểu tượng cho phẩm chất và sức mạnh của người dân   Tây nguyên trong kháng chiến chống Mỹ + Câu hỏi đánh giá: nhằm kiểm tra năng lực suy xét, cân nhắc, phán đoán  của học sinh về  các vấn đề  dựa trên những tiêu chí đưa ra. Ví dụ:  tại sao nói  hình tượng Làng Xô Man trong tác phẩm Rừng Xà nu và hình tượng Dòng sông   truyền thống trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình đều chứa đựng   những thông điệp về tinh thần tư tưởng của nhân dân Việt Nam trước cuộc đối   đầu với đế quốc Mỹ? + Câu hỏi tổng hợp: là loại câu hỏi thường yêu cầu đề xuất, sáng tạo, dự  đoán, tưởng tượng, xây dựng. Loại câu hỏi này thường đặt  ở  cuối bài học. Ví   dụ: Từ hai tác phẩm Rừng Xà Nu và Những đứa con trong gia đình em học được   gì về lòng yêu nước, về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với Tổ quốc? Mỗi hoạt động chỉ  nên dành ít câu hỏi tránh tình trạng bị  “loãng” trong   mạch tư  duy của học sịnh. Hơn nữa, trong dạy học chủ đề  không phải tất cả  các hoạt động đều phải tổ chức ở trên lớp mà có một số hoạt động có thể giáo   20
nguon tai.lieu . vn