Xem mẫu

  1. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài Chương trình Giáo dục phổ thông mới (hay còn gọi là chương trình GDPT 2018) là bước đột phá trong việc nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Trước tiên là thay đổi cách tiếp cận từ nội dung sang hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực người học; được xây dựng trên quan điểm coi mục tiêu giáo dục phổ thông là giáo dục con người toàn diện, phát triển hài hòa về đức, trí, thể, mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo. Chương trình giáo dục mới đã đặt ra 6 nhóm phẩm chất cốt lõi mà chúng ta mong muốn hình thành ở học sinh bao gồm: Yêu nước, nhân ái, chăm học chăm làm, tự chủ, trung thực, trách nhiệm. Muốn đạt được mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới, trước tiên cần quan tâm giáo dục đạo đức học sinh mà ở đó GVCN có vai trò rất quan trọng. Về đối tượng người học, xét một cách khoa học, học sinh THPT đa phần ở độ tuổi 15-18, độ tuổi có nhiều thay đổi nhất về thể chất cũng như tâm sinh lý. Các em chưa phải là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ con, có khả năng nhận thức nhưng nhận thức đó chưa thật sự chín chắn và có thể sai lệch nếu không được định hướng. Thực tế học đường hiện nay đang xảy ra các tình trạng báo động như bạo lực học đường, học sinh sa vào các tệ nạn xã hội, tình yêu tuổi học trò và những hệ lụy dẫn đến bỏ học và kết hôn sớm, phẩm chất đạo đức của một số em học sinh bị giảm sút… Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do vấn đề giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường chưa được quan tâm đúng mức, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường và xã hội. Chưa tạo điều kiện để học sinh tham gia vào các hoạt động xã hội, các câu lạc bộ, nhóm thanh niên tình nguyện…nhằm rèn luyện kỹ năng, trau dồi nhân cách cho các em. Mà nhà trường là nơi đào tạo thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, trong đó thầy cô giữ vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Trong sự nghiệp trồng người ấy, hơn ai hết học sinh sẽ trực tiếp chịu ảnh hưởng nhân cách của các nhà sư phạm. Đặc biệt các em sẽ chịu tác động trực tiếp từ phương thức giáo dục của GVCN lớp. Chúng ta ai cũng biết rằng mỗi tập thể học sinh là mỗi mảnh ghép trong một bức tranh toàn cảnh của tập thể lớn nhà trường. Mỗi tập thể lớp có một không gian, một sắc màu riêng. Mỗi tập thể lớp có những thế mạnh, những điểm yếu khác nhau nhưng đều chịu tác động bởi mục tiêu giáo dục chung của nhà trường. Tập thể học sinh có vững mạnh hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng yếu tố ảnh hưởng lớn nhất vẫn là vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Khi một tập thể lớp đoàn kết vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động của tập thể đó, nhất là hoạt động học tập. Do đó trong những năm làm công tác chủ nhiệm tôi luôn quan tâm đến việc xây dựng một tập thể lớp đoàn kết. Thực hiện tốt nhiệm vụ này, sẽ tạo nên sự gắn kết, tính kỹ luật, kỹ cương cho học sinh, đồng thời tạo ra phong trào thi đua 1
  2. trong lớp học, giúp các em tập trung học tập, rèn luyện nhân cách và phát triển kỹ năng sống. Từ thực tiễn công tác và những kết quả đạt được tôi mạnh dạn đề xuất đề tài SKKN: “Một số biện pháp xây dựng tập thể đoàn kết của giáo viên chủ nhiệm lớp”. Những biện pháp này tôi áp dụng tập thể lớp 11A4 năm học 2019-2020 tại trường THPT Diễn châu 5. II. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, thực trạng của đề tài, người viết đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng tập thể lớp đoàn kết vững mạnh. III. Đối tượng nghiên cứu. Tập thể lớp 11A4 trường THPT Diễn Châu 5 do bản thân tôi trực tiếp làm công tác chủ nhiệm trong năm học 2019 – 2020. IV. Nội dung nghiên cứu Một số biện pháp xây dựng tập thể đoàn kết của giáo viên chủ nhiệm lớp. V. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp nghiên cứu về lí luận Thu thập và đọc các tài liệu lý luận, các văn bản pháp qui về vị trí, vai trò, chức năng, phẩm chất cần có, những năng lực sư phạm cần thiết của người làm công tác chủ nhiệm lớp. Từ đó phân tích và tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan đến SKKN. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp thống kê: + Thống kê kết quả học tập rèn luyện của học sinh theo học kì, theo năm học để so sánh đối chiếu. + Thông qua sơ yếu lí lịch, qua trao đổi, giao tiếp… tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh, đặc điểm tính cách từng em học sinh, thống kê phân loại đối tượng học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp. - Phương pháp đàm thoại: + Thông qua trao đổi với phụ huynh học sinh, với Ban đại diện cha mẹ học sinh, các giáo viên bộ môn, Đoàn trường, Ban giám hiệu nhà trường … trong công tác phối hợp giáo dục các em học sinh. - Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động của học sinh, quan sát vê hoạt động của Đoàn trường…, sự phối kết hợp của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. - Phương pháp khảo sát: Khảo sát việc vận dụng phương pháp tổ chức, hướng dẫn, quản lý hoạt động phong trào vào công tác chủ nhiệm lớp của một số đồng nghiệp cùng trường và khác trường. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu kết quả hoạt động phong trào và kết quả tu dưỡng rèn luyện nói chung ở những tập thể lớp có được sự quan tâm chú trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp so với các lớp chưa được giáo viên chủ nhiệm quan tâm phát huy khả năng hoạt động phong trào. 2
  3. - Phương pháp điều tra, thống kê: Thực hiện điều tra thái độ, cảm nhận và đánh giá của học sinh với các hoạt động phong trào trong quá trình học tập ở trường phổ thông. Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số thao tác khác: Nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp… VI. Những điểm mới và đóng góp của đề tài Trong quá trình tìm hiểu để viết đề tài sáng kiến về “Một số biện pháp xây dựng tập thể đoàn kết của giáo viên chủ nhiệm lớp”, tôi nhận thấy đề tài này chưa có tác giả nào đề cập đến một cách toàn diện với đối tượng học sinh THPT. Cũng có tác giả có đề cập đến những biện pháp xây dựng tập thể lớp đoàn kết nhưng cách trình bày còn sơ sài, các biện pháp xây dựng tập thể lớp đoàn kết còn chưa đầy đủ. Đề tài “Một số biện pháp xây dựng tập thể đoàn kết của giáo viên chủ nhiệm lớp” do tôi thực hiện bên cạnh những giải pháp để quản lí lớp chủ nhiệm, đề tài nêu lên được những giải pháp tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp để các em cảm nhận được “Mối ngày đến trường là một ngày vui”. Từ đó thúc đẩy ý chí phấn đấu học tập, rèn luyện của bản thân để đạt thành tích cao trong học tập cũng như xây dựng tập thể đoàn kết, biết yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau. 3
  4. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương I. Cơ sở khoa học của đề tài 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Vị trí, vai trò của giáo viên chủ nhiệm Giáo viên chủ nhiệm giữ một vị trí rất quan trọng trong công tác quản lí, giáo dục học sinh trong nhà trường. Giáo viên chủ nhiệm lớp thực hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của lớp, là người tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, công dân tốt. Giáo viên chủ nhiệm là người được Hiệu trưởng bổ nhiệm trong số những giáo viên có kinh nghiệm và có uy tín. Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò sau đây: - Thay mặt Hiệu trưởng quản lí một lớp học: Giáo viên chủ nhiệm lớp do Hiệu trưởng phân công và thay mặt Hiệu trưởng để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học.Vai trò quản lí của giáo viên chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh trong lớp trước Hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học. - Xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết: Bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và sự quan tâm nhiệt tình, giáo viên chủ nhiệm xây dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em mình trưởng thành theo từng năm tháng. Học sinh kính yêu giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái với bạn bè như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh. Tình cảm của HS trong lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên chủ nhiệm càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt. Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp, nhưng giáo viên chủ nhiệm bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời họ. - Tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp: Vai trò tổ chức của giáo viên chủ nhiệm thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đồng thời tổ chức các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng hàng năm. Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, giáo viên chủ nhiệm lớp quán xuyến tất cả các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ. Các phong trào thi đua học tập đi vào thực chất, các cuộc sinh hoạt các đoàn thể có nội dung hấp dẫn thanh, thiếu niên, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao được tiến hành thường xuyên… Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào ý thức kỉ luật, vào tinh thần đoàn kết và truyền thống của tập thể lớp cũng như các hoạt động đa dạng của lớp. - Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp: 4
  5. Giáo viên chủ nhiệm lớp dù có là đoàn viên, đảng viên hay không cũng cần phải nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của các đoàn thể. Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm công tác của mình làm tham mưu cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch công tác, bầu ra Ban chấp hành chi đoàn, tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với Ban cán sự lớp để xây dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất. - Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục: Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy giáo viên chủ nhiệm phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo dục đó hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Năng lực, uy tín chuyên môn, kinh nghiệm công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp là điều kiện quan trọng để tập hợp lực lượng, phối hợp thành công các hoạt động giáo dục đối với học sinh trong lớp. 1.1.2. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm - Phát hiện, bồi dưỡng, cử đội ngũ cán bộ lớp và phân công nhiệm vụ nhằm giúp các em tổ chức thực hiện tốt mọi hoạt động của lớp, của trường. - Định hướng, tư vấn và giúp các em tổ chức thực hiện các mặt hoạt động của lớp. Tổng hợp tình hình, đề xuất các giải pháp để tham mưu cho Hiệu trưởng về công tác giáo dục, rèn luyện học sinh. - Nắm chắc tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện của học sinh; phối hợp với gia đình và đoàn thể để giúp đỡ, cảm hoá học sinh trong rèn luyện để trở thành người tốt cho xã hội - Chức năng giáo dục của GVCN: + Phối hợp các hoạt động giáo dục trên lớp và giáo dục ngoài giờ + Thực thi các nhiệm vụ giáo dục toàn diện đối với học sinh - Chức năng quản lí của GVCN: + Nắm vững tình hình của từng học sinh + Tổ chức bộ máy quản lý lớp và đảm bảo hoạt động hiệu quả + Chỉ đạo hoạt động của lớp theo kế hoạch của trường + Đánh giá sự tiến bộ của học sinh 1.1.3. Những phẩm chất cần có của giáo viên chủ nhiệm. - Tố chất quan trọng của giáo viên chủ nhiệm là tố chất của một con người có tâm và con người biết hành động. - GVCN phải có nhân cách mẫu mực thể hiện qua nhận thức, thái độ, hành vi cá nhân phù hợp với chuẩn mực xã hội và biết khơi gợi phát huy truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc ta. - Có lòng nhân ái, bao dung nhất là đối với học sinh, người già, trẻ em, người thiệt thòi bất hạnh… - Yêu nghề, say sưa với công tác giáo dục. 5
  6. - Có tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng cao, có lương tâm nghề nghiệp vững vàng. - Nhiệt tình, sâu sát, cần cù, trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán sự lớp hoạt động có hiệu quả. - Khiêm tốn, cầu tiến, tích cực tự hoàn thiện không ngừng. - Mẫu mực, trung thực trong cuộc sống. Có thể nói, bên cạnh việc chú ý nâng cao năng lực chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm cũng cần học tập, tích lũy kiến thức, rèn luyện kỹ năng mềm, vừa là nhà tâm lý, vừa là nhà sư phạm, yêu thương học sinh bằng tấm lòng của người cha, người mẹ và trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo. 1.1.4. Những năng lực sư phạm cần thiết của giáo viên chủ nhiệm: Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của một lớp học, là người thay mặt Hiệu trưởng tổ chức các hoạt động, xây dựng lớp thành một tập thể vững mạnh để giáo dục học sinh theo mục tiêu đã đề ra, do đó người giáo viên chủ lớp phải phấn đấu để đạt được các yêu cầu sau đây: - Có năng lực chuyên môn tốt, đang giảng dạy có kết quả một môn học trong lớp, có điều kiện gần gũi theo dõi, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện một cách thường xuyên. - Nắm vững lí luận sư phạm, sử dụng các phương pháp giáo dục tập thể và giáo dục cá biệt, có kinh nghiệm tổ chức các hoạt động phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh với điều kiện thực tế của lớp, của nhà trường một cách linh hoạt. - Có tư cách đạo đức tốt, gương mẫu trong cuộc sống, lao động, trong quan hệ với đồng nghiệp và học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải là tấm gương sáng về mọi phương diện cho học sinh noi theo. - Có khả năng tổ chức và có năng lực hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao... để có thể lôi cuốn học sinh cùng tham gia. - Có phương pháp hoạt động xã hội, biết động viên lôi cuốn các lực lượng giáo dục, biết tổ chức hoạt động tập thể để dẫn dắt học sinh học tập, tu dưỡng tốt vì cuộc sống tương lai. Tóm lại, trong các trường phổ thông, giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò đặc biệt quan trọng, là người quản lí, tổ chức, chỉ đạo và điều phối các hoạt động của một lớp học. Thực tế đã khẳng định năng lực công tác, kinh nghiệm sư phạm và ý thức trách nhiệm của người giáo viên chủ nhiệm lớp quyết định chất lượng học tập và tu dưỡng của học sinh trong một lớp học. 1.1.5. Ý nghĩa của công tác chủ nhiệm Công tác chủ nhiệm có vai trò đặc biệt trong nhà trường, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục của nhà trường. Công tác chủ nhiệm có ảnh hưởng lớn và lâu dài đối với học sinh, ảnh hưởng về nhiều mặt chứ không chỉ ảnh hưởng về đạo đức. Đối với học sinh phổ thông, khi trình độ, kiến thức cuộc sống còn nhiều hạn chế, giáo viên chủ nhiệm là chỗ dựa tinh thần cho các em. Giáo viên chủ nhiệm như người cha, người mẹ tư vấn, hỗ trợ, định hướng cho các em về suy nghĩ, hành động, nuôi dưỡng mơ ước, khát vọng, hoài bão cho các em về tương lai. 6
  7. Thực tế, trong nghề dạy học, không ít giáo viên khi được phân công công tác chủ nhiệm thường tìm cách thoái thác vì chủ nhiệm là công việc chịu nhiều áp lực, vất vả. Tuy nhiên, nếu giáo viên thật sự tận tâm, yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm cao thì niềm vui và giá trị về mặt tinh thần là không gì đo đếm được. Đối với mỗi lớp học, giáo viên chủ nhiệm lớp là người được gắn bó, gần gũi nhiều nhất với lớp mà mình phụ trách. Ngoài những giờ mà giáo viên chủ nhiệm phải có mặt với lớp như tiết chào cờ, sinh hoạt lớp thì họ còn gặp lớp thông qua tiết dạy. Chính vì gần gũi nhiều với lớp, nên giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm bắt được đặc điểm về tính cách, hoàn cảnh, ưu điểm… của từng học sinh. Qua đó, người giáo viên chủ nhiệm sẽ có phương pháp phù hợp với từng em, giúp các em phát huy ưu điểm cũng như có cách giáo dục hợp lí với học sinh cá biệt. Những trải nghiệm thực tế trên, lâu ngày sẽ trở thành những kinh nghiệm quý giá, là những bài học thiết thực, bổ ích mà không có sách, vở, trường lớp nào dạy được. Đó chính là những trang giáo án sinh động nhất, hữu ích nhất đối với người làm nghề dạy học và đặc biệt là GVCN lớp. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm là người phụ trách lớp nên tất cả các hoạt động giáo dục ở trường đều phải đồng hành cùng với học sinh lớp mình tham gia. Đây là cơ hội thắt chặt hơn nữa tình cảm giữa thầy và trò. Nhất là các hoạt động giáo dục lớn được tổ chức quy mô hằng năm như ngày 20/11, ngày 26/3….Qua các hoạt động này, chính là cơ hội để giáo viên chủ nhiệm lớp “ghi điểm” với học sinh lớp mình phụ trách. Mặt khác, sẽ tạo thành những kỉ niệm đẹp, những dấu ấn khó phai giữa thầy trò mà những giáo viên bộ môn không dễ gì có được. Đó cũng là sợi dây vô hình làm cho học sinh gắn kết, lưu luyến với trường và nhớ về người giáo viên chủ nhiệm nhiều nhất khi mai này các em khôn lớn. Đây chính là niềm vui về mặt tinh thần mà không thứ gì có thể sánh được. Niềm hạnh phúc được nhân lên khi giáo viên chủ nhiệm lớp được nhiều phụ huynh biết đến, khi GVCN và phụ huynh tìm được tiếng nói chung trong việc giáo dục con em mình thì chắc chắn việc giáo dục học sinh sẽ đạt kết quả cao nhất. Qua đó, để thấy làm công tác chủ nhiệm lớp mặc dù chịu nhiều vất vả, áp lực nhưng không phải là không có niềm vui. Hạnh phúc nhất là khi thấy học sinh mình đoàn kết, yêu thương nhau và các em trưởng thành hơn, chững chạc hơn, tự tin hơn. Dưới sự dìu dắt của thầy cô, các em sẽ bay cao, bay xa đến với chân trời mơ ước. Khi nhớ về trường, về lớp hình ảnh người giáo viên chủ nhiệm sẽ đọng lại mãi trong tâm trí của các em. Để làm được điều đó đòi hỏi người giáo viên không chỉ có năng lực mà còn là cái tâm hết mình với học sinh thân yêu. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1 Thuận lợi Trường chúng tôi là một trong 5 trường công lập đóng trên địa bạn huyện Diễn Châu. Tính đến năm học này trường đã có 21 năm xây dựng trưởng thành và phát triển. có được thành tích như ngày hôm nay là nhờ sự chỉ đạo sát sao, sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu và các ban ngành đoàn thể trong nhà trường. Đội 7
  8. ngũ GV trong nhà trường được đào tạo bài bản, yêu nghề và rất nhiệt tình trong công tác. Trong đó nhà trường đã chọn ra đội ngũ GVCN dày dạn kinh nghiệm, hết lòng với học sinh. Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên bám trường, bám lớp; luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tụy với mọi đối tượng học sinh trong lớp. Để từ đó nhờ sự dìu dắt, chỉ bảo ân cần mà có những học sinh cá biệt đã vươn lên trở thành con ngoan trò giỏi. Ngày nay, điều kiện kinh tế ngày một cải thiện nên nhiều phụ huynh cũng có sự đầu tư, quan tâm con em mình hơn về mọi mặt. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho giáo viên chủ nhiệm trong việc tìm kiếm, lựa chọn và trao đổi thông tin với học sinh và phụ huynh. Sự kết nối đó sẽ giúp GVCN dễ dàng hơn trong việc giáo dục học sinh. 1.2.2. Khó khăn: Ngôi trường hiện tôi đang công tác đóng tại địa bàn nông thôn của huyện. Phần đông đời sống người dân còn nghèo, kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó một bộ phận dân trí còn thấp, đa phần gia đình phụ huynh làm nghề nông nên sự đầu tư về giáo dục con cái có phần hạn chế, các phương tiện, máy móc tài liệu phục vụ cho việc học chưa được trang bị đầy đủ. Mặt khác chất lượng đầu vào còn thấp so với các trường trong huyện, học sinh phân bố trên địa bàn rộng nên rất khó khăn trong việc tập trung sinh hoạt tập thể. Trong công tác chủ nhiệm còn gặp những khó khăn nhất định, một bộ phận giáo viên còn ngại khó, chưa thực sự tận tâm với công tác chủ nhiệm, một số GVCN chưa dành nhiều thời gian cho lớp, chưa thật sự gần gũi, thấu hiểu các em. Đối tượng học sinh trong một lớp rất đa dạng. Bên cạnh những em học tập và rèn luyện tốt thì còn không ít những học sinh lười học, chưa xác định được mục đích, động cơ của việc học tập. Một bộ phận học sinh thường xuyên vi phạm nội quy nhà trường như đánh nhau, hút thuốc, bỏ giờ học, nghiện game…Chính vì thế việc giáo dục học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Hơn bao giờ hết GVCN có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. 1.2.3. Thực trạng của lớp chủ nhiệm a. Thuận lợi: Lớp 11A4 do tôi chủ nhiệm có tổng số 40 em học sinh, trong đó có 20 nam và 20 nữ. Về cơ bản các em có ý thức trong học tập và rèn luyện. Các phong trào tập thể, do nhà trường tổ chức cũng được các em hưởng ứng khá nhiệt tình. Phụ huynh cũng tích cực phối hợp với GVCN trong việc quản lý, theo dõi và giáo dục các em. b. Khó khăn: - Một số học sinh ít cởi mở, rụt rè, ngại giao tiếp. - Một số học sinh không chủ động trong mọi hoạt động của trường lớp. 8
  9. - Đa số các em là con nông dân nên ngoài giờ đi học chính khóa các em còn phải phụ giúp gia đình, các em ít có thời gian rãnh rỗi để tập trung cho các buổi sinh hoạt ngoại khóa. - Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên việc xây dưng quỹ lớp để chi cho các hoạt động ngoại khóa là rất hạn chế. - Ý thức học tập của một bộ phận học sinh chưa cao, động cơ học tập chưa rõ ràng. - Một số phụ huynh chưa thật sự ủng hộ và quan tâm đến những hoạt động vui chơi bổ ích, lành mạnh nhằm phát triển một cách toàn diện cho các em. - Một bộ phận học sinh còn thiếu tinh thần đoàn kết, thiếu ý thức xây dựng tập thể, chưa hoàn thành tốt công việc được giao. Một số em còn chia bè kéo cánh, chia rẽ sự đoàn kết trong lớp. 1.2.4. Nguyên nhân dẫn đến học sinh trong lớp mất đoàn kết, gắn bó a. Phân tích tính đoàn kết, gắn bó trong học sinh - Đoàn kết, gắn bó là sự thông cảm, chia sẻ và có việc làm cụ thể giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Đoàn kết là không thờ ơ, vô cảm khi thấy bạn bè gặp khó khăn hoạn nạn; đoàn kết là không có những lời nói, việc làm gây ngờ vực, mâu thuẫn và chia rẽ nội bộ trong lớp và trong trường học. Sống đoàn kết, gắn bó sẽ giúp mỗi người dễ dàng hòa nhập, hợp tác với những người xung quanh và sẽ được mọi người yêu quý. Ai mà chẳng yêu chẳng quý một người có lối sống chan hòa, cởi mở, thân ái, nhiệt tình. Đoàn kết gắn bó sẽ giúp chúng ta tạo nên sức mạnh để vượt qua được khó khăn. Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. - Tránh hiều sai sự đoàn kết, đoàn kết không phải là bao che những việc làm sai trái của bạn, hay là trong giờ làm bài kiểm tra thì tất cả làm bài chung, đó là phi đoàn kết. b. Các nguyên nhân dẫn đến học sinh mất đoàn kết gắn bó: - Các em chuyển từ THCS lên THPT nên chưa quen với môi trường mới. - Lứa tuổi các em còn cái tôi lớn, bướng bỉnh, khó hòa nhập, khó thích nghi. - Các em ít nói và ít hòa đồng, thường xử lí mọi chuyện một mình, theo mô tuýp “động vật sống đơn độc”, rồi dẫn đến không khí lớp nhiều lúc buồn chán. - Học sinh tự chia rẽ chơi theo nhóm riêng: có cùng sở thích, hoặc ở cùng làng xã, hoặc điều kiện gia đình tương đương nhau. - Các em bất đồng quan điểm ở một số chỗ, hoặc sức học chênh lệch nhau, dẫn đến các em học khá chơi nhóm riêng, các em học yếu chơi nhóm riêng, mạnh ai nấy chơi. - Một số em học sinh có thái độ nóng nảy, thiếu kiềm chế, thích thể hiện, cãi nhau để thắng, dẫn đến trong lớp mất đoàn kết gắn bó. - Một số em học sinh có tính ích kỷ không muốn chia sẻ với bạn bè, với tập thể. - Một số em rụt rè, ngại ngùng trước tập thể. 9
  10. Kết quả học tập và rèn luyện của HS lớp 10A4 năm học 2018- 2019 ( trước khi tôi tiếp nhận công tác chủ nhiệm) Hạnh kiểm Tốt Khá TB Yếu Học kì 1 15 (37.5%) 22(55%) 3(7.5%) 0(0%) Học kì 2 25 (62.5%) 15(37.5%) 0(0%) 0(0%) Cả năm 25(62.5%) 15(37.5%) 0(0%) 0(0%) Học lực Giỏi (%) Khá(%) TB(%) Yếu(%) Kém Học kì 1 0(0%) 7(17.5%) 31(77.5%) 2(5%) 0(0%) Học kì 2 2(5%) 14(35%) 24(60%) 0(0%) 0(0%) Cả năm 1(2.5%) 12(30%) 27(67.5%) 0(0%) 0(0%) Xếp loại thi đua toàn trường: Loại khá Kết quả điều tra lấy ý kiến học sinh về tinh thần đoàn kết của lớp chủ nhiệm 11A4 đầu năm học 2019 – 2020 (khi chưa áp dụng những biện pháp của sáng kiến) (Phụ lục 1). Nội dung Mức độ Phiếu lấy ý kiến Chưa tiến bộ 29/40 Phong trào học tập Có tiến bộ 9/40 Tiến bộ nhiều 2/40 Hoạt động yếu 20/40 Phong trào văn nghệ Bình thường 12/40 Hoạt động sôi nổi, tích cực 8/40 Hoạt động yếu 20/40 Hoạt động thể thao Bình thường 8/40 Hoạt động sôi nổi, tích cực 12/40 Hoạt động yếu 27/40 Phong trào ủng hộ, đền ơn Bình thường 7/40 đáp nghĩa Hoạt động sôi nổi, tích cực 6/40 Chưa đoàn kết 22/40 Tinh thần đoàn kết Đoàn kết 10/40 Đoàn kết tốt 8 /40 10
  11. Trên cơ sở lấy ý kiến chung của tập thể, qua theo dõi và quan sát, GVCN nhận thấy những trường hợp cụ thể sau đây thiếu ý thức xây dựng tập thể: TT Họ tên học sinh Nội dung Biểu hiện, kết quả 1 Hồ sỹ Bắc Học tập Thiếu tập trung, hay ngủ trong giờ học 2 Cao Văn Hành Học tập Học yếu, thường gây mất trật tự trong lớp. 3 Nguyễn Văn Duy Học tập Hay bỏ học, trốn tiết, nghiện game. 4 Bùi Văn Tài Học tập Muốn bỏ học giữa chừng vì hoàn cảnh gia đình. 5 Đặng Đức Tuấn Học tập Học yếu, thường xuyên đi học muộn. 6 Hồ Thị Hà Hoạt động tập thể Không quan tâm, giúp đỡ bạn bè. 7 Đoàn Thị Thịnh Hoạt động tập thể Rụt rè, tự ti, sống khép kín 8 Hồ Sỹ Bắc Hoạt động tập thể Thường không làm vệ sinh lớp học theo quy định 9 Hà Thuận Thọ Hoạt động tập thể Không tham gia lao động. hay nói tục chửi bậy 10 Cao Văn Hành Hoạt động tập thể Ít tham gia hoạt động Chương II. Một số biện pháp xây dựng tập thể đoàn kết của giáo viên chủ nhiệm lớp 2.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu và phân loại học sinh lớp chủ nhiệm Để phân loại học sinh một cách chính xác GVCN phải là người nắm rõ đặc điểm tâm lí, mặt mạnh yếu và hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Có như thế sẽ thuận lợi cho giáo viên trong việc phân công nhiệm vụ và kết quả giáo dục sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Việc tìm hiểu và phân loại học sinh phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, có thể chia làm nhiều giai đoạn để có những biện pháp tác động giáo dục phù hợp. Trước hết GVCN phải tìm hiểu học sinh thông qua hồ sơ tóm tắt của các em. (Phụ lục 2) Sau khi đã nắm bắt được tóm tắt sơ yếu lí lịch của học sinh, tôi phân loại học sinh của mình theo các nội dung mà mình định tìm hiểu như sau: Số học sinh Số học sinh Số học Số học sinh Tổng số có hoàn cảnh Số học sinh vi phạm nội sinh có bố có gia đình (40em/ không trọn có học lực quy, thiếu mẹ đi làm khó khăn 20 nữ) vẹn (li hôn, yếu , kém hợp tác. ăn xa về kinh tế mồ côi) Số 4 10 3 10 7 lượng 11
  12. Trong quá trình phân loại, nếu có trường hợp vì một lý do nào đó học sinh không cập nhập đầy đủ thông tin theo yêu cầu, tôi có thể trao đổi ngay với học sinh hoặc những người có liên quan để nắm thông tin một cách đầy đủ và chính xác nhất. Kết quả phân loại học sinh được GVCN ghi vào sổ theo từng nội dung. Như vậy, bản thân tôi sẽ có được những nhìn nhận, đánh giá một cách cụ thể, khoa học nhất về tình hình chung của lớp cũng như của từng cá nhân học sinh. Trên cơ sở đó, GVCN dự kiến kế hoạch giáo dục đối với lớp CN. Trong quá trình dự kiến kế hoạch, GVCN phải dựa trên kế hoạch, chương trình giáo dục chung của nhà trường. Khi xây dựng cần tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, cán bộ lớp để thống nhất một số nội dung cần thiết. (Phụ lục 3) GVCN khi lập kế hoạch phải đưa ra được chỉ tiêu cụ thể trong năm học Ví dụ: Đối với lớp tôi chủ nhiệm tôi đã đưa ra chỉ tiêu như sau: + Đạo đức đạt 100% loại khá trở lên (trong đó 80% loại tốt). + Học lực đạt 35-40% khá trở lên; 60- 65% trung bình; yếu 0%. + Lớp đạt lớp tiên tiến, tập thể lớp vững mạnh. + Hoàn thành và tham gia đầy đủ, đạt kết quả cao trong tất cả các hoạt động được giao. Trong quá trình lập kế hoạch giáo dục học sinh của lớp, GVCN chú ý tập trung vào những việc sau: + Cần nắm rõ số lượng học sinh chưa ngoan của lớp. + Tìm hiểu kỹ và phân loại học sinh chưa ngoan đầy đủ và chính xác về: - Hoàn cảnh sống từng học sinh, điều kiện kinh tế gia đình của học sinh, sự quan tâm của cha mẹ, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình… - Những đặc điểm thể chất từng học sinh, thể trạng bình thường hay không. - Những đặc điểm về tâm lý: khả năng nhận thức, nhu cầu giao tiếp, tình cảm như: cởi mở hay lầm lì, ưu tư, nóng nảy, luôn nghĩ mình bị mọi người “cô lập”,“bỏ rơi”… - Nắm được tính cách và hành vi đạo đức từng học sinh: lười học, ba hoa, không trung thực, nghiện game, cách ứng xử với mọi người xung quanh… - Nắm được sở trường và sở thích của học sinh: khả năng ca hát, bóng đá, bơi lội, thích thơ văn,… - Đặc biệt cần chú trọng đến mối quan hệ của học sinh với những thanh thiếu niên bên ngoài và học sinh chưa ngoan khác trong nhà trường. 2.2. Biện pháp 2. Xây dựng tập thể học sinh tự quản Không phải lúc nào GVCN cũng có mặt ở lớp đề chỉ đạo những công việc thường ngày của các em. Mặt khác, sự quá nhiệt tình của GVCN lúc nào cũng hiện diện ở lớp sẻ khiến cho học sinh nảy sinh tâm lí ỷ lại, vai trò của chính các em ngay tại ngôi nhà mà các em là chủ nhân đang sống và gắn bó. Cần phải cho học sinh nhận thức được rằng tập thể lớp chính là ngôi nhà nhỏ của các em chứ không phải ai khác. Các em phải có trách nhiệm xây dựng, tô điểm ngôi nhà thân thương của mình làm cho nó ngày càng đàng hoàng hơn, đẹp hơn. Trong quá trình ấy 12
  13. GVCN đóng vai trò là người cố vấn, điều khiển khiển từ xa. Vì vậy không có con đường nào khác GVCN phải hướng tới xây dựng tập thể học sinh tự quản. Đây là một trong những nội dung vô cùng quan trọng của người giáo viên chủ nhiệm, từ đó sẽ xây dựng ý thức tự học, tự rèn của mỗi học sinh. Hình thành ở học sinh những kỹ năng cơ bản như: + Kỹ năng nhận nhiệm vụ và lập kế hoạch hoạt động + Kỹ năng điều khiển tập thể lớp thực hiện kế hoạch đề ra + Kỹ năng đánh giá kết quả hoạt động và rút kinh nghiệm để lần sau làm tốt hơn Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm tôi nhận thấy: Không dễ dàng có được số em học sinh có năng lực làm cán bộ lớp. Muốn xây dựng lớp tự quản, đầu tiên phải lựa chọn, bồi dưỡng được lớp trưởng xứng đáng là con chim đầu đàn của lớp, có phong cách chỉ huy và giao tiếp tốt, cùng với ban cán sự lớp, ban cán sự tổ gương mẫu có khả năng tổ chức và quan trọng nhất là có tinh thần trách nhiệm cao. Đối với lớp khá, giỏi để làm được điều này không khó, song đối với lớp trung bình, yếu thì đây quả là vấn đề không dễ. Để lớp trưởng cũng như đội ngũ cán bộ lớp ngày càng nâng cao năng lực điều hành, tổ chức đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải có kế hoạch lựa chọn khoa học, tổ chức và bồi dưỡng cho những em học sinh được lựa chọn những kỹ năng năng lực cần thiết. Cách thức thực hiện của tôi như sau: 2.2.1. Lựa chọn đội ngũ cán bộ lớp đủ uy tín và có năng lực điều khiển tập thể lớp Từ việc điều tra thu thập thông tin cơ bản học sinh, giáo viên chủ nhiệm đưa ra các tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ lớp. Theo quan điểm của tôi, cán bộ lớp là đội ngũ rất quan trọng trong tập thể lớp, là linh hồn và nhân tố góp phần đối với sự tiến bộ của lớp. Nếu đội ngũ cán bộ lớp không đoàn kết, chia bè phái thì tập thể lớp khó đi lên. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng một đội ngũ cán bộ lớp có năng lực lãnh đạo, biết cách làm việc, biết điều hành hoạt động của lớp. Ngay từ đầu năm học qua sự tín nhiệm của tập thể lớp và sự quan sát tìm hiểu của mình, giáo viên chủ nhiệm định hướng cho tập thể học sinh lựa chọn đội ngũ cán bộ lớp. Qua thực tế, một số em có năng lực học tập tốt nhưng không có khả năng điều hành lớp. Bởi thế GVCN cần cân nhắc lựa chọn những học sinh có khả năng học lực khá trở lên, hạnh kiểm tốt, biết diễn đạt mạch lạc, biết cách tổ chức, điều hành hoạt động tập thể, thực sự gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm cao với tập thể. Giáo viên chủ nhiệm phân tích rõ những mặt ưu điểm của học sinh mà giáo viên thấy có năng lực làm cán sự lớp, cán sự tổ để học sinh hiểu rõ bởi vì ở lứa tuổi các em nhiều khi nhìn nhận con người còn cảm tính, GVCN chuyển suy nghĩ của mình thành quyết định dân chủ của tập thể học sinh. Khi lựa chọn những học sinh có đủ tiêu chuẩn vào đội ngũ cán bộ của lớp, tôi lấy ý kiến học sinh rồi sau đó có quyết định chính thức. Việc bỏ phiếu phải diễn ra công khai, bảo đảm tính dân chủ, không áp đặt học sinh. 13
  14. 2.2.2. Thực hiện việc huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ lớp sau khi tập thể đã lựa chọn đội ngũ Để xây dựng tập thể tự quản, GVCN cần tin tưởng khả năng của học sinh, các em hoàn toàn có thể tự quản được nếu có tác động đúng cách. Giáo viên chủ nhiệm tạo cho các em sự tự tin vào khả năng của chính mình và tạo điều kiện để các em được thể hiện khả năng của mình trong công việc tập thể. Trình tự các bước huấn luyện như sau: * Tập hợp đội ngũ cán bộ lớp, tổ…nêu rõ mục đích của huấn luyện nhằm bồi dưỡng hiểu biết cho các em về ý nghĩa và tác dụng của việc xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vai trò và nhiệm vụ của cán bộ lớp trong việc xây dựng tập thể lớp, về mối quan hệ công tác giữa các cán bộ lớp với nhau. * Để các em phát huy hết năng lực của mình trên từng cương vị thì giáo viên chủ nhiệm cần có sự phân công rõ ràng nhiệm vụ cho từng chức danh. - Nhiệm vụ của Lớp trưởng: + Lớp trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ các hoạt động của lớp. + Tổ chức lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập và rèn luyện. + Theo dõi đôn đốc các thành viên trong lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm túc quy chế, quy định của nhà trường, của lớp… + Chủ trì các buổi sinh hoạt lớp, đánh giá và phổ biến các hoạt động giáo dục. + Động viên, thăm hỏi những học sinh đau ốm, gia đình gặp chuyện không hay như tai nạn... - Nhiệm vụ Bí thư chi đoàn: Bí thư chi đoàn là người chịu trách nhiệm trước đoàn cấp trên về các hoạt động của chi đoàn. Công việc cụ thể: + Quản lý các mặt của chi đoàn từ tổ chức đến từng thành viên trong chi đoàn, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của các thanh viên. + Cập nhật các thông báo của Đoàn trường, đoàn cấp trên, hiểu và triển khai một cách có hiệu quả tại chi đoàn. + Làm công tác tư tưởng để vận động Đoàn viên thực hiện các chủ trương, chính sách, kế hoạch, hoạt động, phong trào của Đoàn trường và đoàn cấp trên một cách nhiệt tình, tự giác trên tinh thần tự nguyện. - Nhiệm vụ của lớp phó học tập: + Phụ trách quản lý nhiệm vụ học tập của lớp. + Theo dõi và chỉ đạo cán sự bộ môn hoạt động trong các buổi sinh hoạt 10 phút đầu giờ. + Điểm danh, ghi sổ đầu bài đầy đủ, rõ ràng. - Nhiệm vụ của lớp phó lao động: + Theo dõi, quản lý công việc lao động của lớp. + Nhận nhiệm vụ, phổ biến kế hoạch lao động và phân công lao động cho từng thành viên. - Nhiệm vụ của lớp phó văn, thể, mỹ: + Phụ trách công tác văn nghệ, thể dục thể thao của lớp. 14
  15. - Nhiệm vụ của thủ quỹ lớp: + Phụ trách thu chi quỹ lớp và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. - Các tổ trưởng: + Có trách nhiệm quản lý theo dõi các thành viên trong tổ của mình theo nội quy đã xây dựng. + Phân công, theo dõi trực nhật của tổ. Mỗi thành viên trong ban cán sự lớp đều phải có một cuốn sổ ghi chép cẩn thận các hoạt động do mình phụ trách. Cuối tuần giáo viên chủ nhiệm có kiểm tra, theo dõi, đánh giá. Nhiệm vụ của Ban cán sự lớp cần phổ biến trước tập thể lớp nhằm thể hiện tính công khai, dân chủ trước học sinh. Mặt khác còn nhằm đưa tập thể lớp vào ổn định nề nếp và hơn hết là nhằm giúp các học sinh chưa ngoan phần nào nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của mình trong tập thể lớp để từ đó có những hành vi phù hợp. Bồi dưỡng khả năng tự quản cho học sinh đòi hỏi phải có quá trình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ các em từ thấp đến cao, để các em tự giải quyết công việc từ đơn giản đến phức tạp. Biện pháp trong giai đoạn đầu là bắt tay chỉ việc, sau đó để các em từng bước tự lực giải quyết những công việc cụ thể trong toàn bộ tiến trình tổ chức hoạt động, có sự theo dõi, uốn nắn của giáo viên chủ nhiệm. Phương hướng chung là tăng dần khả năng tự quản của học sinh đi đôi với việc giảm dần sự tham gia cụ thể của giáo viên chủ nhiệm trong từng hoạt động cho đến khi các em có thể chủ động hoàn toàn trong công việc. Để các em thảo luận, bàn biện pháp thực hiện bản kế hoạch công tác của lớp, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò cố vấn cho kế hoạch hoạt động của các em. * Dựa vào nội quy của nhà trường, tôi đồng ý để Ban cán sự lớp thảo luận và đưa ra bản dự thảo nội quy riêng của lớp. *Tổ chức tập huấn về công tác điều hành tập thể cho cán bộ lớp. (Phụ lục 4) 2.2.3. Tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho toàn lớp về những nội dung xây dựng tập thể lớp tự quản Việc làm này có thể được tiến hành trong suốt năm học. Song nên tập trung vào một thời điểm cần thiết như: đầu năm học, cuối học kì 1, sang đầu học kì 2. Trước hết tôi tổ chức học sinh học tập nội quy của nhà trường và thảo luận nội quy xếp loại học sinh của lớp do Ban cán sự lớp và GVCN đã dự thảo trước đó, để đi đến thống nhất (tổ trưởng theo dõi và đánh giá hàng tuần, từ đó xếp loại hàng tháng) (Phụ lục 5) Sau đó sẽ huấn luyện các em các nội dung sau: + Thế nào là một tâp thể tự quản. + Vai trò của đội ngũ cán bộ lớp trong quá trình xây dựng lớp tự quản + Tự quản giờ học vắng giáo viên. + Tự quản giờ trên lớp. + Tự quản sinh hoạt 10 phút đầu giờ. + Tự quản các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. 15
  16. + Học tập nội quy trường, lớp. Những nội dung trên có thể được xen kẽ vào nội dung của giờ sinh hoạt tập thể học sinh có dịp trao đổi, bàn bạc, coi đó như là một dịp huấn luyện các em. Đồng thời cho các em đăng kí danh hiệu thi đua cho lớp, tổ, cá nhân. 2.2.4. Xây dựng được những “Đôi bạn cùng tiến”, “Nhóm bạn cùng tiến” trong học tập, rèn luyện ở trường cũng như ở nhà. “Học thầy không tày học bạn”, câu tục ngữ tưởng như quá quen thuộc nhưng lại rất đúng đắn về vai trò của một người bạn trong cuộc sống của con người, đặc biệt là về việc học. Ngoài việc học tập, tiếp nhận kiến thức từ thầy, cô giáo thì việc học hỏi từ bạn bè cũng vô cùng quan trọng. Phong trào “Đôi bạn cùng tiến” không chỉ mang lại hiệu quả thiết thực trong học tập, rèn luyện mà còn ý nghĩa nhân văn sâu sắc, khơi dậy tinh thần đoàn kết, tự giác, cùng nhau học tốt, cùng nhau tiến bộ của học sinh. Qua đó, góp phần thực hiện hiệu quả phong trào “Xây dựng tập thể lớp đoàn kết” và nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Để làm tốt việc đó ngay từ đầu năm học tôi và cán bộ lớp đã thảo luận để xây dựng tiêu chuẩn đạt “Đôi bạn cùng tiến”, “Nhóm bạn cùng tiến” như sau: + Tiêu chuẩn chung về hạnh kiểm: - Tất cả học sinh trong nhóm đều không vi phạm quy chế thi ở bất cứ hình thức nào. - Không quay cóp, trao đổi trong kiểm tra. - Thực hiện tốt nhiệm vụ giáo viên phân công. - Tham gia lao động tích cực. - Tích cực tham gia các phong trào, các hoạt động ngoại khóa do trường tổ chức. - Tích cực giữ vệ sinh khu vực trong và ngoài nhà trường, vận động mọi người cùng thực hiện - Không vi phạm nội quy (Không bị ghi tên ở sổ đầu bài, ở sổ trực Đoàn, không bị cờ đỏ ghi nhận, không bị mời phụ huynh… với bất kỳ lỗi gì). - Có ý thức nhắc nhở các bạn thực hiện tốt nội quy - Tham gia các hoạt động vui chơi lành mạnh - Chỉ vắng học khi có lý do chính đáng, có đơn xin phép với đúng chữ ký của phụ huynh. - Xếp loại hạnh kiểm học kì II loại tốt - Nếu 1 trong 2 học sinh là lớp trưởng hoặc lớp phó học tập thì trong học kì II thì lớp phải có ít nhất 3 lần được xếp từ thứ nhất đến thứ 3 trong 36 lớp của toàn trường. Đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến là nhóm bạn có học sinh cùng đạt hạnh kiểm bằng hoặc cao hơn học kì liền kề ít nhất một bậc trong xếp loại, đồng thời đạt các tiêu chuẩn sau về học lực: + Tiêu chuẩn sau về học lực: 16
  17. Kết quả trước đăng ký Kết quả xếp loại sau đăng ký Học sinh Năm trước hoặc HK1 HK1 hoặc HK2 Học sinh A Khá, giỏi Khá, giỏi Học sinh B Trung bình Khá trở lên Học sinh C Yếu, kém Trung bình trở lên Việc đăng kí “Đôi bạn cùng tiến”, “Nhóm bạn cùng tiến” được phát động trong 2 đợt, đầu học kì I và đầu học kì II. Trong quá trình xây dựng những “Đôi bạn cùng tiến”, “Nhóm bạn cùng tiến” tôi luôn đảm bảo em có học lực chưa tốt được kèm cặp bời những em có học lực tốt hơn, những em có hạnh kiểm chưa tốt được kèm cặp bởi những em có hạnh kiểm tốt hơn. (Phụ lục 6) 2.2.5. Lập sơ đồ tổ chức lớp học Để quản lý tốt học sinh GVCN cần quan tâm đến việc lập sơ đồ tổ chức lớp học, cụ thể là bố trí và luân chuyển vị trí ngồi học của các thành viên trong tập thể lớp. Việc phân công chỗ ngồi và luân chuyển vị trí ngồi học tạo điều kiện thuận lợi cho từng học sinh trong lớp học tập, trao đổi kiến thức, giúp đỡ những học sinh yếu, kém góp phần xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, thân thiện, tạo động lực cho các thành viên phấn đấu và cố gắng hoàn thiện mình. GVCN cần linh hoạt bố trí để: học sinh yếu kém, chậm tiến ngồi trước; học sinh khá giỏi ngồi sau. Học sinh thấp ngồi bàn trước, học sinh cao hơn ngồi bàn sau; học sinh mắt yếu ngồi gần bảng Các thành viên trong Ban cán sự ngồi đan xen ở giữa, trước và sau. Trong một học kì GVCN cần điều chỉnh đổi luân phiên từ 2 đến 3 lần. Mỗi lần thay đổi là một lần thiết lập lại sơ đồ lớp để trên bàn giáo viên để giáo viên bộ môn kết hợp tổ chức hoạt động trong mỗi tiết dạy cho phù hợp. Những em trong Ban cán sự lớp ngồi sau có thể quản lí, theo dõi, nhắc nhở các bạn khác trong các giờ học. Những em học sinh yếu kém ngồi đầu sẽ được giáo viên bộ môn quan tâm theo dõi và giúp đỡ kịp thời, như thế mỗi em sẽ mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập. Cách sắp xếp chỗ ngồi như trên, một mặt phát huy được vai trò của đội ngũ cán bộ lớp trong việc quản lý lớp học, mặt khác các em học tốt có thể hỗ trợ được cho những em còn học yếu từ đó nâng cao chất lượng giáo dục của lớp. 2.3. Biện pháp 3: Sự quan tâm từ giáo viên chủ nhiệm Xuất phát từ các nguyên nhân của lớp, GVCN cần biết tìm ra phương pháp thích hợp cho lớp mình. GVCN cần quan tâm lớp hơn, thường xuyên nói chuyện, tâm sự để hiểu tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh gia đình, cũng như sức học của các em ở tất cả các môn. Nắm bắt được nguyên nhân chính gây mất đoàn kết trong lớp mình để tháo gỡ. 17
  18. GVCN cần đôí xử công bằng, khách quan với mọi học sinh. Quan tâm nhiều hơn đến học sinh thường vi phạm nội quy nhà trường như bỏ học, gây gỗ đánh nhau…; những học sinh còn nhút nhát tự ti; những em có học lực yếu và học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. 2.4. Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động trải nghiệm Cuộc sống chính là những chuyến đi, những trải nghiệm thú vị, tuyệt vời và chính nhờ có những chuyến trải nghiệm đó mà các em có thể tích lũy thêm cho mình kiến thức, kĩ năng để làm hành trang bước vào cuộc sống. Qua hoạt động trải nghiệm, các em mở rộng thêm không gian học tập đưa học sinh rời xa lí thuyết sách vở hay chiếc điện thoại, được trải nghiệm những điều thực tế mà trước nay chỉ được học, được xem qua các thông thông tin đại chúng. Ngoài ra những chuyến đi thực tế còn giúp học sinh tăng cường tình đoàn kết, khả năng hoạt động nhóm và bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước. Thiết nghĩ rằng trong một môi trường giáo dục mới chúng ta nên giúp học sinh tăng cường hoạt động thực hành và trải nghiệm ứng dụng những điều đã học vào thực tiễn làm cho các em cảm thấy hứng thú hơn trong học tập. Sau khi học sinh lớp tôi (cụ thể là học sinh lớp 11A4) có dịp tham quan khu di tích lịch sử Truông Bồn (Đô Lương – Nghệ An), tôi yêu cầu học sinh viết bài thu hoạch như sau: Cảm nhận của em khi về thăm khu di tích lịch sử Truông Bồn (Giáo viên gia hạn thời gian thu bài, chọn lọc bài hay, đọc và trao thưởng).(Phụ lục 7) Sản phẩm mà chúng tôi có được sau chuyến tham quan là những dòng tâm sự rất đỗi chân thành của học sinh, các em yêu hơn quê hương, đất nước mình, vô cùng tự hào và biết ơn sự hy sinh oanh liệt của các thế hệ cha anh. Qua đó tôi nhận thấy các em rất thích thú, đã hòa đồng, thân thiện, đoàn kết, tương trợ nhau nhiều hơn, biết quan tâm chia sẽ với nhau. Và điều đó cũng là mục tiêu xây dựng tập thể lớp đoàn kết. 2.5. Biện pháp 5: Tổ chức các hoạt động và giao lưu tập thể qua sinh hoạt lớp Giá trị sống cần thiết với học sinh THPT: Hòa bình, hợp tác, hạnh phúc, yêu thương, khoan dung, khiêm tốn, trung thực, trách nhiệm, tôn trọng và đoàn kết. Học tập giá trị sống giúp các em tôn trọng bản thân và người khác, biết cách hợp tác, xây dựng và duy trì tình đoàn kết. Đồng thời GVCN trang bị kĩ năng sống cho học sinh như kĩ năng giao tiếp, sáng tạo, hòa nhập, ứng phó với các tình huống trong cuộc sống, kĩ năng quan sát, chia sẽ trong nhóm… Thông qua các hoạt động và giao lưu tập thể, giúp học sinh cũng cố, bổ sung và mở rộng thêm tri thức đã học, phát triển khả năng thẩm mỹ, tăng cường thể chất, nhận thức xã hội, ý thức công dân, tình yêu quê hương, đất nước. Thông qua các hoạt động tập thể các em có cơ hội chia sè tâm tự, nguyện vọng của mình, các em có cơ hội đánh giá, nhận xét nhau một cách thẳng thắn, tích cực từ đó các em hiểu nhau, đoàn kết nhau hơn, khắc phục xu hướng hẹp hòi, cục bộ, bè phái trong lớp. Do đó GVCN cần đổi mới tiết sinh hoạt trở nên phong phú, ý nghĩa và tích cực hơn. Trong tiết sinh hoạt cuối tuần, GVCN nên dành nhiều thời gian cho việc 18
  19. tổ chức các hoạt động vừa vui vẽ, vừa bổ ích như: Đố vui, các trò chơi phỏng theo các game show truyền hình đặc sắc, hay đơn giản là nghe và cảm nhận một bài hát, một mẫu chuyện hay một đoạn phim… tổ chức các diễn đàn để các em nêu lên cảm nhận, bài học hay ý nghĩa về những gì mình nghe được, đã đọc và thấy được. Hoặc có thể mỗi tháng 1 lần, giáo viên chủ nhiệm tổ chức cho học sinh tiết sinh hoạt theo chủ đề như: Tìm hiểu ngày truyền thống 20-11; hái hoa dân chủ; thanh niên với Tổ Quốc; tìm hiểu tâm lí tuổi mới lớn; ngày của mẹ em nên làm gì? Thanh niên với tình bạn, tình yêu và gia đình; chọn nghề gì cho phù hợp; những điều em muốn nói…(Phụ lục 8) 2.6. Biện pháp 6: Tổ chức các hoạt động và giao lưu với tập thể trong và ngoài nhà trường. Thông qua các hoạt động giao lưu tập thể, đây cũng là điều kiện để học sinh bộc lộ năng khiếu, tính tự tin, tích cực, tự giác tham gia các hoạt động của nhà trường, xã hội. Tạo mối quan hệ tốt đẹp, lành mạnh trong sinh hoạt tập thể với nhau. Bên cạnh học tập, học sinh tham gia các hoạt động khác như công tác xã hội, lao động sản xuất, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao… giúp mở rộng tri thức cho học sinh, hình thành các chuẩn mực đạo đức. Tôi chú ý tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho học sinh cá biệt, tham gia, xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự thể hiện mình. Công tác này thực sự đặc biệt có ý nghĩa đối với học sinh trầm cảm, tự ti. Các em sẽ mạnh dạn, tích cực hơn trong học tập và rèn luyện. Cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ. Các em được trải nghiệm, được vui chơi, được hợp tác và chia sẽ để từ đó thông hiểu, yêu thương nhau, xây dựng tập thể lớp đoàn kết vững mạnh. Ví dụ: - Học sinh tham gia giải bóng đá do các lớp 11 trong trường tổ chức (Phụ lục 9). - Tổ chức thi đấu bóng chuyền với đoàn thanh niên các xóm nơi cư trú. - Thi gói bánh chưng, viết thư pháp, cắm trại do đoàn trường tổ chức. 2.7. Biện pháp 7. Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác Để xây dựng tập thể lớp đoàn kết không thể không kể đến vai trò của phụ huynh học sinh, giáo viên bộ môn, Ban giám hiệu nhà trường và đoàn trường, nhất là việc giáo dục đạo đức cho học sinh yếu kém, học sinh chưa ngoan, loại bỏ được nguy cơ bỏ học giữa chừng. 2.7.1. Phối hợp với phụ huynh và chính quyền địa phương nơi các em cư trú. Liên hệ thường xuyên với Ban đại diện cha mẹ học sinh để tích cực hóa các hoạt động của hội phụ huynh học sinh trong công tác giáo dục. Thiết lập mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình qua qua điện thoại. Cung cấp cho phụ huynh số điện thoại của giáo viên chủ nhiệm để phụ huynh tiện liên hệ khi cần thiết. 19
  20. Tổ chức thăm hỏi trực tiếp gia đình học sinh nhằm tạo thiện cảm tốt đối với học sinh nhất là học sinh “cá biệt”. Giáo viên thường xuyên trao đổi với phụ huynh để từ đó hiểu rõ và nắm bắt kịp thời những thay đổi của các em để có những biện pháp giáo dục phù hợp. GVCN cùng tập thể lớp có kế hoạch thăm hỏi động viên gia đình học sinh khi có những biến cố lớn xảy ra trong các ngày nghỉ. Mặt khác GVCN quan tâm, động viên những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vào những dịp quan trọng như dịp Tết Nguyên đán. Việc động viên thăm hỏi gia đình học sinh là chiếc cầu nối để gắn kết mối quan hệ giữa GVCN và phụ huynh học sinh ngày càng tốt đẹp hơn. Từ đó các em có cơ hội tâm sự, chia sẽ, thông cảm, hiểu nhau, đoàn kết gắn bó với nhau hơn. Đó cũng là cơ sở quan trọng để việc giáo dục các em đạt hiệu quả cao nhất. Kết hợp với địa phương, khu dân cư để theo dõi giáo dục, ngăn chặn kịp thời những học sinh vi phạm nội quy trường, lớp, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Ví dụ: Báo với chính quyền địa phương khi giáo viên phát hiện học sinh kéo bè, kết cánh đánh nhau, đua xe… (ở mức mà cá nhân không can thiệp, giải quyết được) - nhằm ngăn chặn kịp thời, tránh xảy ra hậu quả đáng tiếc, hơn thế học sinh sẽ không giám manh động. Ngược lại, khi chính quyền địa phương phát hiện học sinh có những hành động sai trái, vi phạm pháp luật, ngoài việc can thiệp trực tiếp, chính quyền địa phương còn báo về trường, về giáo viên chủ nhiệm để nhà trường tiếp tục giáo dục đạo đức học sinh. Để có được một tập thể lớp đoàn kết thì việc đôn đốc, nhắc nhở học sinh cần diễn ra thường xuyên. Nhờ sự động viên, sát cánh của GVCN giúp các em có nghị lực hơn trong cuộc sống, tự tin hơn trong học tập và luôn tin tưởng vào khả năng của chính mình. Nhất là những em học sinh” cá biệt” (là những học sinh hay bỏ tiết, nghĩ học không phép, vi phạm nội quy nhà trường một cách có hệ thống...). Đối với các em tôi gần gũi các em nhiều hơn, lắng nghe, thấu hiểu điều các em nói bằng trái tim của mình, thân thiện, bao dung và vị tha các em hơn. Cho nên với những thiếu sót của các em tôi thường bình tĩnh tìm biện pháp giải quyết thích hợp nhất, có thể gặp riêng nhắc nhở, khuyên bảo, có thể trao đổi với phụ huynh các em. Ví dụ: Trường hợp em Nguyễn Văn Duy - học sinh lớp 11A4, em là học sinh con giáo dân ở Giáo xứ Phú Linh. Khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi thấy em rất ít nói, không hay chơi với các bạn, một số buổi lao động đầu năm em không tham gia và em còn bỏ một số buổi học hay tiết học. Qua tìm hiểu được biết em là học sinh nghiện chơi game. Tôi gần gũi động viên và cùng với gia đình em phân tích cho em hiểu về tác hại của việc chơi game nhưng sự tiến bộ của em đang còn chậm. Sau đó tôi đã nhờ đến sự giúp đỡ của giáo xứ Phú Linh và em đã tiến bộ rõ rệt. Em đi học đầy đủ, học tập có tốt hơn, sống hòa nhập vui vẻ với bạn bè và thấy cô.(Phụ lục 10) 2.7.2. Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường Hàng tuần, hàng tháng nhà trường đều có kế hoạch hoạt động chung trong toàn trường. Từ kế hoạch hoạt động chung đó, giáo viên chủ nhiệm sẽ đề ra kế 20
nguon tai.lieu . vn