Xem mẫu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIÁO DỤC TOÀN DIỆN CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT THANH CHƯƠNG 3 THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM
  2. SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT THANH CHƯƠNG 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIÁO DỤC TOÀN DIỆN CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT THANH CHƯƠNG 3 THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM Họ và tên: Dương Lê Quyết, Nguyễn Thị Nhân Lĩnh vực: Chủ nhiệm Thời gian thực hiện: Năm học 2018-2019, 2019-2020, 2020-2021 Số điện thoại: 0979 650 628 Tháng 3 - Năm 2021
  3. MỤC LỤC Tr an g PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................................... 1 2. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................................. 2 3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................................. 2 4. Kết quả nghiên cứu, hiệu quả............................................................................................... 2 5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................... 2 6. Phương pháp thử nghiệm ....................................................................................................... 2 5. Phạm vi nghiên cứu................................................................................................................... 2 6. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................................... 2 PHẦN II. NỘI DUNG.................................................................................................................. 3 I. Cơ sở khoa học ............................................................................................................................ 3 1. Cơ sở lý 4 luận.................................................................... ............................................................... 2. Cơ sở thực 4 tiễn..................................................................... .......................................................... 2.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề........................................................................................... 4 2.2. Thực trạng về công tác giáo dục toàn diện cho học sinh THPT hiện nay 4 thông qua công tác chủ nhiệm......................................................................................... II. Một số biện pháp nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh Trường 6 THPT Thanh Chương 3 thông qua công tác chủ nhiệm................................... 1. Tìm hiểu, nắm vững đối tượng học sinh của lớp.................................................... 6 1.1. Nghiên cứu hồ sơ học sinh............................................................................................... 6 1.2. Sử dụng phiếu điều tra........................................................................................................ 6 1.3. Trao đổi với học sinh............................................................................................................ 7 1.4. Quan sát trực tiếp................................................................................................................... 7 1.5. Trao đổi với cha mẹ học sinh.......................................................................................... 7 1.6. Tạo tình huống thử nghiệm............................................................................................... 7 2. Xây dựng đội ngũ ban cán sự lớp .................................................................................... 8 2.1. Lựa chọn ban cán sự............................................................................................................. 8 2.2. Bố trí chức danh...................................................................................................................... 9 2.3. Xây dựng quy chế làm việc ............................................................................................... 9
  4. 2.4. Huấn luyện và bồi dưỡng................................................................................................... 10 2.5. Kiểm tra giám sát.................................................................................................................... 10 2.6. Đánh giá rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời................................................ 11 3. Xây dựng mối quan hệ thầy – trò, bạn bè trong và ngoài lớp.......................... 11 3.1. Xây dựng mối quan hệ thầy – trò................................................................................... 11 3.2. Xây dựng mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp............................................... 13 4. Kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn........................................................................... 13 5. Phối hợp tốt với các tổ chức giáo dục trong nhà trường 15 5.1. Phối hợp chặt chẽ với Ban Giám hiệu......................................................................... 15 5.2. Phối hợp chặt chẽ với Đoàn trường.............................................................................. 16 6. Phối hợp tốt với gia đình học sinh và Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp 17 6.1. Phối hợp tốt với gia đình học sinh ............................................................................... 17 6.2. Phối hợp tốt với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp ........................................... 19 7. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm....................... 19 7.1. Yêu cầu về tổ chức................................................................................................................... 19 7.2. Chuẩn bị......................................................................................................................................... 20 7.3. Cấu trúc buổi sinh hoạt lớp............................................................................................... 20 8. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm; hoạt động lao động và hướng nghiệp 21 cho học sinh của lớp ...................................................................................................... 8.1. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm............................................................................... 21 8.2. Tổ chức các hoạt động giáo dục lao động và hướng nghiệp......................... 22 III. Một số kết quả đạt được trong giáo dục toàn diện cho học sinh 25 Trường THPT Thanh Chương 3 thông qua công tác chủ nhiệm ................ 1. Kết quả xếp loại học lực, hạnh kiểm................................................................................ 25 1.1. Kết quả xếp loại học lực...................................................................................................... 25 1.2. Kết quả xếp loại hạnh kiểm................................................................................................ 25 2. Kết quả xếp loại thi đua các lớp ......................................................................................... 25 3. Một số kết quả khác.................................................................................................................. 26 PHẦN III. KẾT LUẬN.......................................................................................................... 28 1. Kết luận............................................................................................................................................. 28 2. Kiến nghị.......................................................................................................................................... 30 2.1. Đối với Bộ GD-ĐT.................................................................................................................. 30 2.2. Đối với Sở GD-ĐT Nghệ An............................................................................................. 30 2.3. Đối với Trường THPT Thanh Chương 3................................................................... 30
  5. TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 32 PHẦN PHỤ LỤC............................................................................................................................ 33
  6. ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIÁO DỤC TOÀN DIỆN CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT THANH CHƯƠNG 3 THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Sở Giáo dục- Đào tạo Nghệ An đã đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó nhấn mạnh tăng cường và quản lý giáo dục toàn diện cho học sinh. Đây là một điểm nhấn đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống trong đó có vai trò và trách nhiệm không nhỏ của giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là người chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý nề nếp, định hướng xây dựng tập thể lớp, tạo môi trường tốt để hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách toàn diện cho học sinh. Làm tốt công tác chủ nhiệm có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giáo dục học sinh - nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi học sinh có thể tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và việc giáo dục kĩ năng sống, những thói quen tốt, các năng lực cần có… cho học sinh đang trở thành nhu cầu cấp thiết. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh. GVCN lớp phải biết phối hợp với các giáo viên bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, công tác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, hội Cha mẹ học sinh (CMHS) để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay có những quan niệm sai lầm trong nhận thức về chức vụ GVCN lớp chưa tương xứng với tầm quan trọng của chức vụ này, chưa đúng với các văn bản quản lí giáo dục quy định và thậm chí có cả những phương pháp giáo dục lỗi thời…Ở đâu đó, còn tồn tại chuyện học sinh đánh thầy cô giáo chủ nhiệm của mình; bạo lực học đường; giáo viên chủ nhiệm lớp nóng nảy, thô bạo đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như đuổi hàng chục học sinh ra khỏi giờ học, rút dép đánh học trò trong lớp, bắt học trò liếm ghế, uống nước giặt giẻ lau bảng…Ngược lại có những GVCN lớp quá dễ dãi, buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm với lớp, với chức năng đã được giao, để cho học sinh tự do hư đốn vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy. Thậm chí có chủ nhiệm hùng hồn tuyên bố: Làm chủ nhiệm lớp chỉ cần quan tâm đến nề nếp học sinh còn các mặt khác không cần quan tâm... 1
  7. Ngay cả GVCN trong tiết sinh hoạt lớp cũng chưa thật sự đặt nặng vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh. Qua tìm hiểu một số giờ sinh hoạt lớp ở các lớp khác tôi nhận thấy rằng một số lớp có những khoảng thời gian chết mà cả thầy và trò đều không biết làm gì, một số lớp khác thì giáo viên chủ nhiệm dành quá nhiều thời gian cho việc khiển trách, phê bình học sinh. Đôi khi tiết sinh hoạt, GVCN còn dùng để nhắc đến các khoản thu, hay la mắng HS. Việc làm mang tính hình thức, hiệu quả tiết sinh hoạt còn thấp, học sinh ít hứng thú. Đôi lúc nội dung sinh hoạt chỉ 10-15 phút, thời gian còn lại là nói chuyện, hát…. Không biết làm gì cho hết thời gian, lúc đó cả thầy và trò ngồi chờ tiếng trống hồi. Vì thế tiết sinh hoạt lớp nhiều lúc bị coi thường, hiệu quả thấp. Chính vì những lẽ đó chúng tôi thực hiện đề tài “Một số biện pháp nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh Trường THPT Thanh Chương 3 thông qua công tác chủ nhiệm”. 2. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp. 3. Phạm vi nghiên cứu. Công tác chủ nhiệm tại trường THPT Thanh Chương 3 4. Kết quả nghiên cứu, hiệu quả Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong trường THPT. 5. Phương pháp nghiên cứu - Thu thập những thông tin lý luận về vai trò của người GVCN lớp trong công tác giáo dục toàn diện cho HS ở các tài liệu, các bài tham luận. - Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS. - Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn, HS, hội CMHS, bạn bè và hàng xóm của HS. - Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường. - Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn. - Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong trường mình. 6. Phương pháp thử nghiệm Thử áp dụng một số biện pháp vào công tác giáo dục cho học sinh lớp 10A năm 2018-2019; lớp 11A năm 2019-2020; lớp 12D1 năm 2020-2021. 2
  8. PHẦN II. NỘI DUNG I. Cơ sở khoa học 1. Cơ sở lý luận Hiểu một cách khái quát, Giáo dục toàn diện là hoạt động giáo dục tổng thể, được tổ chức có kế hoạch, có mục đích nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người. Mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới là: phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Toàn diện ở đây được hiểu là chú trọng phát triển cả phẩm chất và năng lực con người, cả dạy chữ, dạy người, dạy nghề. Giáo dục và đào tạo phải tạo ra những con người có phẩm chất, năng lực cần thiết như trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo, có hoài bão và lí tưởng phục vụ Tổ quốc, cộng đồng; đồng thời phải phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ xã hội; có hiểu biết và kĩ năng cơ bản để sống tốt và làm việc hiệu quả… như Bác Hồ từng mong muốn: "một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em". Trước hết, hãy nhìn vào mặt đối lập của nó là giáo dục phiến diện. Đặc trưng dễ nhận thấy của giáo dục phiến diện chính là giáo dục vì điểm số, có phân ra môn chính và môn phụ, coi trọng thành tích học tập quan trọng hơn trải nghiệm học tập, lý thuyết hơn thực hành. Sản phẩm đầu ra của giáo dục phiến diện là những đứa trẻ khiếm khuyết về thể lực, sự năng động, khả năng cảm thụ nghệ thuật, kỹ năng sống, sự trải nghiệm vững vàng về tâm lý, cảm xúc, tình cảm xã hội… Ngày nay đã có nhiều cha mẹ không hài lòng với những đứa trẻ như vậy. Chúng có thể làm việc hiệu quả, nhưng không phải là một cá thể sinh động, đầy màu sắc, trọn vẹn. Và họ bắt đầu đi tìm giáo dục toàn diện cho con.Vì thế giáo dục toàn diện cho học sinh vừa là đòi hỏi, vừa là nhu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam từng nói: “Triết lý giáo dục của Việt Nam nằm trong triết lý xây dựng đất nước. Đó là phát triển con người Việt Nam toàn diện về đức - trí - thể - mỹ và hướng tới công dân toàn cầu”. Tuy nhiên, từ thực tế dạy và học tại các trường, khái niệm “ Giáo dục toàn diện” có sự nhầm lẫn với “Giáo dục hoàn hảo”. Định hướng cho học sinh phát triển toàn diện, nhưng thời gian dành cho các môn học thuộc lòng nhiều; thời gian dành cho phát triển kỹ năng sống, văn nghệ, thể thao… lại rất ít. Tìm hiểu nguyên nhân, nhiều chuyên gia cho rằng, bệnh thành tích và việc đặt nặng mục tiêu phát triển trí lực khiến nhiều trường học xem nhẹ giáo dục thể chất, năng khiếu và đặc biệt là rèn luyện đạo đức, phẩm chất cá nhân. Từ đó dẫn đến nghịch lý “học giỏi, thi giỏi, nhưng kỹ năng làm việc kém”. Những năm gần đây, các trường học ngoài công lập có đủ điều kiện để đầu tư về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị dạy học, chương trình học và đội ngũ nhân lực để giúp học sinh phát triển toàn diện. Thạc sĩ Nguyễn Thu Hà - Hiệu trưởng Trường 3
  9. Tiểu học, THCS và THPT Sky-Line cho rằng: “Việc có bao nhiêu học sinh được điểm cao, bao nhiêu học sinh đạt giải không phải là điều quan trọng. Sản phẩm cuối cùng của nhà trường là học sinh có thể phát hiện đam mê, theo đuổi đam mê của mình và xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong tương lai”. Trái ngược giáo dục truyền thống thiên về lý thuyết, giáo dục toàn diện cho phép học sinh tiếp cận với kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau một cách phổ quát và cơ bản nhất. Không chỉ phát triển trí lực, học sinh còn được chú trọng rèn luyện thể lực, nghệ thuật, kỹ năng sống, nhân cách. Quan trọng nhất, học sinh được tạo điều kiện phát huy được năng lực, cá tính của bản thân và xác định cho bản thân định hướng tương lai… 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề Hạn chế, yếu kém của nền giáo dục Việt Nam là chưa tạo ra sản phẩm giáo dục mang tính toàn diện, hội đủ các kỹ năng thiết yếu để trở thành công dân toàn cầu. Vì sao học sinh phổ thông thiếu cơ hội phát huy năng lực sở trường, trải nghiệm sáng tạo… mà chỉ nghiêng về nạp kiến thức? Phát biểu tại hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường phổ thông trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục”, PGS-TS Ngô Minh Oanh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu giáo dục (Trường Đại học Sư phạm TPHCM), chỉ ra hạn chế: “Chương trình giáo dục vẫn tập trung nhiều vào các môn học trên lớp, nặng kiến thức về lý thuyết, hàn lâm và chưa gắn với việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Nhiều trường học còn nặng về quản lý hành chính, thiếu linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động trong và ngoài lớp học đa dạng, phong phú. Vì thế, phần đông học sinh thiếu cơ hội trải nghiệm, rèn luyện kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm, phát huy tư duy độc lập, tính năng động, sáng tạo…”. Phát triển con người toàn diện chính là đòi hỏi phát triển năng lực người học ở mọi mặt chứ không nghiêng về một yếu tố nào. Mặc dù chủ trương giáo dục học sinh toàn diện gồm “đức, trí, thể, mỹ và nghề nghiệp” đã được đề cập từ lâu, nhưng các cấp quản lý giáo dục, trường học và giáo viên vẫn chưa được hiểu đúng, làm đúng. “Vì đặt nặng mục tiêu phát triển trí lực nên nền giáo dục chú trọng đến ứng thí là chính, nhiều trường không chú trọng đến khả năng, sở thích năng khiếu của học sinh. Vì coi trọng thành tích thi cử, nhà trường cũng xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ - những yếu tố rất cần để hình thành nhân cách học sinh. 2.2. Thực trạng về công tác giáo dục toàn diện cho học sinh THPT hiện nay thông qua công tác chủ nhiệm 2.2.1. Thuận lợi Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế - xã hội đã mang lại không ít những thuận lợi cho công tác chủ nhiệm trong nhà trường. Sự quan tâm đầu tư của Đảng, nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội. Cơ sở vật chất, 4
  10. trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Với chủ trương đúng đắn về chính sách dân số "Chỉ dừng lại hai con để nuôi dạy cho tốt", kinh tế ngày càng được cải thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ em được quan tâm và chăm sóc tốt hơn. Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong phối hợp giáo dục; đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong những giờ lên lớp, trong những hoạt động tập thể khiến học sinh thấy hứng thú hơn. Trường THPT Thanh Chương 3 là ngôi trường có bề dày thành tích, ở đây nhiều thế hệ thầy cô không những có kinh nghiệm về chuyên môn mà còn cả về công tác chủ nhiệm lớp. Đó là cơ hội lớn cho thế hệ giáo viên học hỏi và trau dồi kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác giảng dạy nói chung và công tác chủ nhiệm nói riêng. Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường là điều kiện thuận lợi để GVCN lập kế hoạch và phổ biến những chủ trương, kế hoạch của nhà trường đến với phụ huynh và học sinh kịp thời. Sự phối kết hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường ngày càng trở nên chặt chẽ có hiệu quả. 2.2.2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn gặp không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học sinh: xu hướng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là nghiện game online, Facebook.... Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho GVCN trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. Trường THPT Thanh Chương 3 đóng trên địa bàn miền núi rộng lớn, tập trung đông dân cư, nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp thu hút nhiều học sinh ở nhiều địa phương tham gia, đi lại khó khăn ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Đối với phụ huynh: Phần lớn gia đình học sinh làm nghề nông nghiệp điều kiện kinh tế còn khó khăn, có những bố mẹ đi làm ăn xa nên phó mặc cho nhà trường trong công tác giáo dục. Về phía học sinh: Kỹ năng giao tiếp, hoạt động xã hội còn nhiều hạn chế, các em thường hay ngại ngùng, e dè, thiếu tự tin, chưa mạnh dạn trước tập thể. 5
  11. II. Một số biện pháp nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh Trường THPT Thanh Chương 3 thông qua công tác chủ nhiệm 1. Tìm hiểu, nắm vững đối tượng học sinh của lớp Học sinh tồn tại với tư cách là đối tượng giáo dục, đồng thời cũng là chủ thể giáo dục. Để giáo dục học sinh có kết quả tốt, GV phải hiểu học sinh một cách đúng đắn, đầy đủ và cụ thể, từ đó lựa chọn những tác động sư phạm thích hợp. Nhà nghiên cứu giáo dục người Nga K.D.Usinski từng nói: “ Muốn giáo dục con người về mọi mặt cần phải hiểu con người về mọi mặt”. Muốn giáo dục toàn diện cho học sinh, giáo viên cần phải hiểu và phải hiểu rõ về học sinh. Muốn vậy, GVCN cần phải tìm hiểu học sinh lớp mình về mọi mặt như hoàn cảnh gia đình, tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, năng lực...thậm chí là cá tính, sở thích của các em. Cho nên công tác đầu tiên trong giáo dục toàn diện học sinh đòi hỏi người GVCN phải nắm vững đối tượng học sinh của lớp mình. Từ đó GVCN mới có kế hoạch giáo dục phù hợp và đạt kết quả cao nhất. Việc tìm hiểu, nắm vững học sinh của lớp mình có nhiều cách và nhiều kênh khác nhau và tôi đã thực hiện như sau: 1.1. Nghiên cứu hồ sơ học sinh - Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu học sinh thông qua các hồ sơ liên quan như: + Xem lí lịch sẽ giúp GVCN sẽ nắm bắt kịp thời đặc điểm sơ lược của các em. + Xem học bạ, sổ điểm, chú ý lời nhận xét và lời phê của GVCN ở lớp dưới sẽ giúp GVCN nắm được thông tin quan trọng như học sinh giỏi, khá, yếu, kém; môn nào có điểm cao, môn nào có điểm thấp, hạnh kiểm thế nào...Từ đó tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp giúp các em trong học tập, nhằm kịp thời khắc phục trong thời gian sau. + Thông qua sổ đầu bài sẽ giúp GVCN nắm được kịp thời diễn biến của lớp tích cực hay không tích cực, em nào nghỉ học vô lí do, em nào hay vi phạm trong các tiết học... - Tìm hiểu thông qua GVCN và các giáo viên bộ môn trước đó. Những thông tin thu được mang tính chính xác cao, đáng tin cậy. 1.2. Sử dụng phiếu điều tra - Yêu cầu học sinh tự viết các thông tin lên Phiếu điều tra và nộp lại cho giáo viên. Mặc dù đã nắm được thông tin lý lịch học sinh tuy nhiên giáo viên chủ nhiệm vẫn rất cần thực hiện thêm thao tác yêu cầu học sinh tự giới thiệu những nét cơ bản về bản thân và gia đình mình, như cha ông ta từng nói “nét chữ là nết người” trải qua kinh nghiệm nghề nghiệp dài lâu, tiếp xúc với nhiều nét chữ khác nhau, người giáo viên có thể dựa vào nét chữ mà nhận định được một phần tính cách, tâm hồn của học trò mình. 6
  12. 1.3. Trao đổi với học sinh - Thông qua kênh thông tin bạn bè của các em. Bởi chúng ta biết có nhiều học sinh ngại tiếp xúc, chia sẻ với giáo viên, cha mẹ của mình. Có những điều các em chỉ nói và chia sẻ được với những bạn bè cùng trang lứa . Chính vì vậy qua bạn bè của các em giáo viên sẽ thu thập được nhiều thông tin quý giá, bổ ích, thầm kín, riêng tư về các em. 1.4. Quan sát trực tiếp - Tìm hiểu thông qua quan sát trực tiếp. Đây là cách mà giáo viên làm thường xuyên nhất để hiểu và nắm học sinh của mình. Việc GVCN quan sát học sinh hàng ngày trong các hoạt động trên lớp, các buổi lao động, hoạt động vui chơi, trải nhiệm sẽ giúp GVCN nắm bắt, thu thập được những thông tin chân thật, khá đầy đủ về các em. Cách này rất hiệu quả đối với những GVCN dạy những môn có thời lượng nhiều tiết bởi giáo viên sẽ có điều kiện tiếp xúc và quan sát được các em nhiều hơn. Tất nhiên cách này đòi hỏi kĩ năng, khả năng quan sát của người giáo viên. 1.5. Trao đổi với cha mẹ học sinh Tìm hiểu thông qua hoạt động thăm hỏi trực tiếp gia đình của các em. “Trăm nghe không bằng một thấy” với những buổi thực tế đến thăm hỏi gia đình của các em, GVCN sẽ thu thập được nhiều thông tin chính xác về hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế, gia đình Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh của các em... 1.6. Tạo tình huống thử nghiệm Tìm hiểu thông qua tình huống thử nghiệm. Đây là cách giúp GVCN có thể thu thập được những thông tin cần làm sáng tỏ, những thông tin có tính chủ định từ giáo viên. Ví dụ như: Thông qua phiếu in sẵn một số câu hỏi về vấn đề định tìm hiểu rồi yêu cầu học sinh trả lời nhanh. Hay là những tình huống có vấn đề trong cuộc sống, giáo viên quan sát thái độ, cách ứng xử, cách xử lí của các em, thông qua đó GVCN có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết mà mình muốn tìm hiểu, làm sáng tỏ một cách khá chính xác. Đó là những cách mà tôi thường làm để thu thập thông tin của học sinh, để nắm rõ hơn từng đối tượng học sinh trong lớp. Từ đó sẽ giúp GVCN có kế hoạch chủ nhiệm, giáo dục phù hợp, linh hoạt đạt hiệu quả trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh, sát với từng đối tượng học sinh. 7
  13. 2. Xây dựng đội ngũ ban cán sự lớp Một thực tế cho thấy vai trò của GVCN là hết sức quan trọng và nặng nề trong việc góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Bởi vậy ngoài sự trăn trở tìm ra giải pháp GVCN cũng cần đến những nhân tố để hỗ trợ mình hoàn thành tốt nhiệm vụ. Và một trong những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện lớp mình chủ nhiệm đó chính là đội ngũ ban cán sự lớp- cánh tay đắc lực của GVCN; là đội ngũ chịu sự điều hành quản lí trực tiếp của GVCN. Điều hành, quản lí các hoạt động của lớp và từng thành viên trong lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh nội quy của trường của lớp. Đồng thời nắm bắt thông tin của lớp một cách kịp thời những kiến nghị của các thành viên trong lớp báo cáo cho GVCN. Có thể nói ban cán sự lớp là lực lượng nòng cốt là điều kiện để xây dựng một tập thể vững mạnh- môi trường tốt nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Ý thức được điều đó nên trong quá trình làm chủ nhiệm lớp tôi đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ ban cán sự lớp và xem đó là một biện pháp quan trọng giúp GVCN giáo dục toàn diện cho học sinh. Để xây dựng một đội ngũ ban cán sự tốt, có khả năng hỗ trợ giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác của mình. Bản thân xin trình bày các bước đi cụ thể như sau: 2.1. Lựa chọn ban cán sự Lựa chọn ban cán sự lớp là khâu đầu tiên đóng vai trò tiên quyết cho sự thành công của giáo viên chủ nhiệm. Bởi vậy ở bước thứ nhất này giáo viên phải dành nhiều thời gian và phối hợp nhiều phương pháp để tìm ra cho mình một đội ngũ ban cán sự lớp có khả năng hỗ trợ cho bản thân trong việc hoàn thành nhiệm vụ. Để bước đầu có sự lựa chọn chính xác, bản thân tôi thực hiện theo quy trình như sau: - Đề ra tiêu chuẩn chọn lựa: Trước khi lựa chọn ban cán sự lớp giáo viên phải đặt ra các tiêu chí cụ thể về tư cách đạo đức; về tinh thần, kết quả học tập; ý thức trách nhiệm cũng như các kỹ năng cần có của một người cán bộ lớp. Tuy nhiên trong quá trình lựa chọn, giáo viên phải nắm bắt tình hình lớp học, tùy vào đối tượng lớp khác nhau để có sự ưu tiên khác nhau cho mỗi tiêu chí cụ thể. - Hình thức lựa chọn: Thứ nhất giáo viên chủ nhiệm tự lựa chọn một đội ngũ cán bộ lớp trên cơ sở của việc tìm hiểu và quan sát của mình. Thứ hai tập thể lớp tự lựa chọn, bầu ra Đại hội Chi đoàn bầu Ban cán sự lớp 8
  14. đội ngũ cán bộ lớp thông qua hình thức bỏ phiếu kín tại phiên Đại hội lớp- Chi đoàn. Tốt nhất, GVCN định hướng cho tập thể lựa chọn, biến ý định của mình thành quyết định dân chủ của tập thể học sinh. 2.2. Bố trí chức danh Lựa chọn đúng người là bước tiên quyết, tuy nhiên chọn đúng việc để giao cũng là một khâu hết sức quan trọng đòi hỏi người GVCN phải cân nhắc hết sức cẩn thận. Để bố trí chức danh phù hợp với khả năng của từng học sinh, GVCN cần theo dõi, quan sát khả năng của từng học sinh để phát huy được ưu điểm từng người và phù hợp với khả năng và công việc: + Đối với Bí thư Chi đoàn: Phải là người năng nổ trong các hoạt động và phong trào của chi đoàn, của Đoàn cấp trên tổ chức; có vai trò uy tín trong đoàn viên thanh niên; ưu tiên những học sinh có năng khiếu văn nghệ thể thao. + Đối với lớp trưởng: Phải là người có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo tập thể, có thể bao quát công việc của lớp; ưu tiên chọn học sinh có học lực tốt và tín nhiệm của đa số thành viên trong lớp + Đối với lớp phó: Chọn học sinh có năng lực về lĩnh vực mình phụ trách và dự kiến bố trí. Lưu ý trong việc bố trí chức danh, GVCN cần tham khảo ý kiến tập thể bởi vì chính các em học sinh hàng ngày cùng học tập và sinh hoạt cùng nhau sẽ là những người hiểu về nhau nhiều hơn, do đó việc tham khảo ý kiến tập thể học sinh cũng là một kênh thông tin giúp GVCN phân công nhiệm vụ chức danh hợp lý. Ngoài ra cũng có thể xin ý kiến tư vấn của tổ chức Đoàn trường, giáo viên bộ môn, những người hàng ngày trực tiếp quản lý và giảng dạy các em. 2.3. Xây dựng quy chế làm việc Sau khi đã hoàn thành việc bố trí chức danh, bước tiếp theo GVCN cần xây dựng một quy chế làm việc cụ thể. Trong bản kế hoạch đại hội lớp, giáo viên chủ nhiệm giao nhiệm vụ cụ thể cho ban cán sự để các em nắm được trách nhiệm của mình trong việc thay thế GVCN điều hành hoạt động của lớp. * Nguyên tắc xây dựng Quy chế làm việc: - Để làm tốt nội dung quan trọng này, GVCN cần phối hợp chặt chẽ với Ban cán sự lớp cùng soạn dự thảo Quy chế làm việc của lớp trước khi đưa ra thảo luận trước lớp. - Quy chế làm việc của lớp cần phải được tập thể lớp đồng thuận và thông qua, có như vậy mọi thành viên trong lớp mới tự giác thực hiện và chịu trách nhiệm. 9
  15. - Quy chế làm việc là cơ sở để ban cán sự lớp áp dụng chỉ đạo và giám sát lớp và qua đó GVCN mới có cơ sở để đánh giá chính xác mọi thành viên trong lớp. Đồng thời, GVCN mới đánh giá được khả năng hoàn thành nhiệm vụ của từng thành viên ban cán sự lớp. - Quá trình tổ chức thực hiện, GVCN phải giám sát chặt chẽ để kịp thời uốn nắn điều chỉnh. 2.4. Huấn luyện và bồi dưỡng Một đội ngũ ban cán sự tốt không phải ngay từ đầu mà có được, để phát huy vai trò của lược nòng cốt này giáo viên phải có kế hoạch huấn luyện và bồi dưỡng. Ngay sau khi bàn giao công việc, GVCN phải khuyến khích động viên và đặt niềm tin vào các em bởi khi được tin tưởng, các em sẽ tự tin, cố gắng hết mình trong mọi công việc. GVCN phải là người hậu thuẫn cho các em để các em vững tin, cảm thấy có chỗ dựa khi cần thiết trong quá trình làm việc. Ban đầu, GVCN tham gia trực tiếp vào việc hướng dẫn ban cán sự xây dựng kế hoạch hoạt động, hướng dẫn học sinh chuẩn bị hoạt động, điều khiển quá trình tham gia hoạt động và đánh giá kết quả cuối cùng. Sau khi ban cán sự đã quen dần với công việc, GVCN giao dần cho đội ngũ cán bộ lớp tự tổ chức và điều khiển các hoạt động của lớp, giúp đỡ học sinh với tư cách là người cố vấn, điều chỉnh đúng hướng cho các em. Tổ chức để học sinh tự đánh giá kết quả hoạt động của tập thể lớp, qua đánh giá, các em rút ra được bài học kinh nghiệm để cho những hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn. Mỗi lần như vậy là dịp để tập thể học sinh trưởng thành. Hướng dẫn các em cách phân công giao việc cho các thành viên lớp, thực hiện đồng thời rèn luyện cho các em kỹ năng giao tiếp trước đám đông. Yêu cầu các em tham gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng ban cán sự lớp do Đoàn trường tổ chức, ngoài ra có thể cho các em trực tiếp đi dự các tiết sinh hoạt lớp tại những lớp có đội ngũ ban cán sự có năng lực để học hỏi kinh nghiệm. Với cách đó tôi đã bồi dưỡng được một bí thư chi đoàn tích cực gương mẫu, đó là em Phạm Thị Thu Hằng. Trong các hoạt động của của chi đoàn em luôn chủ động và sáng tạo. Tiếp thu mọi hướng dẫn của Đoàn trường về triển khai chi tiết cụ thể , rõ ràng đến từng đoàn viên, triển khai thực hiện hiệu quả. Vì vậy các hoạt động bề nổi của lớp như văn nghệ, bóng chuyền, làm tập san, thi cắm hoa... lớp luôn đạt các giải cao. Nhiều năm liền em đạt cán bộ lớp tích cực, gương mẫu, được huyện đoàn tặng bằng khen ( xem PHỤ LỤC). 2.5. Kiểm tra giám sát Để nắm bắt và phát huy vai trò của ban cán sự lớp cũng như tình hình lớp học, GVCN phải thường xuyên kiểm tra giám sát bao gồm giám sát hàng ngày, giám sát hàng tuần, hàng tháng qua sổ theo dõi của Ban cán sự kết hợp với sổ đầu 10
  16. bài và ý kiến của Đoàn thanh niên, giáo viên bộ môn. Đồng thời có những buổi họp riêng với Ban cán sự để nắm bắt tình hình và khích lệ những việc làm của các em. Lập một nhóm kín gồm Ban cán sự lớp và GVCN để trao đổi thảo luận và định hướng khi cần thiết. 2.6. Đánh giá rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời GVCN tiến hành đánh giá tập thể Ban cán sự lớp hàng tuần qua các buổi giao ban sinh hoạt. Nhận xét những việc làm được và chưa làm được để rút kinh nghiệm, đồng thời biểu dương những bạn làm tốt công việc được giao phó, khéo léo nhắc nhở những bạn chưa tích cực trong công việc thuộc chức trách của mình. Với việc xây dựng được một đội ngũ ban cán sự lớp tích cực, hoạt động có hiệu quả sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hỗ trợ GVCN quản lí học sinh của lớp mình, góp phần vào việc nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh. 3. Xây dựng mối quan hệ thầy – trò, bạn bè trong và ngoài lớp 3.1. Xây dựng mối quan hệ thầy – trò Từ xưa mối quan hệ Thầy- Trò luôn được hiểu đó là người dạy chữ và người học chữ, thậm chí nhiều khi chúng ta đã xem là mối quan hệ một chiều, áp đặt của người dạy đến người học "nhất tự vi sư, bán tự vi sư". Nên mối qua hệ Thầy- Trò có những khoảng cách nhất định. Nhưng trong công cuộc đổi mới căn bản giáo dục hiện nay, khi người học trở thành trung tâm của hoạt động dạy học với yêu cầu giáo dục mang tính toàn diện, phát huy những năng lực của học sinh chứ không đơn thuần là việc dạy chữ, truyền thu kiến thức đặt ra một vấn đề mối quan hệ Thầy- Trò cũng đã có những chuyển biến, thay đổi ít nhiều. Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục hiện nay đòi hỏi người giáo viên cần xây dựng mối quan hệ Thầy- Trò đảm bảo tính nghiêm túc, đạo đức cũng vừa phải gần gũi thân thiện, tốt đẹp, có như vậy chúng ta mới hoàn thành được mục tiêu giáo dục. Theo tôi để xây dựng được mối quan hệ Thầy- Trò tốt trước tiên người giáo viên cần có một cách ứng xử mô phạm, đạo đức, lịch sự, có văn hóa. Mà trước hết là văn hóa giao tiếp, xưng hô với học sinh, có thể xưng hô bằng nhiều cách nhưng phải đảm bảo một nguyên tắc là lịch sự và phải có sự tôn trọng đối với học sinh. Giáo viên cần nhớ tên học sinh, sử dụng tên để gọi học sinh điều này giúp học sinh nhận thấy rằng thầy cô đang quan tâm chú ý tới mình, ngoài ra việc làm đó tạo nên những cảm xúc tích cực của học sinh. Ví dụ: khi mình gọi tên một học sinh nào đó, có thể làm nó bất ngờ, có những học sinh đã bật ra những câu hỏi khi mình gọi tên nó “Thầy! Sao Thầy nhớ tên con” hay “Thầy vẫn biết tên con à?”. Và tôi nghĩ với cách xưng hô này sẽ góp phần xây dựng mối quan hệ Thầy- Trò. Chính vì vậy cho dù nhiều lúc nóng nảy, tức giận hay khi học sinh hỗn láo với mình đòi hỏi người giáo viên vẫn phải xưng hô mô phạm, tránh việc xưng hô mày- 11
  17. tao hay những lời nói thô tục, coi thường học sinh. Ngoài văn hóa lời nói cần chú ý đến những cách ứng xử sao cho mô phạm, văn hóa để có tính nêu gương. Từ đó sẽ tạo được những ấn tượng tốt sẽ có được những mối quan hệ tốt. Thiết lập không gian tâm lí gần gũi, xóa bỏ hàng rào, ngăn cách giữa Thầy- Trò. Nếu giáo viên tạo khoảng cách quá lớn thì học sinh luôn mang tâm lí sợ hãi, ngại tiếp xúc, khó thân thiện, học sinh sẽ không cởi mở, bộc lộ bản thân thậm chí sẽ có những học sinh tìm cách trốn tránh tiếp xúc, chống đối giáo viên. Ngược lại khi người giáo viên thiết lập được một không gian tâm lí gần gũi với học sinh sẽ giúp rút ngắn khoảng cách, quan hệ Thầy- Trò. Làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, tự tin khi gần giáo viên và từ đó sẽ nảy sinh nhu cầu muốn tâm sự, bộc lộ với thầy cô giáo. Ví dụ như trong giờ học, ngoài việc hình thành kiến thức cho các em, để hoạt động dạy học đỡ căng thẳng, áp lực nhàm chán, tôi thường nói, kể những câu chuyện vui đùa, hài hước, kể một mẩu chuyện có ý nghĩa giáo dục liên quan đến bài học sẽ tạo được một không gian học tập sinh động, thoải mái giúp các em dễ dàng hơn trong việc tiếp nhận, hình thành kiến thức. Hay là việc GVCN chủ động tạo ra những buổi nói chuyện mang tính tâm sự, chia sẻ. Lúc đó giáo viên đóng vai trò người mẹ, người chị, người anh thậm chí đặt mình vào vị trí của các em để hiểu nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng, biết các em có những gì? khó khăn ra sao? có vấn đề gì bức xúc cần tư vấn giải quyết. Lúc đó GVCN là “thủ lĩnh” là “điểm dựa tinh thần” cho các em. Nếu học sinh cảm nhận được điều đó thì chúng sẽ có nhu cầu bộc lộ tâm sự, nói lên tiếng nói của mình. Và khoảng cách Thầy- Trò sẽ được rút ngắn, mối quan hệ sẽ thân thiết và gần gũi hơn. Trong trường hợp các em không tiện nói ra trực tiếp GVCN có thể động viên các em viết vào giấy nhắn tin có tính chất riêng tư. Và tôi đã gặp một tình huống như thế này: Vào một buổi chiều thứ 7, tôi dạy bồi dưỡng học sinh giỏi, đang chữa một đề văn Nghị luận xã hội mà nội dung liên quan đến sự thấu hiểu, đồng cảm trong cuộc sống. Tôi có kể một câu chuyện gia đình tôi: Hôm 20/11 con trai tôi đi chúc tết Thầy cô về, khác với mọi hôm, nhìn mặt tôi thấy con trai không vui, mặt có vẻ “sượng” đi,tôi liền nói: “Hôm nay Anh hai Sài Gòn đi chơi về có chuyện gì phải, mẹ thấy không vui? ( Tôi thường gọi con trai như thế) con trai tôi liền khóc và kể cho mẹ nghe về câu chuyện mà nó gặp phải. Nghe đến đó một học sinh trong đội tuyển là Nguyễn Trần Anh P (xin được không ghi tên cụ thể) đã nói: Em M nhà cô thật hạnh phúc” và tôi thấy em lấy tay lau vội giọt nước trên khoé mắt em. Nhưng nhận thấy em cố dấu cảm xúc nên bài giảng của tôi lại tiếp tục. Sáng hôm sau khoảng 11 giờ trưa, tôi đang nấu ăn thì thấy cuộc gọi từ bố của em Nguyễn Trần Anh P với một giọng hốt hoảng: “ Cô ơi! Anh P từ sáng đến giờ đóng cửa và nằm khóc trong phòng, không chịu gặp ai trong gia đình. Tôi lo quá! Chẳng biết vì lí do gì. Đứng ngoài gõ cửa bảo mở cửa cháu không mở, nói vọng ra con không nói chuyện với bố me, chỉ muốn nói chuyện với cô N thôi. Biết là làm phiền cô nhưng không có cách nào khác, nên muốn nhờ 12
  18. cô gọi điện nói chuyện với cháu giúp tôi. Thế là tôi gọi điện cho Anh P, chuông đổ, rồi em bốc máy, em òa khóc nức nở và cứ gọi Cô ơi! Cô ơi! Tôi nói “ Cô ôm Anh P một cái! Nếu em muốn khóc cô cứ cầm máy để nghe em khóc.” (Bởi có nhiều lần trong cuộc sống như bước vào kì thi hay xử lí việc gì đó hồi hộp nó thường bảo: “cho em ôm cô cái để lấy tinh thần”). Có chuyện gì cứ bình tĩnh nói với cô. Anh P bản lĩnh của cô đâu rồi!, học trò cô N mà mềm yếu thế!...Và cứ như thế em đã nói chuyện với tôi hơn một tiếng đồng hồ. Vấn đề mà em gặp phải là trong thời gian gần đây do gặp phải những khó khăn trong làm ăn nên bố mẹ thường xuyên cãi vã, to tiếng với nhau, giận nhau, không có thời gian quan tâm đến việc học học của nó. Nó buồn vui, muốn cái gì bố mẹ cũng không biết. Biết lắng nghe học sinh: giáo viên phải biết lắng nghe những ý kiến của các em, sẵn sàng trả lời thấu đáo những câu hỏi của các em, cho các em biết các em có thể điện thoại cho thầy cô để nói chuyện hay hỏi bài, hay những vấn đề khó khăn trong cuộc sống... như vậy các em sẽ có nhu cầu bộc lộ, chia sẻ những ý kiến mong muốn của mình. 3.2. Xây dựng mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp Ngoài xây dựng mối quan hệ Thầy - Trò thì GVCN cần xây dựng được mối quan hệ bạn bè cho học sinh hòa đồng, thân thiện, đoàn kết. Để làm được điều đó công việc của giáo viên là phải làm cho lớp học đoàn kết yêu thương nhau. Giáo viên cần phải tạo điều kiện cho học sinh thể hiện sự quan tâm của mỗi thành viên trong lớp như thăm hỏi khi các bạn bị ốm đau, có những lời chúc mừng trong ngày sinh nhật, giúp đỡ khi bạn gặp rủi ro... Từ đó sẽ hình thành sự quan tâm, tình yêu thương, sự sẻ chia ở các em. Ngoài ra GVCN cần có sự đối xử công bằng, công tâm đối với tất cả học sinh trong lớp. Điều này giúp học sinh cảm nhận được mình được bình đẳng, được quan tâm, được yêu thương như những bạn khác. Tránh tình trạng thiên vị, quan tâm đặc biệt của GVCN đối với một số học sinh. Chính sự công bằng sẽ tạo nên sự đoàn kết hòa đồng, đồng thuận, đồng lòng trong học sinh và khi đó chúng ta đã xây dựng được một mối quan hệ bạn bè tốt đẹp thân thiện đoàn kết cho học sinh. Là môi trường tốt để học sinh có điều kiện học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, giúp các em hình thành những phẩm chất tốt đẹp như tinh thần đoàn kết, yêu thương chia sẻ, sự hợp tác...góp phần hoàn thiện nhân cách, đạo đức cho học sinh. 4. Kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn Nếu việc quản lý giáo dục chỉ dựa vào GVCN thì khó đạt được kết quả cao bởi không phải lúc nào GVCN cũng có mặt bên cạnh để quản lý, giáo dục. Vì vậy quản lý giáo dục toàn diện cần đến sự phối hợp GVCN và giáo viên bộ môn. - Trước tiên để giáo dục các em, GVCN cần tạo điều kiện hình thành mối quan hệ tốt đẹp giữa giáo viên bộ môn và học sinh, GVCN sẽ là chiếc cầu nối, là sợi dây gắn kết giúp giáo viên bộ môn và học sinh hiểu nhau hơn. 13
  19. Ở phương diện thứ nhất , GVCN cần giúp học sinh của lớp hiểu giáo viên bộ môn của lớp mình. Thực ra giáo viên bộ môn là đồng nghiệp của mình vì thế ít nhiều GVCN sẽ nắm được đặc điểm, tính cách, năng lực của từng giáo viên để từ đó giúp các em hiểu, có cách ứng xử phù hợp với từng giáo viên. Đồng thời GVCN phải thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu học sinh của lớp mình tôn trọng thầy cô, kiên quyết xử lý những học sinh vô lễ thiếu tôn trọng thầy cô. Ở phương diện thứ hai, ngược lại GVCN cần tạo điều kiện để giáo viên bộ môn có thể hiểu tình hình của lớp, đặc điểm của từng học sinh. Phản ánh trao đổi kịp thời những mong muốn, nguyện vọng của học sinh đến giáo viên bộ môn để dẫn đến việc giáo viên bộ môn hiểu, cảm thông, yêu thương, đối xử công bằng với học sinh. Sau đây tôi xin nêu một tình huống cụ thể mà tôi đã thực hiện: Vào đầu năm học mới được mấy tuần, học sinh nói: “Cô ơi! Năm nay chắc chết vì thầy Nguyễn Anh T dạy Sử lớp ta, Thầy T “hắc xì dầu” lắm, chúng em nghe sợ và lo!” Tôi biết, hiểu sự lo lắng của các em là có cơ sở và cũng muốn nói chuyện với thầy T để chia sẻ với thầy về những tâm sự của các em nhưng chưa có dịp và nên bằng cách nào. Cho đến một hôm, tôi tranh thủ giờ ra chơi vào dặn dò lớp một số việc, trống vào học tôi không để ý và thấy thầy T bước vào lớp, học sinh nhắc đến giờ sử thầy T rồi cô ạ! Tôi nghĩ đây là cơ hội để tôi giúp Thầy trò hiểu nhau nên tôi đã xin phép thầy cho tôi 5 phút, thầy đồng ý. Tôi hỏi : “Các em thấy thầy T đẹp trai không? Học sinh đáp: “Có ạ!”( Vì tôi biết thầy đẹp trai và chắc chắn học sinh trả lời có). Tôi lại tiếp: Các em có sợ Thầy không? Cả lớp im lặng rồi có đứa lí nhí nhưng cũng đủ để Thầy nghe “sợ chết đi được”. Thầy T nói: “tại sao sợ Thầy? Thầy đã làm gì mà các em sợ? Mới khen Thầy đẹp trai đó mà!” cả lớp nhao nhao “Đúng là đẹp trai thật nhưng vẫn cứ sợ!” Tôi liền nói: Bây giờ có cô và thầy ở đây các em hãy chia sẻ cho cô và thầy biết vì sao? Tôi khuyến khích và cũng cảm nhận được sự tự tin của các em vì có cô chủ nhiệm của mình- chỗ dựa tinh thần vững chắc nên các em đã mạnh dạn chia sẻ vô vàn những lí do mà chúng sợ như nhiều khi em thấy thầy nhanh nổi nóng, kiểm tra bài cũ thì yêu cầu cao mà cho điểm thì thấp, chả khi nào thấy thầy cười... khi câu chuyện đang ở cao trào tôi xin phép rút lui, nhường không gian cho thầy trò. Sau một thời gian tôi nghe học trò tâm sự: thầy T dạo ni khác lắm cô à, thoáng lắm, thân thiện lắm... còn Thầy thì cứ gặp tôi luôn nói: Lớp cô rành tình cảm, ngoan, môn tôi không thi đại học mà học rất chăm... Qua câu chuyện trên, tôi nghĩ rằng GVCN phải là chiếc cầu nối giúp giáo viên bộ môn và học sinh lớp mình hiểu nhau hơn. - Phối hợp để giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, GVCN mong muốn nhận được sự cộng tác của giáo viên bộ môn bằng cách mỗi giờ học nhờ giáo viên bộ môn kiểm tra sĩ số, vệ sinh phòng học, việc thực hiện các nội quy như trang phục, đầu tóc...GVCN nhờ giáo viên bộ môn kịp thời phản ánh những lỗi vi phạm của học sinh để phối hợp giáo dục. Và khi nhận được thông báo học sinh vi phạm, GVCN cần lắng nghe thông tin từ hai 14
nguon tai.lieu . vn