Xem mẫu

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 5 LĨNH VỰC QUẢN LÍ Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TƯ VẤN TÂM LÍ CHO HỌC SINH VÙNG NÔNG THÔN MIỀN NÚI TẠI TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 5 Nhóm thực hiện: NGUYẾN ÁNH DƯƠNG – Chức vụ: Phó hiệu trưởng Điện thoại: 0914082228, Email: duongnlv@gmail.com NGUYỄN THỊ HỒNG MẬN - Chức vụ: Giáo viên Điện thoại: 0942790819, Email: hongman83@gmail.com Đơn vị: Trường THPT Nghi Lộc 5 – Nghệ An Nghi Lộc, tháng 3 năm 2021 1
  2. Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Bước sang thế kỷ thứ XXI, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước đột phá, tạo sự chuyển biến nhanh về mọi mặt trong đời sống của người Việt Nam. Tuy nhiên, những biến động của nền kinh tế thị trường mở cửa cũng gây ra không ít tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, mà lực lượng đông nhất chính là học sinh trung học phổ thông. Đối diện với những vấn đề phức tạp đó, rất nhiều em sẽ không biết nhìn nhận, giải quyết vấn đề như thế nào cho hợp lý. Vì thế, khi vấp phải những vấn đề tâm lý phức tạp, các em khó có thể vượt qua. Các em có rất nhiều khúc mắc trong tâm lý, tình cảm bức xúc của lứa tuổi, vướng mắc trong học tập, hướng nghiệp…cần được quan tâm, chia sẻ. Việc tư vấn đối với học sinh THPT quan trọng bao nhiêu thì tư vấn cho học sinh vùng nông thôn miền núi lại càng cần thiết bấy nhiêu. Bởi các em không chỉ là những học sinh ở độ tuổi vị thành niên với những diễn biến tâm lí thay đổi phức tạp, mà cùng với đó là hiểu biết, hoàn cảnh sống, các mối quan hệ xã hội đặc thù của vùng miền đã ảnh hưởng rất lớn đến học tập cũng như định hướng nghề nghiệp của mỗi học sinh. Trong những năm qua công tác tư vấn cho học sinh, đặc biệt là tư vấn tâm lí học sinh tại trường THPT Nghi Lộc 5 cũng đã mang lại hiệu quả nhất định. Song hiệu quả công tác này chưa diễn ra đồng bộ, đứng trước các tình huống phức tạp đa số giáo viên chủ nhiệm còn lúng túng, thiếu kĩ năng cũng như sự linh hoạt. Từ thực tế đó, chúng tôi nhận thấy việc tìm ra những biện pháp tư vấn đặc biệt là tư vấn tâm lí học sinh vùng nông thôn, miền núi là điều vô cùng cần thiết. Với tư cách là cán bộ quản lí, thành viên của tổ tư vấn đồng thời là một chủ nhiệm, chúng tôi xin đề xuất đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác tư vấn tâm lí cho học sinh vùng nông thôn miền núi tại trường THPT Nghi Lộc 5” 2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài. 2.1. Mục tiêu - Trên cơ sở tổng hợp các biện pháp đã thực hiện tại trường phổ thông, đề tài nhằm hỗ trợ cho học sinh vùng nông thôn miền núi trong việc gặp phải những rào cán khó khăn tâm lí. Từ đó nâng cao hiểu biết của học sinh, phụ huynh về việc học cũng như định hướng nghề nghiệp trong tương lai. - Bên cạnh đó, đề tài còn góp phần thay đổi chính quan niệm và thái độ của thầy, cô giáo đối với trong việc góp phần phát triển công tác dạy học, hướng tới sự 2
  3. phát triển toàn diện, bền vững của trường phổ thông cũng như phát huy phẩm chất năng lực của học sinh. 2.2. Ý nghĩa - Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa giáo dục to lớn, đó không chỉ là góp phần phát triển năng lực, phẩm chất học sinh mà đó còn đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện . - Thực hiện tư vấn tâm lí cho học sinh vùng nông thôn miền núi góp phần củng cố và phát triển phong trào nề nếp học tập nói riêng, hướng tới xây dựng môi trường học tập đoàn kết, thân thiện, phát triển năng lực và phẩm chất của người học nói chung. 2.3. Tính mới của đề tài - Đề tài đã đề cập đến vấn đề cấp thiết hiện nay trong đời sống học đường, đặc biệt đã đề xuất được một số biện pháp mang tính đặc thù dành riêng cho học sinh vùng nông thôn miền núi. - Đề tài thực hiện được việc đổi mới trong phương pháp quản lí nhằm hướng tới phát triển năng lực phẩm chất cho học sinh. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Tiến hành thu thập tài liệu qua sách, báo, các văn bản liên quan đến đề tài. Trên cơ sở đó để phân tích, tổng hợp và rút ra những vấn đề cần thiết của đề tài. 3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi trực tiếp trao đổi làm việc với học sinh, giáo viên bộ môn giảng dạy, gia đình học sinh và tiếp nhận các hoạt động của đoàn trường THPT Nghi Lộc 5, nghành giáo dục, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh huyện Nghi Lộc, các tổ chức đoàn thể trên địa bàn. Chúng tôi sử dụng các phương pháp như: điều tra, khảo sát, quan sát sản phẩm, tổng kết kinh nghiệm, trao đổi, lấy ý kiến góp ý của giáo viên chủ nhiệm của một số lớp học, lấy ý kiến điều tra học sinh.…Đó là những cơ sở cho việc triển khai cũng như khả năng ứng dụng của đề tài. 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là một số biện pháp nhằm nâng cao công tác tư vấn tâm lí cho học sinh vùng nông thôn miền núi tại Trường THPT 5. Khách thể nghiên cứu là học sinh trường THPT Nghi Lộc 5. 3
  4. Phần II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 1.1. Lí thuyết cơ bản về hoạt động tư vấn. 1.1.1.Tư vấn và tư vấn tâm lí. Khái niệm: Tư vấn là từ chỉ một hoạt động chuyên môn hoặc chỉ một nghề nghiệp chuyên giúp người khác có thể ra quyết định và giải quyết vấn đề, nâng cao năng lực sống cá nhân bằng phương pháp nghiệp vụ chuyên môn. Tư vấn cho học sinh là phương pháp tác động mang tính định hướng giáo dục tới những học sinh đang có những khó khăn tâm lý, tình cảm, những bức xúc của lứa tuổi cần được giải đáp, những vướng mắc trong học tập, sinh hoạt, trong hướng nghiệp, trong tìm kiếm việc làm cần được người am hiểu và có trách nhiệm trợ giúp, tham vấn giải quyết để chọn được cách xử lý đúng, góp phần ổn định đời sống tâm hồn, tình cảm và giúp học sinh thực hiện được nguyện vọng của mình. Tư vấn tâm lí học đường bao gồm các hoạt động tư vấn, sẻ chia, hỗ trợ tâm lí cũng như các vấn đề liên quan đến tâm lí, học tập, các mối quan hệ (bạn bè, gia đình…) cho học sinh. Từ đó, giúp cho các em lấy lại cân bằng về mặt cảm xúc, tự định hướng cho tương lai và đồng thời giúp phát hiện sớm hoặc can thiệp những sai lệch trong cảm xúc, hành vi hay nhận thức của các em trong cuộc sống nói chung và nhà trường nói riêng. Tư vấn tâm lí là quá trình nhà tư vấn vận dụng những tri thức, phương pháp và kỹ thuật tâm lý học nhằm trợ giúp đối tượng được tư vấn nhận ra chính mình, từ đó tự thay đổi hành vi, thái độ, tự tái lập lại thế cân bằng tâm lí của bản thân ở trình độ cao hơn. Việc tư vấn tâm lí cho học sinh trong trường phổ thông cũng giúp hỗ trợ học sinh rèn luyện kỹ năng sống; tăng cường ý chí, niềm tin, bản lĩnh, thái độ ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ xã hội; rèn luyện sức khỏe thể chất và tinh thần, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách. 1.1.2 . Nguyên tắc và phương pháp tư vấn - Nguyên tắc tư vấn tâm lí cho học sinh Theo điều 4 Thông tư 31/2017/TT-BGDĐT về hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn tâm lí cho học sinh trong trường phổ thông do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành (có hiệu lực từ ngày 02/02/2018), cụ thể như sau: + Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong nhà trường và sự tham gia của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của học sinh (gọi chung là cha 4
  5. mẹ của học sinh) và các lực lượng ngoài nhà trường có liên quan trong các hoạt động tư vấn tâm lí học sinh. + Đảm bảo quyền được tham gia, tự nguyện, tự chủ, tự quyết định của học sinh và bảo mật thông tin trong các hoạt động tư vấn tâm lí theo quyết định của pháp luật. - Nội dung tư vấn: tư vấn tâm lý lứa tuổi, giới tính, hôn nhân, gia đình, sức khỏe sinh sản, vị thành niên; tư vấn - giáo dục kỹ năng, biện pháp ứng xử văn hóa, phòng chống bạo lực, xâm hại; tư vấn tăng cường khả năng ứng phó, giải quyết vấn đề phát sinh trong mối quan hệ gia đình, thầy cô, bạn bè…; tư vấn kỹ năng, phương pháp học tập hiệu quả, định hướng nghề nghiệp (tùy theo cấp học)… - Phương pháp tư vấn + Tư vấn trực tiếp Cách thức trị liệu và tư vấn phổ biến nhất là khi thân chủ và nhà tư vấn ngồi trong cùng một phòng, do đó cả hai bên có thể nghe và nhìn nhau (với điều kiện là họ không bị khuyết tật về nhìn hoặc nghe). Cách thức truyền thống này có nhiều ưu điểm và tạo cơ hội cho những phản hồi tức thì, với cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ cử chỉ. Đây là hình thức có tính truyền thống và luôn được các nhà tư vấn khuyến khích, vì qua việc trao đổi trực tiếp, nhà tư vấn không chỉ nhận được các thông tin bằng lời nói, mà còn đánh giá và nhận biết được các thông tin phi ngôn ngữ ( cử chỉ, nét mặt…) mà đây lại là những thông tin có tính trung thực cao. + Tư vấn gián tiếp Hình thức tư vấn thông qua trực tuyến - qua mạng nội bộ, trang thông tin điện tử của nhà trường, email, mạng xã hội, điện thoại và các phương tiện thông tin, truyền thông các hoạt động khác nhau... 1.2. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trung học phổ thông. Học sinh THPT bắt đầu từ 15 – 16 tuổi đến 17 – 18 tuổi. Đó là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên hay còn gọi là thời kỳ thanh niên mới lớn. Vị trí trung học phổ thông – giai đoạn của cả một thời kỳ bồi dưỡng kiến thức văn hóa chung đã khiến thanh niên phải nghĩ đến tiền đồ của mình, nghĩ đến việc chuẩn bị bước vào đời và lo lựa chọn nghề nghiệp mai sau. Ở lứa tuổi này các em đã có sự trưởng thành về tư tưởng, tâm lí, là thời kỳ tự xác định về mặt xã hội, tích cực tham gia vào cuộc sống lao động, học tập để chuẩn bị cho tương lai. Đây chính là thời kỳ nhân cách đang trưởng thành tiến tới ổn định. Về thể chất: Ở các em đã có một cơ thể phát triển gần ngang bằng với cơ thể trưởng thành, các chức năng sinh lí cũng đạt được độ phát triển cao. Cơ thể đã dần được hoàn thiện. Thể lực của các em phát triển mạnh giúp cho việc thực hiện các công việc nặng nhọc, các công việc có kỹ thuật tốt hơn. Sự phát triển của não, hệ 5
  6. thần kinh trung ương và các giác quan giúp các em tiếp thu những kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật và thông tin mới của xã hội rất nhanh. Về tâm lí: Tự ý thức của học sinh THPT đã phát triển ở mức cao, có liên quan đến nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những thuộc tính tâm lí, đạo đức theo quan điểm sống, ước mơ và hoài bão. Các em quan tâm sâu sắc đến đời sống tâm lí riêng, đến những phẩm chất nhân cách và năng lực của mình. Các em thường đặt mình vào tương lai vì vậy các em thường quan tâm đến cuộc sống sau này, tình yêu, gia đình, và sự lựa chọn bạn đời trong tương lai. Lứa tuổi này có hai loại ý thức nổi bật đó là: Tự ý thức về hình ảnh bản thân sẽ làm cho các em tự hào hay khổ tâm về diện mạo. Còn tự ý thức về thế giới nội tâm làm cho đời sống của thanh niên trở nên sâu sắc, tăng cường khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình. Học sinh THPT có thể tự ý thức được mặt mạnh mặt yếu của mình, luôn khao khát tự hoàn thiện mình. Ngược lại, nếu sự tự ý thức có sai lầm họ sẽ khăng khăng bảo vệ quan điểm đó. Do đó với đặc điểm này giáo dục phải tác động đến yếu tố tự ý thức, tự giác ngộ, tự điều chỉnh bản thân. Ở lứa tuổi này, yếu tố đạo đức, tình cảm cũng hình thành mạnh mẽ. Thế giới tình cảm của các em đa dạng, nổi bật là quan hệ tình cảm gia đình, tình bạn và tình yêu nam nữ: Gia đình có ảnh hưởng đến sự phấn đấu và sự phát triển nhân cách của các em học sinh THPT. Do ảnh hưởng giáo dục và sự trợ giúp của gia đình về các mặt, cuộc sống tình cảm của các em phát triển đến mức độ cao. Quan hệ bạn bè giữ vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm của các em. Đối với các em, bạn bè trở thành chỗ dựa tinh thần, là chỗ tâm tình thổ lộ những vướng mắc thầm kín. Lời khuyên của bạn nhiều khi có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết những vấn đề quan trọng của các em. Quan hệ với bạn khác giới tình yêu nam nữ xuất hiện, phát triển từ quan hệ thân thiết trong tình bạn. Tình cảm lúc này thường lãng mạn, thơ mộng. Đa số các em cũng đã nhận thức đúng đắn về tình yêu “yêu là quan trọng phải tìm hiểu cẩn thận”. Trong giáo dục nhà trường cần quan tâm cung cấp cho các em những kiến thức giới tính, gia đình, tình bạn và tình yêu. Những đặc điểm tâm lí của học sinh THPT nêu trên chứng tỏ thanh niên mới lớn là những người đã đạt tới trình độ có thể tự quyết định mọi công việc của mình và nhất là có thể trực tiếp tham gia lao động. Lao động và học tập là hai hoạt động chủ yếu của học sinh THPT. Song vui chơi vẫn có tác dụng rất lớn đối với các em khi cần thư giãn tâm hồn và rèn luyện các phẩm chất cần thiết. Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng, do thể lực và trí lực dồi dào, do đã có được một số kinh nghiệm xác đáng, do trình độ hiểu biết đã được nâng cao… học sinh THPT có thể đi đến chỗ chủ quan, tự mãn, tự đánh giá quá cao bản thân mình. Các em giàu ước mơ, giàu lòng quả cảm nhưng nhiều khi vì nôn nóng đối với công việc, muốn đốt cháy giai đoạn rồi do hấp tấp, thiếu suy tính cặn kẽ mà có thể vấp váp, bị thực tế khách quan dội nước lạnh vào nhiệt tình của mình sinh ra bi quan, dễ chán nản. Do vậy trong quá trình giáo dục các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ học sinh phải kiên trì bền bỉ giáo dục bằng phương pháp cơ bản là thuyết phục và rèn luyện thực tế. Và nếu trong tâm lí của các em có vấn đề thì phải tính đến vai trò của chuyên gia 6
  7. tâm lí một cách kịp thời để giúp đỡ các em để không xảy ra những suy nghĩ và hành động tiêu cực ở các em. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Khái quát chung về Trường THPT Nghi Lộc 5 Trường THPT Nghi Lộc 5 được thành lập theo quyết định 2834/QĐ- UBND.VX ngày 07/8/2006 của UBND tỉnh Nghệ An. Trường nằm ở vùng phía tây, vùng kinh tế có nhiều khó khăn của huyện Nghi Lộc. Địa chỉ của trường thuộc xóm 15, xã Nghi Lâm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trải qua 15 năm thành lập và hoạt động, tuy còn non trẻ nhưng nhà trường đã có nhiều cố gắng vượt qua mọi khó khăn về cơ sở vật chất để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Hàng năm với sự tâm huyết và trách nhiệm của Ban giám nhiệu cũng như đội ngũ giáo viên đã từng bước khắc phục mọi khó khăn để nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường. Đội ngũ giáo viên của nhà trường đều đạt chuẩn, với tuổi đời còn trẻ, tuy chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhưng đầy nhiệt huyết nghề nghiệp, luôn nêu cao tinh thần học hỏi các đồng nghiệp trong cũng như ngoài trường. Hiện nay, số lượng học sinh gồm 24 lớp, trong đó học sinh của trường chủ yếu là các xã nông thôn miền núi của huyện Nghi Lộc gồm: Nghi Lâm, Nghi Văn, Nghi Kiều và rải rác một số em thuộc Đại sơn, Trù Sơn ( Đô Lương) 2.2.Thực trạng đời sống tâm lí của học sinh hiện nay Do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế- xã hội ngày càng sâu sắc, đa dạng và phức tạp, đời sống tâm lý học sinh nói chung, học sinh cấp trung học nói riêng đang có những biến động to lớn với nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Các em thường gặp những khúc mắc trong học tập, tâm sinh lí, trong mối quan hệ với thầy cô, gia đình, bạn bè…nếu không được điều chỉnh, giải tỏa kịp thời, thì rất dễ dẫn đến hậu quả đáng tiếc: nhẹ thì chán học, bỏ học; nặng thì trầm cảm, bạo lực học đường, thậm chí tự tử, gây án mạng. 2.3.Thực trạng đời sống tâm lí của học sinh vùng nông thôn miền núi tại trường THPT Nghi Lộc 5. 2.3.1. Khảo sát về tâm lý, nhân cách Kết hợp với trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, vào tháng 10 năm 2020, chúng tôi đã có cuộc khảo sát về tâm lí học sinh tại các tập thể lớp 10A4, 10A5, 11A1, 11A3, 12A5 và phỏng vấn riêng một số cá nhân học sinh gồm: Em Nguyễn Thị Thúy Hòa 11A3, Nguyễn Đình Vương 10A2 và em Nguyễn Thị Ngân Hà 12A1 trường THPT Nghi Lộc 5. Kết quả cho thấy những khó khăn tâm lý của học sinh như sau: 7
  8. Một số vấn đề các em còn gặp phải như: Tổn thương sức khỏe tinh thần như lo âu, stress, một số trường hợp đặc biệt có những biểu hiện nhẹ của trầm cảm như ít giao tiếp, thu mình…những khó khăn trong học tập như: khó khăn về cảm xúc, khó khăn trong phương pháp học tập, khó khăn trong định hướng nghề nghiệp, khó khăn trong mối quan hệ giữa cá nhân học sinh với bạn bè, gia đình và giáo viên. Theo kết quả điều tra cho thấy, phần lớn các em học sinh đều gặp khó khăn tâm lý về học tập, trong việc làm bài tập về nhà và khó khăn để tập trung học tập. Khó khăn trong định hướng nghề nghiệp cũng là vấn đề mà nhiều em mắc phải, các em cảm thấy khó khăn trong việc xác định lý tưởng, nghề nghiệp tương lai và năng lực của bản thân. Học sinh gặp nhiều khó khăn về cảm xúc, trong đó có đến 36,8% có các biểu hiện stress ở mức cần can thiệp; 34,2% lo âu mức cần can thiệp và 9% có các dấu hiệu trầm cảm ở mức cần nhẹ. Có hơn 45% tổng số khách thể gặp khó khăn tâm lý trong các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ với bạn bè, sau đó là khó khăn trong mối quan hệ với gia đình và giáo viên. Học sinh có nhu cầu cao về tư vấn định hướng nghề nghiệp, phương pháp học tập và các vấn đề về cảm xúc. Khảo sát về mong muốn của học sinh: 70% học sinh mong muốn được tư vấn là trực tuyến trên điện thoại thông minh để đảm bảo tính bảo mật, 40% em khi gặp khó khăn thường chia sẻ, bộc lộ cảm xúc với bạn bè, 25% em muốn chia sẻ với bố mẹ, 15% em có nhu cầu chia sẻ cảm xúc với bạn khác giới; 9% em có chia sẻ với thầy cô, 12% em không muốn chia sẻ cùng ai mà chỉ âm thầm chịu đựng. 2.3.2. Khảo sát về hoàn cảnh học sinh Năm học 2020-2021 Trường THPT Nghi Lộc 5 có tổng học sinh toàn trường gồm 961 em, hầu hết các em đều thuộc những gia đình thuần nông, còn khó khăn về kinh tế. Trong đó có 4 học sinh thuộc hộ nghèo, 52 học sinh thuộc gia đình hộ cận nghèo, 3 học sinh khuyết tật, 3 học sinh con thương binh, 335 học sinh công giáo. Ngoài ra theo số lượng điều tra của các giáo viên chủ nhiệm lớp cho thấy một số em còn có khó khăn do có bố mẹ làm ăn xa sống một mình hoặc sống với ông bà. cụ thể: Khối 10 gồm 18 em; khối 11 gồm 21 em; khối 12 gồm 17 em. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập, đến tâm lí cũng như chất lượng dạy và học của nhà trường. 2.3.3. Khảo sát chất lượng đầu vào trường THPT Nghi Lộc 5 qua các khóa. Khảo sát về khả năng học tập của học sinh qua chất lượng thi tuyển vào trường THPT Nghi Lộc 5 qua các khóa cho thấy hầu hết các em có học lực còn yếu. Điều này không chỉ khó khăn trong quá trình học tập mà còn ảnh hưởng đến tâm lí học tập, suy nghĩ và định hướng của các em . Theo kết quả điều tra cho thấy điểm chuẩn đầu vào các năm đều giảm dần, cụ thể năm học 2018-2019 điểm chuẩn vào lớp 10 là 15.8 điểm; Năm học 2019- 2020 điểm chuẩn vào lớp 10 là 14.3 và năm học 2020-2021 điểm chuẩn 14.1. 2.4. Thực trạng công tác tư vấn tâm lí tại trường THPT. 8
  9. Trong Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT- BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), tại điều 16 mục 1 có nêu chức danh “ cán bộ làm công tác tư vấn cho học sinh”, tại điều 31 mục 6 nêu rõ : giáo viên làm công tác tư vấn cho học sinh là giáo viên trung học được đào tạo hoặc bồi dưỡng về nghiệp vụ tư vấn; có nhiệm vụ tư vấn cho cha mẹ học sinh và học sinh để giúp các em vượt qua những khó khăn gặp phải trong học tập và sinh hoạt. Thực trạng hoạt động: Một năm qua tổ tư vấn tâm lí trường đã đi vào hoạt động và có những đóng góp nhất định. Công tác tư vấn tâm lý cho HS trong thời gian qua đã có những chuyển biến tốt, đạt được những kết quả bước đầu, đáp ứng được phần nào nhu cầu của HS và giúp các em tăng cường khả năng đề kháng, khả năng tự giải quyết các vấn đề trước những tác động tiêu cực của xã hội, góp phần hỗ trợ các em vượt qua những khó khăn trong học tập, rèn luyện cũng như trong cuộc sống. Tuy nhiên hoạt động tư vấn tâm lí còn có những hạn chế sau: Hiện tại, hầu hết các nhà trường chưa được bố trí biên chế cán bộ chuyên trách công tác tư vấn tâm lý; thiếu kinh phí hoạt động. Đội ngũ cán bộ tư vấn tâm lý đa số là các giáo viên kiêm nhiệm, các chế độ đãi ngộ chưa được quan tâm. Mặt khác, việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác tư vấn tâm lý học đường cũng chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. Tại những trường có tổ chức hoạt động tư vấn tâm lý học đường, các khó khăn chủ yếu gặp phải là: Học sinh thường ngại đến phòng tư vấn tâm lý để “trút nỗi lòng” do các em có suy nghĩ “đến phòng tư vấn tâm lí là có vấn đề” hoặc sợ bí mật riêng tư bị tiết lộ hoặc quỹ thời gian của học sinh ở trường đã kín vì lịch học. Mỗi khi gặp sự cố tâm lý mà không biết cách giải quyết, các em thường vào các diễn đàn trên mạng, chia sẻ với bạn bè thân chứ không thổ lộ với gia đình hoặc thầy cô giáo. 3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác tư vấn tâm lí cho học sinh vùng nông thôn miền núi tại trường THPT Nghi Lộc 5 3.1. Phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình học sinh và các tổ chức liên quan trên địa bàn để tăng cường hiệu quả công tác tư vấn. 3.1.1.Vai trò của sự kết hợp Việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội sẽ tạo ra sự thống nhất thực hiện mục tiêu giáo dục, đặc biệt là giáo dục các chuẩn mực đạo đức ở học sinh. Việc phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục đảm bảo sự thống nhất về nhận thức hành động cũng như cách thức để đạt mục tiêu quá trình phát triển nhân cách, tránh mâu thuẫn, tránh sự tách rời, gây nên tình trạng nghi ngờ, vô hiệu hoá lẫn nhau, gây dao động, hoang mang đối với cá nhân trong việc tiếp thu, lựa 9
  10. chọn các giá trị đạo đức tốt đẹp. Gia đình có ưu thế đối với việc hình thành chuẩn mực về đạo đức trong quan hệ ứng xử, định hướng nghề nghiệp, … nhà trường có ưu thế trong việc giáo dục các chuẩn mực đạo đức, các ý thức công dân, phát triển kỹ năng sống, giáo dục con người một cách toàn diện… Các đoàn thể xã hội giúp học sinh kiểm nghiệm những điều đã học được trong nhà trường với thực tiễn trong đời sống xã hội, mở rộng kiến thức thực tế làm cho kiến thức các em phong phú và đa dạng hơn. Phối hợp giữa nhà trường với gia đình và lực lượng giáo dục trong xã hội sẽ thống nhất được mục tiêu, kế hoạch giáo dục, chăm sóc học sinh của tập thể sư phạm nhà trường với phụ huynh với các đoàn thể, các cơ quan văn hoá giáo dục ngoài nhà trường. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình học sinh và các tổ chức liên quan trên địa bàn sẽ tạo ra hiệu quả tối ưu nhất cho công tác tư vấn. 3.1.2. Cách kết hợp Tăng cường kết nối, quản lí học sinh, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình thông qua vai trò của giáo viên bộ môn, nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp. Nhà trường phải thường xuyên nắm bắt được tình hình gia cảnh, hoàn cảnh, diễn biến tâm lý của học sinh. Sử dụng tin nhắn Vnedu, điện thoại hoặc gặp trực tiếp để kịp thời thông tin đến cha mẹ học sinh tình hình tu dưỡng, rèn luyện và kết quả học tập của con em, qua đó động viên, chia sẻ và uốn nắn từng biểu hiện hành vi của học sinh, kể cả những sai phạm, biểu hiện lệch chuẩn. Duy trì nền nếp việc họp phụ huynh học sinh đầu năm học, kết thúc học kỳ I để phụ huynh thấy được rõ từng quá trình học tập cũng như rèn luyện của học sinh. Ảnh: Hội nghị phụ huynh đầu học kì 2 năm học 2020-2021 10
  11. Kết hợp, thống nhất giữa đoàn trường- đoàn xã trong giáo dục ý thức của đoàn viên thanh niên thông qua các hoạt động như: Sinh hoạt tập thể thường kì tại địa phương, chuyển giao sinh hoạt đoàn trong thời gian nghỉ hè, hoạt động tình nguyện trên địa bàn xóm xã, thường xuyên tổ chức các buổi bàn giao sinh hoạt giữa đoàn xã với đoàn trường… Những hoạt động giao lưu giúp học sinh biết chia sẻ, đoàn kết cũng như nâng cao trách nhiệm cộng đồng. Ảnh: Học sinh trường THPT Nghi Lộc 5 sinh hoạt thường kì chi Đoàn xóm tại xã Nghi Văn- Nghi lộc- Nghệ An Kết hợp giữa ban giám hiệu trường, ban hành giáo, các chức sắc tôn giáo trên các địa bàn để có sự hiểu biết phong tục, tín ngưỡng đồng thời nhằm nắm tâm tư, tình cảm và có những góp ý định hướng kịp thời nhằm giúp học sinh tiến bộ. Ngoài tác động mang tính giáo dục của nhà trường thì sự tác động của niềm tin tín ngưỡng giúp các em hướng vào mục tiêu tốt đẹp, tự tin trong học tập. Việc tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với các chức sắc tôn giáo không những tạo động lực học tập mà còn giúp các em nhận ra những suy nghĩ tiêu cực, những hành vi sai lầm đồng thời có hướng sữa chữa. 11
  12. Ảnh: BGH làm việc với ban hành giáo xứ Xuân Kiều (Nghi Kiều- Nghi Lộc) Kết hợp chặt chẽ với các tổ chức lãnh đạo địa phương để có những tuyên truyền trên kênh truyền thông cũng như xử lí khi có vi phạm. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành, tổ chức đoàn thể xã hội ở địa phương để quản lý và giáo dục học sinh, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống. Xây dựng và thực hiện bộ quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường, giáo dục quốc phòng, an ninh, giáo dục pháp luật, ý thức trách nhiệm công dân, chấp hành các quy định về giao thông, phòng, chống ma túy, phòng chống bạo lực học đường, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội,... góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, tạo điều kiện để học sinh phát triển nhân cách toàn diện. Ảnh: Đồng chí hiệu trưởng Đặng Đình Kỳ - hiệu trưởng, báo cáo về thành tích của nhà trường và công tác giáo dục và rèn luyện của học sinh nhân dịp lễ Noel 2020. 3.1.3. Những lưu ý trong việc kết hợp Nhà trường cần hỗ trợ cho phụ huynh trong việc giáo dục, giúp nắm được phương pháp và nội dung giáo dục trong gia đình, nắm được tri thức về chính sách giáo dục, từ đó họ thấy được nghĩa vụ và trách nhiệm hơn của các bậc phụ huynh trong việc nuôi dạy con cái. Mặt khác các bậc phụ huynh học sinh có trách nhiệm 12
  13. chủ động hợp tác trở lại với nhà trường trong việc tổ chức phối hợp giáo dục, hiểu rõ nhiệm vụ của mình, tránh tự đề ra những yêu cầu giáo dục đi ngược lại mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường và tư tưởng khoán trắng cho nhà trường. Việc phối hợp tạo ra hiệu quả cao trong công tác tư vấn tâm lí cho học sinh, nó tạo ra tính đồng bộ trong quá trình giáo dục và mục tiêu của nền giáo dục nước nhà. Bên cạnh đó cần chú ý đến sự nhất quán tư tưởng, quan điểm giáo dục đồng thời hoạt động phải thực hiện thường xuyên mới tạo ra hiệu quả. 3.2. Phát huy việc sử dụng mạng xã hội nhằm nắm bắt tâm tư nguyện vọng đồng thời là phương tiện để tư vấn cho học sinh. 3.2.1.Vai trò của mạng xã hội Nhân loại đang bước vào một thời đại mới, thời đại của sự phát triển của công nghệ thông tin. Cùng với việc bùng nổ của của khoa học thông tin là sự xuất hiện ngày càng nhiều các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo, Viber, Wechat, Tiktok... đang tác động rất lớn đến cuộc sống con người. Nó giúp con người dễ dàng liên hệ và kết nối với nhau, chia sẻ và tìm kiếm thông tin, cảm xúc. Không những vậy, mạng xã hội còn giúp con người rất nhiều trong công việc, trong học tập và giải trí. Những thuận lợi và tiện ích của nó đã cuốn hút đông đảo mọi người sử dụng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đối với học sinh phổ thong, mạng xã hội đã thực sự tác động lớn đối với mọi lối sống, sinh hoạt của các em. Mọi thông tin, suy nghĩ tình cảm, kể cả những bức xúc và mâu thuẫn các em đều dễ dàng đăng, chia sẻ và bình luận trên các trang mạng. Vì thế thường xuyên làm tốt công tác nắm bắt nguyện vọng của học sinh, xử lý mâu thuẫn việc ứng dụng công nghệ thông tin để nắm bắt nguyện vọng, xử lý mâu thuẫn trong xã hội là một xu thế khách quan, cần thiết, góp phần tạo sự đồng thuận và đoàn kết bền chặt hơn, tăng cường hiệu quả trong công tác tư vấn. Bên cạnh đó, học sinh có thêm một diễn đàn mới để cùng nhau trao đổi, giao lưu, chia sẻ những bức xúc, những vấn đề tâm lý lứa tuổi. Các hình thức mạng xã hội áp dụng khi tư vấn bao gồm các phương tiện truyền thông qua mạng internet rất thông dụng hiện nay như thư điện tử, zalo, viber, messenger, facebook… 3.2.2. Sử dụng mạng xã hội để tìm hiểu, nắm bắt tư tưởng, tình cảm của học sinh. Coi Facebook, Zalo, Messenger …như một công cụ giáo dục để tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nỗi niềm và cả những khó khăn mà học sinh đang gặp phải. Việc sử dụng mạng xã hội đã trở nên quá phổ biến, cùng với đó là rất nhiều hiện tượng tốt, xấu cũng ngày càng lan rộng. Giáo viên, nhà trường cần tận dụng mọi kênh thông tin để kịp thời nắm bắt suy nghĩ, tâm lý của các em vì điều này có tác động không nhỏ đến hiệu quả giáo dục, trong đó Facebook là một kênh thông tin hiệu quả.Theo đó khi sử dụng mạng không né tránh, không cấm đoán mà cần cởi mở. Không thể phủ nhận mạng xã hội là một kênh thông tin giúp thầy trò gần gũi, thân thiện với nhau 13
  14. hơn, qua đó hiệu quả giáo dục sẽ tốt hơn. Nhiều học sinh cho biết các em thấy dễ dàng bộc bạch suy nghĩ của mình trên Facebook, Zalo, Messenger hơn so với ở ngoài. Chính vì vậy việc quản lý, giáo dục học sinh ngoài giờ lên lớp bằng mạng xã hội như facebook, zalo,… đã đem đến một số tiện lợi như giáo chủ nhiệm có thể quản lý chặt chẽ được các em ngoài giờ lên lớp hơn. Việc sử dụng mạng xã hội góp phần giáo dục, định hướng cho học sinh về mọi mặt, nhanh chóng, kịp thời ngăn chặn những hành vi sai lệch của các em khi vừa nhen nhóm, gần gũi, hiểu hơn về học sinh từ hoàn cảnh gia đình, sở thích, thói quen, quan điểm… Để thực hiện quản lý, giáo dục học sinh qua mạng xã hội thì ngay từ khi nhận lớp, giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện các việc sau: lập nhóm Zalo, Mesenge… của lớp mình và đồng thời ghi nhận facebook của lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó và nêu mong muốn được kết bạn với tất cả học sinh của lớp. Sau đó, giáo chủ nhiệm cho cả lớp biết mọi thông tin, thông báo cần thiết về học tập, sinh hoạt của trường lớp sẽ được thông tin trên nhóm một cách nhanh chóng. Đồng thời, thầy cô cũng cho biết sẽ sẵn sàng trao đổi, trả lời mọi thắc mắc, tâm tư của các em về mọi việc qua hộp tin nhắn của facebook để đảm bảo sự riêng tư của cuộc trao đổi. Giáo viên sẵn sàng tham gia bình luận với các em như những người bạn. Hoặc đăng những hình ảnh hoạt động của lớp như ghi lại một kỉ niệm đẹp giữa thầy và trò. Làm những điều này để các em thấy thầy cô hết sức gần gũi như một người bạn và tâm lý như người anh, người chị không quá xa cách. Khi đã quen với sự hiện diện của giáo viên trên các trang mạng, các em sẽ hết sức thoải mái bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng… của bản thân. Đây là lúc để giáo viên trò chuyện tìm hiểu nắm bắt tâm lí, tích cách và hoàn cảnh gia đình cũng như mong muốn của các em. Nhờ vậy mà giáo viên nhanh chóng và dễ dàng nắm bắt được tình hình của lớp chủ nhiệm để từ đó xây dựng kế hoạch, định hướng những việc cần làm trong công tác chủ nhiệm, cũng như nhận ra phần nào tích cách của từng em để có biện pháp uốn nắm và tác động phù hợp. Cũng nhờ vào sự giao lưu kết bạn, giáo viên và học sinh đã gần gũi và thân thiết. Giáo viên sẽ dễ nhận ra khi có những biểu hiện lệch lạc, sai trái từ học sinh. Khi đó giáo viên chủ nhiệm cần khéo léo trao đổi với các em qua hộp thư của mạng xã hội để giải tỏa những vướng mắc, bức xúc của các em. Nếu vẫn chưa có kết quả tốt, lúc này, giáo viên chủ nhiệm có thể gặp riêng học sinh ấy để trao đổi, giáo dục thêm. Là người giáo viên chúng ta có nhiệm vụ uốn nắm kịp thời những sai lệch của các em. Thông qua việc giáo viên trực tiếp tham gia mạng xã hội có thể biết được thời gian, giờ giấc online của các em mà đưa ra lời khuyên góp ý kịp thời nếu xảy ra tình trạng học sinh ham mê quá mức mà để ảnh hưởng đến học tập. Những lưu ý khi sử dụng mạng xã hội để để tìm hiểu, nắm bắt tư tưởng, tình cảm của học sinh: Đối với những học sinh có khó khăn về tâm lí, giáo viên cần tìm hiểu những vấn đề xung quanh liên quan đến học sinh qua những vấn đề học sinh chia sẻ và kể cả những vấn đề các em đang quan tâm. Khi trao đổi, nói chuyện với học sinh, giáo viên cần thể hiện thái độ lắng nghe, thẩu hiểu đồng thời linh hoạt và 14
  15. mền dẻo. Khi được học sinh chia sẻ, giáo viên cần đảm bảo tính bảo mật cần thiết đồng thời sẵn sàng dành thời gian để lắng nghe. 3.2.3. Sử dụng mạng xã hội làm phương tiện để tư vấn Để giáo dục đạo đức, lối sống, định hướng văn hóa và thế giới quan cho học sinh, giáo viên cần tận dụng mạng xã hội để làm phương tiện để tư vấn. Sử dụng mạng xã hội không chỉ để lắng nghe, trao đổi mà quan trọng hơn là qua tin nhắn, các cuộc đối thoại giáo viên sẽ tư vấn giáo dục đạo đức, lối sống, định hướng thế giới quan cho học sinh. Những học sinh có hành vi chưa đúng đắn, thường xuyên vi phạm nội quy hay những học sinh lười học, ham chơi, bỏ bê và sa sút trong học hành thường không hợp tác với giáo viên, hay chống đối nên mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh khó gần gũi, các em ít bày tỏ những suy nghĩ, cảm xúc của mình. Nhưng nhờ vào mạng xã hội người giáo viên có thể làm bạn chia sẽ niềm vui nổi buồn cùng các em từ đó dễ dàng đưa ra những lời khuyên, góp ý để góp phần giáo dục các em có hành vi và thái độ học tập đúng đắn hơn. 15
  16. Ảnh: GVCN sử dụng mạng trong công tác tư vấn cho học sinh Việc sử dụng mạng xã hội giúp giáo viên có thể chia sẻ những bài viết ý nghĩa, những hình ảnh đẹp trong đời sống học đường, phương pháp học, kể cả những đoạn video có tính chất giáo dục…với mục đích tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của học sinh. Cuộc sống ngày nay các bậc phụ huynh thường rất bận rộn ít thời gian quan tâm đến các em nên không ít thiếu tình yêu thương và sự chia sẽ nên không ít em sống thờ ờ, vô cảm với mọi người xung quanh. Người giáo viên nên tra cứu và lựa chọn những đoạn video có sẵn trên mạng chia sẻ với các em để khơi dậy trong các em niềm đồng cảm và yêu thương, để dạy các em cách sống tích cực và tốt đẹp. Cũng từ những hình ảnh, thông tin chia sẻ của mình của mình, giáo viên tạo ra những phong trào từ các thông tin trên các trang mạng như giúp người nghèo khó, hoạn nạn, thiên tai; giúp học sinh nghèo…, hay góp phần tạo những sân chơi lành mạnh như giới thiệu cho học sinh những quyển sách, bộ phim, bài hát hay, có giá trị. Từ đó, giáo viên cùng học sinh bình luận trên facebook và qua đó thầy cô giáo dục, định hướng chân, thiện, mỹ cho các em. 2.2.3. Những lưu ý trong quá trình ứng dụng mạng xã hội để tư vấn tâm lí cho học sinh. Để nâng cao hiệu quả của việc khi sử dụng mạng xã hội trong công tác tư vấn, giáo viên cần lưu ý: Việc đăng tải các thông tin cần có sựu chọn lọc kỹ càng, nên đăng những thông tin chính xác, có nguồn dẫn đáng tin cậy. Khi đăng tải chỉ cần cân nhắc số lượng vừa phải, nội dung tóm tắt, ngắn gọn nhưng đầy đủ tránh quá nặng nề dẫn đến sự ngại ngùng hoặc không muốn khi tiếp cận của học sinh. Cần đa dạng hóa các hình thức thông báo hay triển khai nhiệm vụ học tập để tránh sự nhàm chán, tạo sự hứng thú từ học sinh. Nên để học sinh cùng tham gia hoạt động bằng cách giao nhiệm vụ, hoặc động viên, kêu gọi từ các học sinh để học sinh 16
  17. thấy được những lợi ích to lớn của mạng xã hội vào phục vụ học tập, đồng thời các em có thêm trách nhiệm và lòng say mê. Cũng qua đó, học sinh có thể chứng tỏ khả năng của mình.Hoàn toàn có thể làm mới nội dung hay tăng cường tính đoàn kết bằng cách chia sẻ các hoạt động của lớp, nhóm, qua đó lưu giữ các kỷ niệm đáng nhớ của tuổi học trò. Việc sử dụng mạng xã hội rất dễ gây ra hội chứng nghiện mạng xã hội và sống ảo. Không quá lạm dụng mạng xã hội, đó chỉ là một công cụ hỗ trợ cho các hoạt động ở nhà của học sinh. Chủ yếu các hoạt động học tập phải diễn ra trên lớp. Các hoạt động tập thể phải diễn ra nhiều, vui vẻ và thiết thực tránh sự sống ảo hay lạm dụng mạng xã hội của học sinh. Nên có hẳn một buổi trao đổi về những hữu ích hay mặt xấu của mạng xã hội khi sử dụng không đúng cách. Nội dung đăng tải hằng ngày không quá nhiều, qui định giờ giấc hoạt động của các nhóm. Ngôn ngữ sử dụng một cách có văn hóa, văn minh, lịch sự, tránh quá suồng sã hay cợt nhả quá trớn của học sinh. Trao đổi, thống nhất với phụ huynh để giới hạn thời gian sử dụng mạng xã hội của học sinh, chỉ sử dụng mỗi ngày một khoảng thời gian nhỏ xác định. Đặc biệt mỗi GVCN cần trang bị kiến thức tối thiếu cho học sinh về kĩ năng sử dụng mạng xã hội hiệu quả, an toàn. Sự tham gia của giáo viên dưới hình thức theo dõi kín đáo, chỉ lên tiếng khi những sự việc có dấu hiệu đi xa và có khả năng gây nên hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên khi giải quyết nên nhẹ nhàng phân tích cho học sinh thấy rõ những mặt tốt và xấu, nên và không nên một cách kín đáo và tế nhị. Tránh trường hợp làm cho học sinh thấy tù túng và ngột ngạt khi bị theo dõi, giám sát quá nhiều gây mất tự do, dẫn đến thiếu hợp tác và phản tác dụng. Trong bối cảnh xã hội của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, ứng dụng của công nghệ vào tư vấn tâm lí đang thu hút sự quan tâm của các cá nhân, xã hội và giới khoa học. Ứng dụng để có các thông tin ban đầu, giúp giáo viên biết được học sinh đang gặp khó khăn tâm lí nào. Từ đó giúp giáo viên thiết lập kênh thông tin trao đổi, chia sẻ những khó khăn mà học sinh đang đối mặt một cách hữu hiệu. Với nhu cầu cao sử dụng mạng xã hội ngày càng cao của con người, việc sử dụng các ứng dụng trên điện thoại thông minh, máy tính bảng giúp công việc tư vấn diễn ra nhanh chóng, kịp thời và đảm bảo được tính riêng tư của học sinh khi các em có nhu cầu tư vấn tâm lí. 3.3. Giáo viên chủ nhiệm đảm nhận nhiều vai trò, tư cách khác nhau trong quá trình tư vấn. 3.3.1. Vị thế của GVCN trong công tác tư vấn tâm lí. Mỗi GVCN phải là một “nhà tâm lý” quan tâm tìm hiểu, động viên, khích lệ kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù là những việc nhỏ nhất. Đối với học sinh trong thời đại 4.0, giáo viên chủ nhiệm là những nhà tư vấn tâm lý, là những nhà giáo dục. Mỗi giáo viên chủ nhiệm phải nhận thức sâu sắc công việc quan trọng của mình là làm sao tạo được những điều kiện thuận lợi nhất để mỗi học sinh 17
  18. có thể “phát triển hết khả năng vốn có của bản thân, hình thành được những tính cách thói quen” như mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông đã đề ra. 3.3.2. Mỗi GVCN là một người bạn lớn của học sinh Thường xuyên bên cạnh, sẵn sàng chia sẻ, tâm sự, động viên và có những lời khuyên kịp thời giúp các em tháo gỡ khó khăn, khúc mắc trong học tập và sinh hoạt. Trong các tiết ngoài giờ lên lớp mỗi GVCN cần dành thời gian tư vấn ngành nghề để các em lựa chọn cho tương lai, phù hợp năng lực, kết quả học tập, tính cách của mình. Giáo viên chủ nhiệm là người thường xuyên tiếp nhận được thông tin từ học sinh để đảm bảo tính khách quan, tính trung thực của dư luận, ý kiến của một tập thể học sinh. Ảnh : GVCN với học sinh lớp chủ nhiệm K13A8 Khi tiếp nhận thông tin, người giáo viên chủ nhiệm lớp xử lý kịp thời ngay thông tin với tư cách là nhà sư phạm, điều đó có tác dụng rất lớn. Bên cạnh đó, vai trò tư vấn đối với học sinh phải quán triệt được toàn diện nội dung giáo dục, kế hoạch hoạt động của cá nhân và tập thể lớp chủ nhiệm bao gồm từ việc học tập, rèn luyện đạo đức, sinh hoạt tập thể, diễn ra trong nhà trường và ngoài xã hội. Giáo viên chủ nhiệm cần tư vấn trong quan hệ ứng xử xã hội, gia đình, cộng đồng và trong tình bạn cho học sinh. Thân thiện, nhẹ nhàng từ cử chỉ đến hành động đối với các em, lắng nghe chăm chú và kiên nhẫn câu chuyện của HS, mềm mỏng nói chuyện, khơi gợi những suy nghĩ tích cực cho HS. Trong các hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp và cả hoạt động trải nghiệm, mỗi GVCN cần thể hiện tính thân thiện, hòa đồng với các hoạt động cùng học sinh. Mỗi GVCN cần xác định được tâm thế luôn sẵn sàng đồng hành, giúp đỡ học sinh trong bất cứ hoàn cảnh nào. 3.3.2. GVCN là người truyền cảm hứng cho chọc sinh qua mỗi tiết sinh hoạt lớp. Với quan điểm lấy học sinh làm trung tâm trong nhiều hoạt động, nhiều mô hình đã được thực hiện. Mỗi học sinh có trình độ khác nhau nên việc đầu tiên là 18
  19. phải truyền cảm hứng để các em yêu thích học tập là việc rất quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng là một động lực để truyền cảm hứng cho học sinh, giáo viên cũng phải chịu khó học hỏi và cũng phải thể hiện được sự hiểu biết của mình về mặt ngôn ngữ cũng như mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Đối với học sinh có những khó khăn trong tâm lí, thái độ học tập, thì việc truyền cảm hứng tích cực về cuộc sống, học tập có ý nghĩa tích cực. Thay vì nặng về các nội dung như khiển trách, trách phạt, xử lý học sinh gây lỗi trong tuần, giờ đây, nhiều giáo viên chủ nhiệm đã để học sinh tự chủ động trong giờ sinh hoạt lớp thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, tổ; trình diễn văn nghệ; tổ chức các cuộc thi nhỏ … 19
  20. Biến các tiết sinh hoạt chủ nhiệm trở thành khoảng thời gian mà học sinh 20
nguon tai.lieu . vn