- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy lý thuyết môn Giáo dục Quốc phòng, An ninh ở trường THPT
Xem mẫu
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢNGDẠY LÝ THUYẾT MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG,
AN NINH Ở TRƯỜNG THPT
MÔN: GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
- trêngPt DÂN TỘC NỘI TRÚ THPT Sè 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢNG DẠY LÝ THUYẾT MÔN GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG,
AN NINH Ở TRƯỜNG THPT
MÔN: GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH
Tác giả: Lê Thị Cúc
Tổ bộ môn: SỬ - ĐỊA - GDCD - TD – QPAN
Số điện thoại: 0986 126 425
Năm học: 2020 – 2021
MỤC LỤC
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ. 1
I. Lí do chọn đề tài. 1
II. Mục đích nghiên cứu. 2
III. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu. 2
B. NỘI DUNG 3
I. Giải quyết vấn đề 3
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 3
2. Thực trạng dạy và học môn giáo dục quốc phòng- an ninh ở trường PT DTNT
THPT số 2 Nghệ an. 4
2.1. Thuận lợi: 4
2.1.1 Đối với giáo viên: 4
2.1.2 Đối với học sinh: 4
2.2. Khó khăn: 5
2.2.1 Đối với giáo viên: 5
2.2.2. Đối với học sinh: 5
3. Điều tra cụ thể tại trường PT DTNT THPT số 2 Nghệ An 5
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy lí thuyết môn gdqp an.
7
1. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, chuyển từ dạy truyền thống
sang dạy bằng giáo an điện tử. 7
1.1 Ưu điểm, hạn chế ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. 7
1.2 Biện pháp thực hiện. 8
2. Tổ chức thảo luận nhóm: Học nhóm là một hình thức học hợp tác nâng cao
chất lượng của học sinh – các học sinh giao lưu với nhau và có được những kết
quả học tập tiến bộ về nhiều mặt. 10
- 2.1 Ưu điểm, hạn chế của thảo luận nhóm. 10
2.2. Biện pháp thực hiện. 11
3. Sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan 13
3.1. Ưu điểm, hạn chế của sử dụng câu hỏi trắc nghiệm: 13
3.2. Biện pháp thực hiện: 13
4. Sử dụng phương pháp trò chơi tổ chức trong phòng học 19
4.1. Ưu điểm, hạn chế của sử dụng trò chơi trong lớp học. 19
4.2. Biện pháp thực hiện. 19
4.2.1. Trò chơi ô chữ 20
4.2.2. Trò chơi thi hát ca khúc 22
III. Kết quả của đề tài 25
C. KẾT LUẬN 28
I. Kết luận 28
II. Kiến nghị 28
E. TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
- KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
THPT Trung học phổ thông
GDQP Giáo dục quốc phòng
GDQP-AN Giáo dục quốc phòng- An ninh
TW Trung ương
CNTT Công nghệ thông tin
HS Học sinh
GV Giáo viên
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. Lí do chọn đề tài.
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt nam là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước ta
rất coi trọng việc xây dựng nền Quốc phòng toàn dân, An ninh nhân dân vững
mạnh trong thời kì mới. Trong đó học sinh Trung học phổ thông (THPT), những
chủ nhân tương lai của đất nước có vai trò quan trọng. Tích cực học tập, tìm hiểu
nội dung cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh góp phần cùng
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân của đất nước trong thời kì mới là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của học sinh trong giai đoạn hiện nay.
Giáo dục quốc phòng cho học sinh là một bộ phận quan trọng của công tác
giáo dục quốc phòng toàn dân. Giáo Dục Quốc Phòng (GDQP) là môn học chính
khóa nằm trong chương trình giảng dạy của các trường trung học phổ thông nhằm
rèn luyện hình thành nhân cách, góp phần nâng cao ý thức quốc phòng, củng cố
nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Nhận rõ vị trí, vai trò của nhiệm vụ trên,
những năm qua, Ban Giám hiệu và Tổ Giáo Dục Thể Chất Quốc Phòng – An Ninh
luôn quan tâm chỉ đạo và tổ chức, triển khai thực hiện tốt công tác Giáo Dục Quốc
Phòng cho học sinh.
Giáo dục quốc phòng - An ninh trong trường THPT là một môn học bao
gồm nhiều kiến thức về khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên lẫn khoa
học kĩ thuật quân sự. Cụ thể như:
+ Liên quan đến Lịch sử có bài: Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc Việt nam; Lịch sử và truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam và Công
an nhân dân Việt Nam.
+ Liên quan đến Địa lý như bài: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc
gia, Thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai.
+ Liên quan đến Giáo Dục Công Dân có bài: Tác hại của Ma túy và trách
nhiệm của học sinh trong phòng chống ma túy.
1
- + Liên quan đến Sinh học có bài: Cấp cứu ban đầu các tai nạn thông thường
và Băng bó vết thương; Kỹ thuật cấp cứu và chuyển thương.
+ Liên quan đến Hướng nghiệp như bài: hệ thống nhà trường quân đội, công
an và chế độ tuyển sinh vào các trường quân sự, công an giúp các em học sinh
định hướng được nghề nghiệp quân sự, công an….
Là một môn học không chỉ trang bị những vấn đề cơ bản về đường lối quân
sự của Đảng, tư duy về Quốc phòng an ninh và kiến thức quân sự cần thiết mà
còn rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách sống con người Chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
đây là một môn học nằm trong nhóm môn học có tỉ lệ lí thuyết chiếm trên 60%
chương trình môn học. Chính vì lí do đó, cùng với những nhận thức non nớt của
học sinh, các em thường dành nhiều thời gian cho các môn học mà các em cho là
quan trọng hơn, có thể thi Đại học, cao đẳng… (Vd: Toán, lí, hóa, anh văn….) mà
xem nhẹ môn học này, các em thường không học bài cũ trước khi đến lớp hoặc ít
khi đọc trước bài mới, dẫn đến kết quả học tập chưa cao và chưa nhận thức hết
tầm quan trọng của môn học. Để nâng cao hiệu quả môn Giáo dục Quốc phòng,
An ninh, trong những năm qua tôi đã đưa ra nhiều giải pháp và thực hiện khá có
hiệu quả trong giảng dạy. Qua đó, tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm: “Một
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy lý thuyết môn Giáo dục Quốc
phòng, An ninh ở trường THPT”.
II. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy
lý thuyết môn Giáo dục Quốc phòng, An ninh ở trường THPT.
- Giúp học sinh hứng thú, tích cực trong những giờ học lý thuyết môn Giáo
dục Quốc phòng, An ninh trên lớp.
III. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
a. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Một giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy lý thuyết
môn Giáo dục Quốc phòng, An ninh ở trường THPT
2
- - Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trường PT DTNT THPT Số 2 Nghệ An
b. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu, các nghị quyết
của Đảng, các văn bản của nhà nước.
- Phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu.
- Phương pháp thăm dò ý kiến.
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp kiểm tra sư phạm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy.
3
- B. NỘI DUNG
I. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về Tăng
cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới; Chỉ
thị số 417/CT-TTg ngày 31/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ vế việc tăng cường
chỉ đạo thực hiện công tác GDQP-AN năm 2010 và những năm tiếp theo; Nghị
định 116/2007-NĐ-CP về GDQP-AN cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác làm cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN trong các trường THPT.
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực khả
năng, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”; Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo cũng
đã nêu : “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng
lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện
kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang ở vào giai đoạn, mà việc đổi mới
phương pháp giảng dạy, đang là một vấn đề cấp bách được đặt ra. Phải khuyến
khích tự học phải vận dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng
cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo. Để thực hiện tốt chủ trương này thì cần
phải đào tạo khả năng tự học cho học sinh.
Nói đến giáo dục quốc phòng – an ninh, trường PT DTNT THPT Số 2 Nghệ
An là một trong những đơn vị trong tỉnh có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết
bị, điều kiện sân bãi đáp ứng số lượng tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh cho
4
- gần 525 học sinh. Tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh chính khóa đã truyền
thụ cho các em học sinh những tri thức cơ bản của nền Giáo dục quốc phòng toàn
dân, những hiểu biết về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam, về nhà trường quân
đội, về lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, truyền thống đấu tranh dựng nước -
giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất bổ
ích, thiết thực với học sinh phổ thông trước ngưỡng cửa cuộc đời. Học sinh còn
được làm quen với tác phong quân đội qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ, các
tư thế vận động cơ bản trong chiến đấu, băng bó, cứu thương....làm quen với các
phương tiện chiến đấu như ném lựu đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ... Qua học
tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước
- tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hoà
bình của kẻ thù.Toàn bộ chương trình học tập của từng khối được xây dựng theo
chương trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ môn, đủ tiết, đúng phân
phối chương trình. Vì vậy các tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh học sinh
tham gia học đầy đủ tích cực sôi nổi và hào hứng.
Giáo dục quốc phòng – an ninh trong trường THPT là môn học chính khóa,
là bộ môn khoa học tổng hợp có phạm vi vô cùng rộng lớn và khá phức tạp, nên
không thể đơn giản, sơ sài mà nó phải được coi là một hệ thống chương trình và
phải được quán triệt trong tất cả các môn học trong mọi hoạt động của học sinh,
ở mọi lúc, mọi nơi, có vậy mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng
hiện tại và tương lai.
2. Thực trạng dạy và học môn giáo dục quốc phòng- an ninh ở trường PT
DTNT THPT số 2 Nghệ an.
2.1. Thuận lợi:
2.1.1 Đối với giáo viên:
- Đối với môn GDQP-AN được nhà trường cùng các cấp lãnh đạo luôn quan
tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi.
- Điều kiện sân bãi, dụng cụ, trang thiết bị cần thiết cho môn học GDQP-AN
tương đối đầy đủ.
5
- - Nề nếp, kỉ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ qua từng lớp,
từng khâu quản lí nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tốt.
- Giáo viên giảng dạy môn GDQP-AN của nhà trường đều đã qua các lớp
đào tạo chính quy và ngắn hạn. Được sự quan tâm của lãnh đạo Sở Giáo dục, hàng
năm, đều tổ chức các khóa học bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho
giáo viên.
- Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động
viên hết sức nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp.
- Giờ dạy môn giáo dục quốc phòng thực sự mang lại cho tôi sự cảm hứng
và muốn tìm tòi, học hỏi nhiều hơn nữa.
- Các giáo viên đều đã có những nhận thức tích cực, luôn muốn tìm tòi học
hỏi để làm sao giờ dạy của mình đạt hiệu quả cao. Chính vì thế, trong thời gian
vừa qua các giáo viên giảng dạy nói chung và giáo viên giảng dạy bộ môn GDQP-
AN nói riêng đã áp dụng rất nhiều phương pháp mới vào giảng dạy để nâng cao
hứng thú và kết quả học tập cho học sinh. Cụ thể như: Ứng dụng Công nghệ thông
tin (CNTT) vào giảng dạy, thiết kế bài giảng bằng giáo án điện tử, phương pháp
trình chiếu phim ảnh sống động, kết hợp nhuần nhuyễn và sử dụng hiệu quả các
thiết bị vào giảng dạy, kết hợp phương pháp truyền thống với ứng dụng CNTT,
phương pháp tổ chức trò chơi, thảo luận nhóm… đã mang lại sự hứng thú và kết
quả học tập khả quan của học sinh.
2.1.2 Đối với học sinh:
- Đa số học sinh đều có thái độ tích cực trong học tập đã mang lại hiệu quả
cao trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
- Các em học sinh đều ở nội trú nên các em có nhiều thời gian để thảo luận,
trao đổi các nội dung của môn GDQP-AN, đồng thời những em khá giỏi đã hỗ trợ
cho những bạn học yếu hơn.
6
- 2.2. Khó khăn:
2.2.1 Đối với giáo viên:
- Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tương đối đầy đủ từ nguồn Sở giáo dục
và đào tạo cấp và một số tự trang bị nhưng vẫn còn thiếu như tranh ảnh giảng dạy
ở một số nội dung phần lí thuyết cũng như thực hành.
- Giáo viên chỉ nêu ra câu hỏi mà chưa định hướng cho học sinh cách trả lời
câu hỏi như thế nào.
- Khi giáo viên đặt câu hỏi thì phần lớn các em học sinh khá, giỏi dơ tay trả
lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng yếu kém. Cho nên học sinh yếu kém ít
được chú ý và không được tham gia hoạt động. Từ đó, làm cho các em càng thêm
tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán môn học.
2.2.2. Đối với học sinh:
- Do khách quan các em sinh ra và lớn lên trong thời bình và do yêu cầu của
lượng kiến thức môn học, đã tác động đến suy nghĩ và xác định nhiệm vụ học tập
đối với môn học này. Và thật tai hại đối với một bộ phận nhỏ học sinh còn có tư
tưởng môn phụ, nên không chú tâm, thậm chí coi thường môn học.
- Học sinh trường nội trú không được sử dụng điện thoại di động, nên việc
tìm hiểu những kiến thức ngoài sách giáo khoa và cập nhật tình hình tin tức thời
sự về quốc phòng an ninh đất nước và trên thế giới còn nhiều hạn chế.
- Nhiều học sinh còn lười và chưa có sự say mê, hứng thú đối với môn học,
một số bộ phận học sinh không học bài cũ và không đọc bài mới trước khi đến
lớp, trên lớp học thì thiếu tập trung không chú ý, không có tinh thần phát biểu xây
dựng bài.
- Học sinh chỉ có thể trả lời những câu hỏi dễ, đơn giản qua việc nhìn và đọc
trong sách giáo khoa chưa có sự độc lập về tư duy. Đối với những câu hỏi mang
tính suy luận, giải thích, phân tích… thì học sinh trả lời chung chung chưa sát với
nội dung yêu cầu của câu hỏi.
7
- 3. Điều tra cụ thể tại trường PT DTNT THPT số 2 Nghệ An
Bản thân đảm nhận dạy môn học GDQPAN cho học sinh cả 3 khối lớp 10,
11, 12 tại trường PT DTNT THPT Số 2 Nghệ An. Qua quá trình công tác đến nay
đã gần 6 năm tôi đã không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, tìm ra
các phương pháp mới để giúp các em học tốt hơn và rút ra kinh nghiệm sau mỗi
tiết dạy. Việc điều tra thông qua các câu hỏi khảo sát nhận thức và câu hỏi kiểm
tra bài cũ, câu hỏi kiểm tra 15 phút, 45 phút. Kết quả tôi điều tra các e học sinh
K10 vào năm học 2018- 2019 trước khi áp dụng những phương pháp mới vào
giảng dạy như sau:
8
- 3.1 Điều tra hứng thú học tập của các em đối với môn GDQPAN:
Rất thích Hơi thích Bình thường Không thích
Khối
Lớp SLHS
lớp
SL % SL % SL % SL %
10A1 33 5 15,1% 10 30,3% 9 27,3% 9 27,3%
10A2 29 6 20,7% 9 30% 5 17,2% 9 31%
Khối
10A3 28 6 21,4% 10 35,7% 7 25% 5 17,8%
10
10C1 31 8 25,8% 10 32,2% 6 19,3% 7 22,7%
10C2 30 10 33,3% 10 33,3% 5 16,7% 5 16,7%
3.2 Điều tra mức độ học bài cũ và đọc bài mới trước khi đến lớp của học
sinh:
Học thuộc Có học
Khối Lớp Có đọc qua Không học
SLHS bài bài
lớp
SL % SL % SL % SL %
10A1 33 7 21,2% 7 21,2% 7 21,2% 12 36,4%
10A2 29 6 20,6% 8 25,6% 8 25,6% 7 24,2%
Khối
10A3 28 5 17,8% 9 32,1% 6 21,4% 8 28,7%
10
10C1 31 10 32,2% 11 35,5% 6 19,3% 4 13%
10C2 30 10 33,3% 11 35,6% 5 16,7% 4 13,4%
3.3. Điều tra về kết quả học tập năm học 2018-2019.
Giỏi Khá TB Yếu
Khối
Lớp SLHS
lớp
SL % SL % SL % SL %
9
- 10A1 33 12 36,4% 13 39,4% 8 24,2% 0 0
10A2 29 11 37,9% 12 41,4% 6 20,7% 0 0
Khối 10A3 28 11 39,3% 12 42,8% 5 17,9% 0 0
12 10C1 31 15 48,4% 13 41,9% 3 9,7% 0 0
10C2 30 14 46,7% 13 43,3% 3 10% 0 0
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy lí thuyết môn
gdqp an.
1. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, chuyển từ dạy truyền
thống sang dạy bằng giáo an điện tử.
1.1 Ưu điểm, hạn chế ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy.
* Ưu điểm:
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy giúp giáo viên nâng cao tính
sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Giáo viên
giờ đây không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà còn được tìm
hiểu thêm về những chuyên ngành khác như tin học và học hỏi các kỹ năng sử
dụng hình ảnh, âm thanh trong việc thiết kế bài giảng. Sử dụng hình ảnh, video
trong bài giảng sẽ làm cho tiết học sinh động và hấp dẫn hơn. Với việc sử dụng
bài giảng điện tử sẽ giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian viết nội dung lên bảng,
treo bảng phụ… nội dung hiển thị đến đâu, giáo viên giảng đến đó, làm cho thời
gian giảng bài nhiều hơn. Bài giảng điện tử được lưu trữ và làm tư liệu để có thể
sử dụng chúng lâu dài và cho những bài dạy về sau.
- Đối với học sinh, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã giúp
các em được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn phương pháp đọc –
chép truyền thống. Ngoài ra, sự tương tác giữa thầy cô và học trò cũng được cải
thiện đáng kể, học sinh có nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính
kiến riêng của mình. Điều này giúp các em ngày thêm tự tin hơn.
10
- - Mặt khác, được tiếp xúc nhiều với công nghệ thông tin trong lớp học còn
mang đến cho các em những kỹ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trường. Đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp học sinh đa dạng
và sáng tạo các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm
kiếm thông tin cho bài học của các em.
*Hạn chế:
- Khó khăn về trình độ tin học của giáo viên đây là một trong những trở ngại
lớn nhất. Kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên vẫn còn hạn chế,
nhất là giáo viên lớn tuổi. Họ không đủ bản lĩnh để vượt qua sự cổ hũ để đam mê
và sáng tạo, thậm chí còn né tránh sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
- Dễ phân tán tập trung của học sinh:Việc lạm dụng các âm thanh hình
ảnh,…một cách không thích hợp dẫn đến học sinh mất tập trung và ảnh hưởng
đến nội dung của tiết học.
- Các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học
bằng phương tiện trình chiếu powerpnt … còn thiếu và chưa đồng bộ. Việc kết
nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử dụng
không thường xuyên nhất là các vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo.
- Nhiều người cho rằng soạn giáo án điện tử chỉ là chuyển từ giáo trình văn
bản niệm hết sức nhầm lẫn mà chúng ta cần loại bỏ. Vì để soạn được một giáo án
điện tử đem lại hiệu quả cao cho người học thì người thầy phải bỏ ra rất nhiều
công sức và tâm huyết. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây là soạn giáo án điện tử vất vả
hơn nhiều so với dạy truyền thống.
- Trong hơn 5 năm đi dạy, cá nhân tôi cũng mới chuyển từ phương pháp
giảng dạy truyền thống sang giảng dạy bằng giáo án điện tử trong vài năm gần
đây. Và giáo viên gần như tự mày mò, tìm hiểu từ thiết kế giáo án cho đến cách
trình bày. Tôi nghĩ rằng đổi mới ở lĩnh vực nào cũng vậy, bước đầu sẽ có những
khó khăn, nhưng chúng ta mạnh dạn làm, điều chỉnh dần dần thì sẽ có kết quả tốt.
11
- 1.2 Biện pháp thực hiện.
- Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức trực
quan, sinh động và lôi cuốn; vì vậy phải lồng ghép thêm các tư liệu, hình ảnh, các
đoạn phim ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng. Yếu tố thẩm
mĩ cũng cần được coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu
sắc, hình thức đẹp nhưng không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang,
chạy chữ…) làm cho học sinh mất tập trung vào nội dung chính của bài giảng và
mất thời gian vô ích.
Các công đoạn thường theo một quy trình sau:
- Sau khi soạn nội dung (phần chữ cho các slide) cho bài giảng, chỉnh sửa và
thu gọn cho phù hợp với nội dung các tiết học trong giáo án điện tử. Theo kinh
nghiệm của tôi sẽ đưa lên slide những thông tin lẽ ra viết lên bảng (khi dạy bằng
phương pháp truyền thống),chủ yếu là các đề mục và một số nội dung tóm tắc hay
các trích dẫn… tuyệt đối không bê nguyên bài soạn vào slide. Và vì vậy, cũng xin
nói thêm là sử dụng giáo án điện tử nhưngvẫn phải có bài soạn…
- Công việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng Công việc đầu tiên khi
thiết kế slide cho bài giảng điện tử là phải chọn màu nền, phông chữ, kiểu chữ và
cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu khá quan trọng, làm tốt khâu này sẽ giúp học
sinh dù ngồi cuối lớp vẫn theo dõi được slide đồng thời chữ không quá lớn, chiếm
12
- quá nhiều “đất” của mỗi slide; màu nền, màu chữ cũng cần hài hòa sao cho đảm
bảo độ tương phản nhưng không quá lòe loẹt hay ảm đạm gây phản cảm. Do chưa
có một chuẩn chung, do đó tôi phải thiết kế thử và giảng thử nhiều lần trên lớp,
lấy ý kiến giáo viên trong tổ và của học sinh để chọn được một phương án phù
hợp nhất. Nên cố gắng mô hình hóa nội dung bài giảng thành các sơ đồ, mô hình,
đồ thị để chuyển các slide. Công việc này chiếm mất nhiều thời gian, công sức
của giáo viên, nhưng bù lại việc truyền tải bài giảng đến học sinh sẽ rất trực quan,
sinh động, giúp học sinh hưng phấn hơn khi tiếp thu bài giảng và do đó hiệu quả
tiếp thu bài giảng sẽ cao hơn.
- Việc thiết kế kết cấu bài giảng cũng như sự tiện lợi khi giảng cũng cần được
chú trọng. Tôi chọn giải pháp để tất cả các chương trình cùng một tệp Powerpoint
và sử dụng tính năng Huperlink của Powerpoint để liên kết giữa các chương trong
bài giảng và giửa các nội dung bài giảng với các tư liệu được sử dụng. Ví dụ: khi
giáo viên đang giảng ở trang danh mục các mục lớn, có thể chuyển ngay đến các
mục nào bất kỳ của bài giảng bằng cách nhấp chuột lên đầu mục đó trong danh
sách. Hay có thể sử dụng các nút chức năng để chuyển đến phần tư liệu và quay
về vị trí bài giảng ban đầu… Tóm lại, giáo viên (GV) có thể chuyển đến một vị
trí tùy ý trong bài giảng chỉ bằng một vài lần nhấp chuột mà không phải lần tìm
mất thời gian.
- Các tư liệu sưu tầm được phải chọn lọc, phân loại, cắt ghép sao cho phù hợp
với mỗi tiết, mỗi chương trình bài giảng. Ví dụ: bài “Truyền thống đánh giặc giữ
nước của dân tộc Việt nam”, giáo viên chọn lọc một số phim tư liệu về lịch sử
Việt nam để trình chiếu, nhưng thời lượng của phim tư liệu nên vừa đủ minh họa
cho phần bài giảng tránh kéo dài không cần thiết làm loãng thông tin và ảnh hưởng
đến thời gian của tiết học. Các phim tư liệu có thời lượng dài, bổ ích cho môn học
được thu xếp cho học sinh xem vào một vài tiết học riêng. Yêu cầu học sinh viết
bài thu hoạch, liên hệ với bài giảng.
- Giáo viên trên lớp với giáo án điện tử:
Việc dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối đa việc viết bảng,
thời gian, sức lực giáo viên tập trung cho bài giảng bằng những hình ảnh, video,
13
- âm thanh có sức lôi cuốn học sinh hơn.Tuy nhiên, giáo án điên tử chỉ là sự trợ
giúp, còn chất lượng bài giảng tốt hay không phụ thuộc vào các yếu tố: Sự truyền
đạt tri thức, trình độ của giáo viên và thái độ của người học.
Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn GDQP-
AN sẽ có rất nhiều phát kiến mới, giáo giáo án điện tử bước đầu mang đến cho
giáo viên và người học những kết quả thiết thực, tránh sự nhàm chám cho học
sinh ở mỗi tiết học lí thuyết trên lớp.
2. Tổ chức thảo luận nhóm: Học nhóm là một hình thức học hợp tác nâng
cao chất lượng của học sinh – các học sinh giao lưu với nhau và có được
những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt.
2.1 Ưu điểm, hạn chế của thảo luận nhóm.
* Ưu điểm
14
nguon tai.lieu . vn