Xem mẫu

  1. Ở GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NAM YÊN THÀNH LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP ĐỂ SỮA SAI KĨ THUẬT CHUYỀN VÀ BẮT BÓNG BẰNG HAI TAY TRƯỚC NGỰC TRONG MÔN BÓNG RỔ CHO HỌC SINH LỚP 10 Ở YÊN THÀNH Môn: THỂ DỤC Tác giả: BÙI VĂN CHƯƠNG Tổ: KHXH Năm thực hiện: 2020 - 2021 Điện thoại: 0968153818 1
  2. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 3 1.Lí do chọn đề tài 3 2. Mục đích nghiên cứu 5 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 5 4. Đối tượng nghiên cứu. 5 5. Phương pháp nghiên cứu. 5 5.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu: 5 5.2. Phương pháp quan sát sư phạm: 5 5.3. Phương pháp phỏng vấn: 6 5.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm: 6 5.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: 6 5.6. Phương pháp toán học thống kê. 6 PHẦN II. NỘI DUNG 7 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 7 1. Thực trạng của vấn đề 7 1.1. Thuận lợi: 7 1.2. Khó khăn: 7 2. Cơ sở lý luận để lựa chọn bài tập 7 2. 1. Vị trí môn Bóng Rổ trong hệ thống Giáo dục Thể chất ở Việt Nam. 7 2.2. Những quan điểm về giảng dạy kỹ thuật môn bóng rổ. 8 2.3. Nguyên lý kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực. 10 2.4. Vai trò của sự hoàn thiện kĩ thuật. 12 2.5. Tầm quan trọng của việc xác định những lỗi sai thường mắc. 13 2. 6. Các yếu tố ảnh hưởng tới kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước 13 ngực. 2
  3. 2.7. Đặc điểm phát triển hình thái, tâm sinh lý. 13 2.8. Công tác GDTC tại các trường THPT trên địa bàn huyện đang giảng dạy. 14 II. LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP ĐỂ SỮA LỖI SAI KHI THỰC HIỆN KĨ THUẬT CHUYỀN VÀ BẮT BÓNG BẰNG HAI TAY TRƯỚC NGỰC TRONG 15 MÔN BÓNG RỔ CHO HỌC SINH LỚP 10 Ở YÊN THÀNH. 1. Thực trạng sử dụng các bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt bóng 15 bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 ở Yên Thành. 2. Một số lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai 16 tay trước ngực của học sinh lớp 10 ở Yên Thành. 3. Cơ sở lựa chọn bài tập để sữa lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 ở Yên Thành. 21 3.1. Lựa chọn một số bài tập để sữa lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 ở Yên Thành. 21 3.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng các bài tập lựa chọn để sữa sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 31 ở Yên Thành. PHẦN III. KẾT LUẬN. 43 1. Kết luận 43 2. Kiến nghị. 45 3
  4. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài. Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Thì yếu tố con người luôn luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Trong hình mẫu và phẩm chất con người, sức khoẻ và thể chất chiếm một vị trí quan trọng và cần thiết để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do đó TDTT là một bộ phận của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa nó tổng hợp các phương tiện, phương pháp giúp con người phát triển toàn diện, hài hoà, đặc biệt trong hoạt động TDTT là một trong những hình thức cơ bản chuẩn bị thể lực phục vụ cho lao động sản xuất và trong các hoạt động khác. Vì thế mỗi quốc gia đều chú trọng đến công tác TDTT và đưa nền TDTT nước mình lên đỉnh cao cũng như giữ vững và phát triển những môn TDTT mang tính bản sắc dân tộc. Kinh nhgiệm của các nước phát triển cho thấy rằng: “ Truyền thống của dân tộc là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước”. TDTT là một lĩnh vực của nền văn hoá vì vậy nó cũng mang tính dân tộc đậm nét, ở Việt Nam cũng đã trãi qua hàng ngàn năm các môn thể thao dân tộc như: Vật, đua thuyền, ném còn, đánh đu, vẫn còn tồn tại và trở thành nội dung hấp dẫn trong các dịp lễ hội của dân tộc. Trong công tác ngoại giao TDTT có chức năng là nhịp cầu nối giao lưu nối tình hữu nghị và thắt chặt tình đoàn kết giữa các đân tộc và các quốc gia trên thế giới. Thông qua thi đấu thể thao các quốc gia trên thế giới có sự trao đổi tiếp thu tinh hoa của nhau, qua đó tìm hiểu học tập giúp đỡ lẫn nhau thắt chặt tình hữu nghị các nước trên thế giới, vì cuộc sống hoà bình trên thế giới. Ngày nay đất nước ta đi trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá với khẩu hiệu: “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc” Hiểu được ý nghĩa tác dụng của việc tập luyện TDTT đã đem lại sức khoẻ cho con người, hoàn thiện về thể chất cho nhân dân và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Có thể nói sức khoẻ con người là một yếu tố hợp thành cực kì quan trọng của lực lượng sản xuất, có sức khoẻ mới có lao động, có lao động mới có sự sáng tạo và làm ra của cải vật chất. Đất nước có mạnh cùng với sự lớn mạnh của nhiều nghành trong cả nước, TDTT ngày nay được Đảng và nhà nước quan tâm và đã đưa nền TDTT phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu GDTC là một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục XHCN nhằm tạo điều kiện phát triển toàn diện:" Đức, trí, thể, mĩ, lao động hưóng nghiệp”. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 một nhà nước công nông non trẻ mới ra đời, đứng trong muôn vàn khó khăn gian khổ Đảng và nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến công tác GDTC trong nhà trường. Con người phát triển toàn diện là lực lượng 4
  5. nòng cốt cho một xã hội phát triển, là lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng của toàn dân. Vì vậy Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm và xác định rõ việc bồi dưỡng giáo dục cho thế hệ trẻ có sức khoẻ dồi dào, có thể chất cường tráng, có tâm hồn và phẩm chất trong sáng, có trí tuệ phát triển cao ... là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp giáo dục. Để thực hiện được mục tiêu của Đảng và nhà nước cũng như điều mong mỏi của Bác Hồ kính yêu thì GDTC là một trong những phương tiện quan trọng để con người tiến dần tới mục tiêu phát triển toàn diện. GDTC bao gồm 4 phương tiện riêng biệt đó là Thể dục, Thể thao, Trò chơi và Du lịch. Thể thao tự chọn trong nhà trường là một trong những nội dung của môn Giáo dục Thể chất được học sinh yêu thích và luôn mang lại hứng thú tập luyện. Trong số các môn thể thao tự chọn Bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, …. Thì Bóng rổ là môn thể thao đã và đang được các trường phổ thông đưa vào giảng dạy, thu hút được học sinh tham gia một cách tích cực. Bóng rổ cũng như các môn thể thao khác, khi tập luyện nó có tác dụng củng cố và nâng cao sức khỏe, giáo dục cho con người những phẩm chất quý giá như: Tinh thần tập thể, tính đoàn kết, lòng dũng cảm, ý chí vững vàng. Bóng rổ là môn thể thao có tính hấp dẫn cao, dễ tập luyện, thích hợp với nhiều lứa tuổi, giới tính, đặc biệt là các em học sinh THPT. Đến với môn Bóng rổ học sinh sẽ yêu thích và say mê tập luyện vì sự hấp dẫn và lôi cuốn của môn thể thao này, những đường dẫn bóng uyển chuyển linh hoạt, lắt léo, những pha ném rổ chính xác, tinh tế và nhẹ nhàng để ghi điểm, hay những pha phòng thủ, phối hợp chuyền bóng trên sân … tất cả sẽ tạo nên những trận thi đấu hấp dẫn và gay cấn đối với các cầu thủ cũng như người xem. Trong bóng rổ có nhiều kĩ thuật động tác khác nhau như kĩ thuật dẫn bóng, ném rổ, chuyền bóng, bắt bóng, nhảy bắt bóng bằng hai tay trên cao.... Trong đó kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực là hai kĩ thuật khác nhau song lại gắn bó với nhau rất chặt chẽ trong các bài tập, đây là kĩ thuật cơ bản, được sử dụng rất nhiều trong tập luyện và thi đấu Bóng rổ, nhằm mục đích liên kết, phối hợp giữa các đồng đội với nhau, phát động tấn công cũng như triển khai các ý đồ chiến thuật của trận đấu. Tuy nhiên ở nhiều em học sinh THPT, đặc biệt là các em khối 10, việc thực hiện kĩ thuật này còn yếu, mắc nhiều lỗi sai khi thực hiện, kĩ thuật cơ bản thiếu chính xác, không đạt được mục đích khi chuyền bóng, hoặc bắt bóng không đúng kĩ thuật làm hỏng, gián đoạn hoặc làm chậm các pha phối hợp thi đấu, những lỗi sai thường mắc cứ lặp đi lặp lại, mà chưa có nhiều giải pháp khắc phục phù hợp, thường xuyên và hiệu quả. Điều này ảnh hưỡng rất lớn đến tâm lý, sự hứng thú trong tập luyện của các em học sinh, dễ chán nán, đồng thời ảnh hưởng rất nhiều đến các kĩ thuật khác và thành tích thi đấu của đội bóng. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nhằm giúp các em có giải pháp sữa chữa được những lỗi sai thường mắc, thực hiện kĩ thuật chính xác hơn, phối hợp 5
  6. nhuần nhuyển, nhịp nhàng khi thực hiện kĩ thuật chuyền bóng và bắt bóng bằng hai tay trước ngực, góp phần nâng cao trình độ cho học sinh trong môn bóng rổ tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Lựa chọn một số bài tập để sữa sai kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực trong môn Bóng rổ cho học sinh lớp 10 Yên Thành”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu phân tích thực trạng quá trình giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực của giáo viên, kết quả thực hiện kĩ thuật này của học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành. Từ đó nghiên cứu, ứng dụng và đề xuất các bài tập phù hợp để sữa những lỗi sai thường mắc, nâng cao độ chính xác khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định giải quyết 02 nhiệm vụ sau: Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu, phân tích một số lỗi sai thường mắc trong quá trình thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực khi học môn Bóng rổ của học sinh lớp 10 Trường THPT ở Yên Thành. Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu và lựa chọn một số bài tập để sữa những lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành. 4. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành. 5. Phương pháp nghiên cứu. Để giải quyết các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: 5.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu: Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học. Phương pháp này giúp hệ thống hoá các kiến thức có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã thu thập, tổng hợp và phân tích các tài liệu, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, các tài liệu khoa học và kết quả nghiên cứu của các tác giả, các nhà khoa học liên quan đến đề tài nghiên cứu. Đây là sự tiếp nối, bổ sung các luận cứ khoa học và tìm hiểu một cách triệt để những vấn đề liên quan. 5.2. Phương pháp quan sát sư phạm: 6
  7. Phương pháp này dùng để khảo sát, phân tích đánh giá khách quan thực trạng quá trình học môn Bóng rổ của học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành. Việc sử dụng phương pháp này còn giúp chúng tôi có căn cứ để xác định tính hiệu quả của các bài tập đưa ra. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã quan sát trực tiếp các buổi học Bóng rổ của học sinh lớp 10 trong các trường THPT ở Yên Thành. 5.3. Phương pháp phỏng vấn: Chúng tôi tiến hành trao đổi, phỏng vấn các giáo viên có nhiều kinh nghiệm giảng dạy nội dung Bóng rổ của các trường THPT trên địa bàn huyện. Mục đích phương pháp này là đảm bảo tính thực tiễn và khoa học trong quá trình nghiên cứu. 5.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm: Trong quá trình nghiên cứu đã sử dụng phương pháp kiểm tra sư phạm để kiểm tra kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực của học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành. 5.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm sư phạm là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa học. Mục đích của thực nghiệm sư phạm là sử dụng hoặc xây dựng các bài tập cho học sinh tập luyện để só sánh đối chiếu với những học sinh không được áp dụng. Ngoài ra, thực nghiệm sư phạm còn đánh giá hiệu quả bài tập lựa chọn cho học sinh và đánh giá hiệu quả của nó. Mặt khác, thông qua thực nghiệm sẽ tạo điều kiện cho nhà nghiên cứu loại trừ một phần ảnh hưởng của các tác động bên ngoài. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm trên 80 học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành, chia làm 02 nhóm: - Nhóm đối chứng: Gồm 40 học sinh tập luyện theo chương trình, giáo án giảng dạy của trường. - Nhóm thực nghiệm: Gồm 40 học sinh tập luyện theo giáo án của chương trình thực nghiệm nhưng vẫn tuân thủ theo kế hoạch và lịch trình giảng dạy của nhóm. 5.6. Phương pháp toán học thống kê. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng phương pháp toán học thống kê để xử lý các số liệu có liên quan và sử dụng một số công thức sau: n n X i (X i  X )2 t  XA  XB X i 1 ;   2 i 1 ;    ; 2  A2  B2 n n 1  nA nB CT tính TB cộng của CT tính phương sai CT tính độ lệch CT so sánh 2 giá trị TB ở các số liệu trong bảng của bảng số liệu chuẩn của bảng số 7 thống kê thống kê mẫu lớn ( n  30 0) liệu thống kê
  8. PHẦN II. NỘI DUNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 1. Thực trạng của vấn đề 1.1. Thuận lợi: Được Ban giám hiệu và các giáo viên giảng dạy ở các nhà trường quan tâm, tạo mọi điều kiện trong việc giảng dạy huấn luyện bộ môn Thể dục cũng như các hoạt động TDTT trong trường học. Bản thân là giáo viên đã có nhiều năm tham gia giảng dạy môn Thể dục ở trường THPT. Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Thể dục ở trường cũng như trong huyện có nhiều giáo viên có nhiệt tình, kinh nghiệm và năng lực và đam mê chuyên môn. Luôn đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong chuyên môn cũng như trong công tác giáo dục học sinh. Học sinh có ý thức, kỷ luật và chấp hành tốt nội qui của nhà trường. Giáo dục thể chất cho học sinh trong nhà trường đang phát triển được phụ huynh, học sinh, nhà trường và nhiều tổ chức xã hội quan tâm. Kỷ luật tự giác của học sinh trong các tiết học Thể dục đã hình thành từ những năm trước thông qua sự giáo dục, nghiêm túc, thường xuyên của giáo viên trong nhà trường. 1.2. Khó khăn: Cơ sở vật chất nhà trường phục vụ cho tập luyện và thi đấu môn Bóng rổ còn chưa đáp ứng hết nhu cầu học, tập luyện và thi đấu của học sinh. Một số học sinh còn chưa đam mê tập luyện nội dung Bóng rổ. Một số học sinh xuống sân vẫn còn chưa tự giác tập luyện, một số em còn tập đối phó, bên cạnh đó còn một số em học sinh xem nhẹ việc học Thể dục. Kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực là một trong những kĩ thuật cơ bản được sử dụng rất nhiều trong bóng rổ, kĩ thuật này tương đối khó yêu cầu người tập phải kết hợp nhịp nhàng lực từ chân, cánh tay tới các ngón tay, ngoài ra trong quá trình tập luyện người tập phải thực hiện tiếp xúc đúng hình tay, tầm tiếp xúc, phối hợp di chuyển nhịp nhàng. Vì kĩ thuật tương đối phức tạp như vậy nên học sinh không chịu khó tập luyện tỉ mỉ từ kĩ thuật cơ bản; bên cạnh đó khi không tập trung tập luyện kĩ thuật một cách cẩn thận có thể xảy ra chấn thương các ngón tay dẫn đến tâm lý ngại tập luyện hoặc tập qua loa đối phó. 2. Cơ sở lý luận để lựa chọn bài tập 2. 1. Vị trí môn Bóng Rổ trong hệ thống Giáo dục Thể chất ở Việt Nam. 8
  9. Không phải ngẫu nhiên mà bóng rổ từ lâu đã trở thành môn thể thao được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển như Mỹ, Nga, Braxin… Đây được đánh giá là môn thể thao tuyệt vời hỗ trợ cho sự phát triển toàn diện của trẻ, đặc biệt là các em trước và trong độ tuổi dậy thì. Tại Việt Nam, theo đề án “Phát triển Bóng rổ học đường đến năm 2030” hợp tác cùng NBA, môn bóng rổ sẽ được mở rộng chú trọng ở các trường học trên toàn quốc. Điều này mở ra một cơ hội rất lớn cho các em có cơ hội được tiếp xúc với môn thể thao này. Mục tiêu là góp phần nâng cao thể lực, phát triển tầm vóc, rèn luyện ý chí, kỹ năng, tính kỷ luật và tinh thần đồng đội cho học sinh, sinh viên, từ đó nuôi dưỡng niềm đam mê thể thao đi cùng một lối sống khoẻ mạnh, có ích cho xã hội; đồng thời, tìm kiếm và bồi dưỡng những tài năng bóng rổ của đất nước, giúp bóng rổ Việt Nam nói riêng và thể thao Việt Nam nói chung khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế. Tập luyện và thi đấu bóng rổ là quá trình rèn luyện, bồi dưỡng con người phát triển toàn diện về phẩm chất tâm lý - ý chí, tinh thần tập thể, tính kiên trì, dũng cảm, hình thành khả năng xử lý nhanh nhẹn, khéo léo, tạo điều kiện thích ứng với những hoạt động phức tạp trong lao động sản xuất, trong chiến đấu cũng như trong học tập và cuộc sống hàng ngày. Tập luyện và thi đấu bóng rổ ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển cho người tập, tính kiên định, tính quyết đoán, tính sáng tạo và kỷ luật. Người tập biết hành động tập thể, thường xuyên hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, điều đó sẽ góp phần giáo dục ý thức trách nhiệm tập thể, tình cảm bạn bè, tính tập thể ... cho người tập. Điều đó chứng tỏ Bóng rổ là môn thể thao có sức hấp dẫn với quần chúng ở các lứa tuổi, đối tượng, ngành nghề khác nhau và số lượng người tập bóng rổ ngày càng phát triển. Bóng rổ là một trong những môn thể thao cơ bản có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục Thể chất và huấn luyện thể thao ở nước ta, Bóng rổ cũng là nội dung giữ vị trí quan trọng trong chương trình Giáo dục thể chất ở trường học không chỉ bởi vì môn Bóng rổ hình thành vốn kĩ năng, kĩ xảo phong phú, rèn luyện ý chí, đạo đức, lối sống lành mạnh mà nó còn tạo ra cho học sinh có một trình độ chuẩn bị thể lực tốt và là môn học phù hợp được nhiều học sinh các trường THPT yêu thích. 2.2 . Những quan điểm về giảng dạy kỹ thuật môn bóng rổ. Việc giảng dạy kĩ thuật môn bóng rổ được lựa chọn trên cơ sở, phương pháp nguyên tắc huấn luyện thể thao nói chung. Học tập vận động là quá trình cơ bản của huấn luyện thể thao. Huấn luyện kĩ thuật thể thao gồm tất cả các phương pháp, phương tiện đào tạo và giáo dục cũng như mọi hoạt động của VĐV. Những hoạt động đó được tiến hành với mục đích hoàn thiện động tác, ổn định và giữ vững kĩ thuật, giảng dạy và huấn luyện kĩ thuật bóng rổ là mục tiêu đầu tiên để tập môn 9
  10. bóng rổ cho tất cả đối tượng tham gia tập luyện và luôn đi song song với giảng dạy và huấn luyện chiến thuật mặc dù mức độ đơn giản. Trong bóng rổ các kĩ thuật liên quan chặt chẽ và bổ trợ đắc lực cho nhau được biểu hiện trong tập luyện và đặc biệt trong thi đấu. Do vậy quá trình giảng dạy nhất thiết phải căn cứ vào thực tiễn trong tập luyện kết hợp với thi đấu để có những biện pháp giảng cho phù hợp. Song thực tế nghiên cứu cho thấy: Việc hoàn thiện kĩ năng, kĩ xảo trong một môn nào đó, ngoài việc phát triển các tố chất thể lực có liên quan cần phải chú trọng đến quá trình hình thành kĩ năng kĩ xảo vận động. Kĩ năng vận động là các động tác được hình thành trong cuộc sống do tập luyện, còn kỹ xảo vận động là sự điều khiển động tác một cách tự động hóa cao. Phần động tác trải qua thời gian lặp lại nhiều lần thì động tác trở nên thuần thục, sự phối hợp vận động dần dần được tự động hóa từ đó kĩ năng sẽ trở thành kỹ xảo. Tính bền vững kĩ xảo vận động chỉ có giá trị khi kĩ thuật động tác thực hiện đúng, không cần phải sữa đổi về sau này. Trong học kĩ thuật động tác để hình thành nên kĩ xảo vận động phải trải qua 3 giai đoạn sau: - Giai đoạn 1: Giai đoạn lan tỏa. Đây là giai đoạn hình thành mối liên hệ giữa trung khu vận động với sự hiểu biết về hình tượng, biểu tượng của động tác trong giai đoạn này hưng phấn trên vỏ não được lan tỏa mạnh mẽ. Do vậy người tập chưa phân biệt được động tác đúng hay sai, chính vì vậy mà các sai lầm thường hay xảy ra ở thời kỳ này. Nếu động tác kĩ thuật được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ dẫn đến sự hình thành động tác sai và trở thành cố tật. - Giai đoạn 2: Giai đoạn ức chế phân biệt. Giai đoạn này hưng phấn trên vỏ não đã tập trung vào trung khu thần kinh, hoạt động nhiều bản thân người tập đã phân biệt được những động tác đúng sai, thừa. Lúc này người tập luôn tập trung uốn nắn sửa chữa kĩ thuật động tác dẫn tới động tác thực hiện cứng nhắc, gò bó không có tính nhịp điệu, giật cục. Nếu tập thường xuyên người học sẽ nhanh chóng chuyển sang tự động hóa (đường dây liên hệ tạm thời trên vỏ não ngày càng ổn định). - Giai đoạn 3: Giai đoạn tự động hóa. Ở giai đoạn này hưng phấn đã tập trung vào những vùng hẹp trên vỏ não, người học có thể thực hiện động tác một cách thuần thục, theo ý muốn của bản thân một cách hoàn hảo, chính xác tính nhịp điệu cao, họ biết phối hợp và sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm năng lượng cho bản thân. Tiếp tục tập luyện sẽ trở thành tự động hóa động tác. 10
  11. Để nâng cao được hiệu quả bài tập sửa chữa những sai lầm thường mắc cho học sinh, trong quá trình học kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực giáo viên cần chú ý một cách tỉ mỉ đến người học và đưa bài tập vào thời điểm cho phù hợp từng giai đoạn của quá trình hình thành kĩ năng vận động. Theo quan điểm lý luận TDTD: Sự phân đoạn quá trình dạy học mỗi động tác riêng không cần phải dựa trên giai đoạn tương ứng của quá trình hình thành kĩ năng kĩ xảo vận động. Muốn học thành kĩ xảo tương đối hoàn thiện thì học TDTT có 3 giai đoạn giảng dạy: - Giai đoạn giảng dạy ban đầu. - Giai đoạn học đi sâu từng phần. - Giai đoạn củng cố hoàn thiện. Lượng vận động là cơ sở cho việc hình thành thành tích thể thao và tùy thuộc vào đặc điểm của từng môn chuyên sâu và trình độ tập luyện đặc điểm của từng đối tượng và sử dụng lượng vận động cho phù hợp. 2.3. Nguyên lý kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực. Chuyền bóng là một kĩ thuật động tác nhờ đó mà các cầu thủ có thể chuyền bóng cho nhau để tấn công đối phương. Tầm quan trọng của chuyền bóng: Trong thi đấu Bóng rổ chuyền bóng tốt là cơ sở cho sự phối hợp chính xác giữa các cầu thủ trên sân thi đấu. Nếu kĩ thuật chuyền bắt bóng không tốt thì không có điều kiện ném rổ được, có nhiều kĩ thuật chuyền bóng khác nhau trong đó chuyền bóng bằng hai tay trước ngực là 1 trong những kĩ thuật được sử dụng rất nhiều - đây là phương pháp cơ bản cho phép chuyền bóng nhanh và chính xác cho đồng đội ở khoảng cách gần hay trung bình. Kĩ thuật này dùng nhiều khi đối phương không kèm chặt. Để thực hiện đúng kĩ thuật chuyền bóng trong bóng rổ, các cầu thủ cần thực hiện theo quy luật chuyền bóng rổ sau: - Dùng sức ở ngón tay và cổ tay để chuyền bóng dựa trên sức ở cánh tay và thân người làm động tác bổ trợ - Thực hiện tư thế chuẩn bị chuyền bóng ngay sau khi bắt được bóng từ cầu thủ khác -Tùy thuộc vào vị trí cầu thủ muốn chuyền bóng mà chúng ta dùng lực chuyền bóng mạnh hay nhẹ, tốc độ nhanh hay chậm. - Bắt nhịp tốc độ đồng đội thi đấu trên sân để có những đường chuyền bóng thích hợp. Luôn nhớ rằng, mỗi điểm ghi được đều nhờ vào thành tích của cả đội 11
  12. *Hình vẽ toàn bộ động tác chuyền bóng bằng hai tay trước ngực  Kĩ thuật chuyền bóng bằng hai tay trước ngực gồm các bước sau: Tư thế chuẩn bị - Đứng chân trước chân sau, hai chân rộng bằng vai. Trọng tâm thấp và dồn vào 2 chân, 2 gối hơi khụy, mắt quan sát hướng chuyền - Hai tay cầm bóng ở 2 bên lùi về nữa sau của quả bóng, các ngón tay xòe tự nhiên, bóng tiếp xúc vào phần chai tay và các ngón tay, lòng bàn tay không chạm bóng. Cánh tay thả lỏng tự nhiên, bóng để ở phía trước bụng trên. Thực hiện chuyền bóng - Khi chuyền người ngả nhanh về trước, chân sau đạp đất, 2 tay đưa từ dưới lên trên tạo thành một đường vòng cung nhỏ, sau đó kết hợp lực thân người với cánh tay chuyển lực sang cẳng tay và các đầu ngón tay để chuyền bóng về phía trước. Khi tay đã gần thẳng hết dùng lực cổ tay, các ngón tay (trỏ, giữa và cái) đẩy bóng. - Để tạo nên đường bóng đi mạnh, các ngón tay phải miết vào bóng và khi bóng rời tay lòng bàn tay hơi xoay ra ngoài. Kết thúc - Bóng rời tay cuối cùng ở ngón trỏ và giữa, kết thúc động tác 2 tay duỗi thẳng, lòng bàn tay hướng ra ngoài, hai lưng bàn tay hướng vào nhau, ngón cái hướng xuống dưới, các ngón tay hướng về phía trước, trọng tâm dồn về hướng chuyền. * Bắt bóng bằng hai tay: Bắt bóng là một động tác mà nhờ nó vận động viên có thể kiểm soát bóng một cách chắc chắn và áp dụng những động tác tấn công có 12
  13. bóng tiếp theo. Bắt bóng và chuyền bóng là hai kĩ thuật khác nhau song lại gắn bó với nhau rất chặt chẽ trong các bài tập, không có hình thức tập luyện nào có chuyền bóng mà không có bắt bóng và ngược lại. Bắt bóng bằng 2 tay là động tác được sử dụng nhiều trong thi đấu, có thể bắt bóng từ mọi hướng đến vì nó rất cơ bản, bắt dễ dàng, bảo vệ bóng tốt, tiện cho làm động tác tiếp theo, song phạm vi bắt bóng hẹp. Kĩ thuật bắt bóng bằng hai tay: TTCB: Hai chân đứng song song hoặc chân trước, chân sau rộng bằng vai, gối khuỵu, thân trên quay về hướng bóng đến. Khi bắt bóng hai tay đưa thẳng về hướng bóng đến, các ngón tay mở thả lỏng tự nhiên, hình thành giống như chiếc phễu, khoảng cách giữa hai bàn tay nhỏ hơn đường kính của bóng, 2 ngón tay cái tạo thành hình chữ A. Động tác: Bộ phận tiếp xúc bóng đầu tiên là các ngón tay, sau đó nhanh chóng hoãn xung đưa bóng nằm gọn vào 2 lòng bàn tay, đồng thời khép cổ tay gần vào nhau và hai tay hơi gập lại ở khớp khuỷu kéo về ngực để bảo vệ bóng và chuẩn bị làm động tác tiếp theo 2.4. Vai trò của sự hoàn thiện kĩ thuật. Để đạt được những thành tích cao khi thực hiện kĩ thuật ngoài việc phát triển các tố chất thể lực thì yếu tố hoàn thiện kĩ thuật đóng vai trò to lớn. Do vậy khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực để có thành tích tốt thì người tập phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoàn thiện về thể lực, trạng thái tâm lý, sự chú ý cao và sự hoàn thiện kĩ thuật động tác. Sự hoàn thiện về kĩ thuật ở đây có nghĩa là tất cả các động tác được người thực hiện một cách liên hoàn mang tính nhịp điệu, phối hợp ăn khớp giữa các bộ phận của cơ thể. Như chúng ta thấy ở mỗi giai đoạn động tác kĩ thuật đều có một nhiệm vụ để thúc đẩy những giai đoạn tiếp theo. Vậy quá trình hoàn thiện kĩ thuật là quá trình thực hiện động tác một cách thuần thục, liên hoàn, chặt chẽ mang tính nhịp điệu không tách rời nhau, hoạt động này tác động hoạt động kia, không có sự nhầm lẫn, sai thừa, thiếu kĩ thuật ở mỗi giai đoạn thực hiện kĩ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay trước mặt. 13
  14. 2.5. Tầm quan trọng của việc xác định những lỗi sai thường mắc. Kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực có tầm quan trọng rất lớn trong việc giảng dạy và huấn luyện. Ở đây ngưòi giáo viên cần truyền đạt những kiến thức (kĩ - chiến thuật và những yếu lĩnh kĩ thuật động tác) cho người học. Việc phát hiện những sai lầm thường mắc khi học được coi là một nghệ thuật trong công tác của người dạy, trên cơ sở đó người dạy có thể đưa ra những biện pháp, phương pháp sửa chữa những sai lầm một cách hợp lý ngay từ đầu. Đây là một trong những biện pháp cần thiết để tránh những sai lầm đến động tác tiếp theo. 2.6. Các yếu tố ảnh hưởng tới kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực. Kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực trong khi thi đấu bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan và khách quan đó là: kĩ thuật; thể lực; tâm lý; thời tiết; sân bãi, khán giả. Chính vì vậy trong thi đấu đòi hỏi người học không những hoàn thiện về chuyên môn mà phải trang bị cho người tập toàn diện về thể lực, kĩ chiến thuật, tâm lý. 2.7. Đặc điểm phát triển hình thái, tâm sinh lý. 2.7.1. Đặc điểm phát triển hình thái * Hệ xương: Ở lứa tuổi này hệ xương tiếp tục cốt hóa và phát triển mạnh, cột sống tương đối đã ổn định, hình dáng, xương chi trên, xương chi dưới, xương hông,…vẫn chưa được cốt hóa hoàn toàn nên dễ bị biến dạng. Xương chậu của nữ to và yếu hơn của nam, vì vậy không nên cho nữ tập luyện với khối lượng và cường độ lớn như nam. * Hệ cơ: Ở lứa tuổi này do hệ xương và cơ phát triển mạnh nên năng lực vận động được nâng cao. Do hệ cơ phát triển mạnh nên các em rất hiếu động, thích dùng các hoạt động về lực và dùng sức chứ không thích các hoạt động tỉ mỉ, khéo léo,… Cơ bắp và các nhóm cơ lớn phát triển tương đối nhanh như cơ đùi, cơ cánh tay,… các cơ nhỏ như cơ bàn tay phát triển chậm hơn. Ở nữ dưới lớp da phát triển mỡ nên phần nào ảnh hưởng đến sức mạnh. 2.7.2. Đặc điểm tâm lý- sinh lý Ở lứa tuổi học sinh THPT (từ 15 đến 17 tuổi), hoạt động học tập là hoạt động cơ bản thu hút nhiều thời gian và công sức. Do các môn học có nội dung kiến thức ngày càng nâng cao, phương thức giảng dạy học tập của thầy và trò có nhiều thay đổi, mỗi giáo viên đều có những nét riêng về trình độ chuyên môn và cách xử thế, nên đòi hỏi các em phải cố gắng nỗ lực tập trung nhiều công sức, thời gian và trí tuệ. Thời kỳ này là thời kỳ quá độ để trở thành người lớn, các em rất thích tò mò, ham học hỏi, trí nhớ có nhiều biến đổi căn bản, năng lực ghi nhớ có chủ định 14
  15. tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu xuất ghi nhớ cũng được tăng lên. Tính hệ thống trong việc thu lượm tri thức được tăng lên nhờ việc thiết lập những mối liên tưởng ngày càng phức tạp và sâu sắc. Sự phát triển của các em ở giai đoạn này là rất phức tạp, đời sống tâm lí có nhiều mâu thuẫn, nhiều thay đổi đột ngột khiến cha mẹ và thầy cô đôi lúc phải ngạc nhiên và cảm thấy khó xử, vì thế cần phải có thái độ tế nhị và khéo léo. Tình cảm của các em sâu sắc và phức tạp, dễ xúc động, dễ bị kích thích nhiều do bị ảnh hưởng của quá trình phát dục và thay đổi một số cơ quan nội tạng, nhiều khi còn do hoạt động thần kinh không cân bằng, các quá trình hưng phấn quá mạnh đã khiến các em không tự kiềm chế được. Các em rất nhạy cảm với những đánh giá của những người xung quanh về bản thân các em. Vì vậy, đôi khi chỉ một thành công ngẫu nhiên mà được mọi người chú ý cũng có thể làm cho các em tự đánh giá cao về mình sinh ra tự kiêu, tự mãn, ngược lại cũng có thể gây cho các em có tính tự ti, nhút nhát,… Trong quá trình học tập cũng như trong tập luyện nếu thầy cô hay cha mẹ có những nhận xét đánh giá không đúng, không công bằng, các em dễ có những phản ứng mãnh liệt. Nói chung sự phát triển của các em trong giai đoạn này có nhiều biến đổi về tâm sinh lý cần hướng dẫn giúp các em có những nhận xét đúng về bản thân, cần có những biện pháp thích hợp để động viên khuyến khích các em trong học tập cũng như tập luyện TDTT … 2.8. Công tác GDTC tại các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành. Công tác Giáo dục thể chất trong các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành nhiều năm qua được chú trong phát triển. Lãnh đạo các trường THPT, các giáo viên giảng daỵ môn Thể dục cũng như các em học sinh luôn ý thức được việc tập luyện TDTT trong nhà trường là nhằm tăng cường thể chất, sức khỏe cho học sinh, thông qua giờ học Thể dục và các hoạt động tập luyện các môn thể thao giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản và kĩ năng kĩ xảo của vận động thể dục thể thao, tạo thói quen tự giác rèn luyện thân thể một cách khoa học. Thông qua giờ học Thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh, tạo nên phong cách đạo đức tốt đẹp, cao thượng; truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, bồi dưỡng thói quen vệ sinh tốt, hướng dẫn học sinh phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ tăng cường sức khỏe tâm sinh lý. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy một số giáo viên vẫn áp dụng các phương pháp theo lối mòn truyền thống, chưa mạnh dạn áp dụng các phương pháp mới; chưa chú trong các bài tập khắc phục những sai lầm mà học sinh thường mắc phải trong quá trình tập luyện đặc biệt là học sinh đầu cấp học mới tiếp xúc với nội dung mới; cần có nhiều giải đồng bộ góp phần nâng cao hiệu giờ dạy, nâng cao trình độ tập luyện của học sinh. 15
  16. II. LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP ĐỂ SỮA LỖI SAI THƯỜNG MẮC KHI THỰC HIỆN KĨ THUẬT CHUYỀN VÀ BẮT BÓNG BẰNG HAI TAY TRƯỚC NGỰC TRONG MÔN BÓNG RỔ CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT Ở YÊN THÀNH. 1. Thực trạng sử dụng các bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Yên Thành. Để có cơ sở trong việc lựa chọn các bài tập để sữa chữa những sai lầm thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh các trường THPT ở Yên Thành. Bằng phương pháp quan sát sư phạm và phỏng vấn, chúng tôi phỏng vấn 20 giáo viên đang giảng dạy môn Thể dục tại các trường THPT về thực trạng sử dụng bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực. Kết quả được thể hiện ở bảng 1. Bảng 1: Kết quả phỏng vấn thực trạng sử dụng các bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành (n = 20). Kết quả Nhóm Thường Bài tập Ít bài tập xuyên N % N % Mỗi người tự mô phỏng kĩ thuật chuyền và bắt bóng có sự kết hợp lực nhịp nhàng giữa 19 95% 1 5% tay, chân và thân người Một người tung bóng cho người đối diện bắt 30 14 70% 6 bóng đúng kĩ thuật và ngược lại. % Chuyền Tại chỗ cầm bóng chùng gối phối hợp toàn 35 và bắt 13 65% 7 chuyền bóng ra trước. % bóng bằng hai Chuyền và bắt bóng tại chỗ bằng hai tay cho 20 16 80% 4 tay trước bạn tập % ngực Chuyền và bắt bóng di chuyển từng đôi một 19 95% 1 5% Di chuyển 1 đến 2 bước thực hiện kĩ thuật 20 100% 0 0 bắt bóng. Hai người chuyền bắt bóng qua lại liên tục 20 100% 0 0 với nhau, đứng cách nhau 3 – 4m 16
  17. Qua bảng 1 chúng tôi nhận thấy việc sử dụng các bài tập trong quá trình giảng dạy tương đối thống nhất giữa nội dung các bài tập và số lượng bài tập. Qua tìm hiểu chúng tôi được biết đây là những nội dung được các giáo viên sử dụng trong việc hình thành và hoàn thiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh. Việc xây dựng các bài tập và nội dung bài tập là phù hợp với mục đích, yêu cầu của các giai đoạn kĩ thuật. Nhưng việc sử dụng các bài tập với mục đích nhằm giúp học sinh sữa chữa những sai lầm thường mắc phải để thực hiện chính xác kĩ thuật chuyền, bắt bóng bằng hai tay trước ngực chưa được chú trọng, biểu hiện ở các bài tập sử dụng cho kĩ thuật này còn đơn điệu, theo lối mòn truyền thống. Các bài tập để giúp học sinh sữa chữa những sai lầm thường mắc ít được các giáo viên sử dụng một cách thường xuyên. Để đảm bảo cho công tác giảng dạy và học tập có chất lượng thì việc lựa chọn một số bài tập nhằm sữa chữa những sai lầm thường mắc nâng cao độ chính xác khi thực hiện kỹ thuật chuyền và bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh là hết sức cần thiết. 2. Một số lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực của học sinh lớp 10 ở huyện Yên Thành Qua tham khảo việc sử dụng các bài tập để giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh trong quá trình giảng dạy của các giáo viên. Chúng tôi tiến hành quan sát các giờ học tập chính khoá của học sinh lớp 10 THPT trên địa bàn, chúng tôi nhận thấy 10 sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực được trình bày ở bảng 2. 17
  18. Bảng 2: Những lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực của học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành (n = 42). Số người TT Tên lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật Tỷ lệ % mắc Chuyền bóng đi xoáy không thuận lợi cho 1 32 76,19% người bắt bóng Khi bắt bóng, kéo bóng về thường bị rơi 2 hoặc có tiếp xúc bóng nhưng không bắt 38 90,47% được bóng Khi chuyền bóng chuyền quá chậm hoặc 3 16 38% chuyền quá nhanh. Không sử dụng hai tay chuyền bóng mà sử 4 dụng lực của một tay đẩy bóng đi nên bóng 34 80,95% thường đi lệch hướng định chuyền 5 Tay bắt bóng không ép sát vào thân 15 35,71% Chuyền bóng không đi được xa, lực 6 33 78,57% chuyền yếu. Khả năng phối hợp sức toàn thân không tốt, 7 35 83.33% không nhịp nhàng, động tác bị giật cục. Khi chuyền bóng không đổ người về hướng 17 8 40,47% chuyền. Sau khi bắt được bóng không đưa bóng về 16 40,47% 9 vị trí trước ngực 10 Chuyền bóng tầm quá cao hoặc quá thấp 14 33,33% Bảng 2: Lỗi sai khi học kĩ thuật chuyền bóngcao tay bằng hai tay trước mặt của học sinh lớp 10 THPT (n = 42) Qua bảng 2 cho thấy những lỗi sai 1, 2, 4, 6, 7 người tập mắc nhiều hơn, tỷ lệ chiếm từ 75% trở lên. Những lỗi sai còn lại không nhiều có thể giải thích rằng các sai lầm này xảy ra không thường xuyên và không phổ biến ở người tập. Những lỗi sai trên đã ảnh hưởng rất lớn đến độ chính xác của kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực. 18
  19. Để có được kết quả chính xác hơn tôi tiến hành phỏng vấn 32 giáo viên đang giảng dạy Thể dục trong huyện để tìm ra những lỗi sai chính mà người tập thường mắc phải khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực. Sau khi phỏng vấn 32 giáo viên dạy Thể dục trong huyện thu được kết quả ở bảng 2.1 Bảng 2.1. Kết quả phỏng vấn giáo viên trong nhóm về những lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực (n=32) Tên lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật Số Tỷ lệ TT người % đồng ý 1 Chuyền bóng đi xoáy không thuận lợi cho người bắt 20 76,87% bóng. 2 Khi bắt bóng, kéo bóng về thường bị rơi hoặc có 28 87,5% tiếp xúc bóng nhưng không bắt được bóng. 3 Khi chuyền bóng chuyền quá chậm hoặc chuyền 10 31,25% quá nhanh. 4 Không sử dụng hai tay chuyền bóng mà sử dụng 23 71,87% lực của một tay đẩy bóng đi nên bóng thường đi lệch hướng định chuyền. 5 Tay bắt bóng không ép sát vào thân. 9 28,12% 6 Chuyền bóng không đi được xa, lực chuyền yếu. 25 78,12% 7 Khả năng phối hợp sức toàn thân không tốt, không 25 78,12% nhịp nhàng, động tác bị giật cục. 8 Khi chuyền bóng không đổ người về hướng chuyền. 12 37,5% 9 Sau khi bắt được bóng không đưa bóng về vị trí 14 43,75% trước ngực 10 Chuyền bóng tầm quá cao hoặc quá thấp 11 34,37% Qua kết quả phỏng vấn các giáo viên trong dạy Thể dục trong huyện cho thấy những lỗi sai: 1, 2, 4, 6, 7 có tỷ lệ trả lời là 70% trở lên. Từ đó chúng tôi kết luận : 19
  20. Khi học kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực trong môn Bóng rổ học sinh lớp 10 THPT trong huyện thường mắc phải những lỗi sai sau đây: - Chuyền bóng đi xoáy không thuận lợi cho người bắt bóng. - Khi bắt bóng, kéo bóng về thường bị rơi hoặc có tiếp xúc bóng nhưng không bắt được bóng. - Không sử dụng hai tay chuyền bóng mà sử dụng lực của một tay đẩy bóng đi nên bóng thường đi lệch hướng định chuyền. - Chuyền bóng không đi được xa, lực chuyền yếu. - Khả năng phối hợp sức toàn thân không tốt, không nhịp nhàng, động tác bị giật cục. Để khắc phục những lỗi sai đó trước hết phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những lỗi sai lầm, từ đó có biện pháp khắc phục phù hợp nhất trong khi học. * Nguyên nhân dẫn đến lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật: Trước hết cần căn cứ vào nhiệm vụ là những yêu cầu đặt ra trong bài giảng hoặc giai đoạn học kĩ thuật, phối hợp động tác. Muốn đánh giá chính xác kĩ thuật thực hiện phải chú ý quan sát nhiều lần đối tượng tập luyện một cách tỉ mỉ từ hình tay, tư thế chuẩn bị thực hiện động tác và cả việc sử dụng cơ quan cảm thụ của giáo viên, với tư duy, ý thức tự đánh giá của học sinh trong khi tập và quan sát để thấy được những động tác đúng của bạn bè, của thầy cô. Ngoài ra nếu có điều kiện thì cho học sinh xem những băng hình tư liệu về động tác trước khi học và trong khi học để từ đó có nhận xét về bản thân mình. Ngoài chuyện quan sát, quản lý lớp học giáo viên phải chỉ dẫn tỉ mỉ từ cảm giác chung đối với động tác đến cảm giác phối hợp của các cơ quan và yêu cầu về kĩ thuật động tác… Qua đó giáo viên đánh giá chính xác việc thực hiện kĩ thuật, đồng thời biết phát hiện những sai lầm và tìm biện pháp sữa chữa kịp thời, đó là một yêu cầu trong giảng dạy. Để hiểu rõ nguyên nhân của những lỗi sai một cách khoa học tôi đã thông qua phương pháp quan sát sư phạm và phương pháp phỏng vấn để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những sai lầm cơ bản được trình bày ở bảng 2.2 20
nguon tai.lieu . vn