- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lựa chọn bài tập phát triển sức bền cho nữ đội tuyển chạy 800m lứa tuổi 16 – 18 trường THPT Quỳ Hợp 2
Xem mẫu
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
GDTC trong các trường phổ thông là một mặt giáo dục quan trọng không
thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo góp phần thực hiện mục tiêu: “
Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài” cho đất nước cũng là để
mọi người dân nhất là thế hệ trẻ có điều kiện phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, để đáp ứng
nhu cầu đổi mới của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong các môn thể thao thì Điền Kinh là môn thể thao cơ bản đã và đang
được Nhà nước quan tâm phát triển. Môn Điền Kinh ở nước ta phát triển từ rất
sớm song nó chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ từ sau năm 1975 cả về số lượng và
chất lượng. Điền Kinh là môn thể thao phong phú và đang dạng gồm nhiều nội
dung như: Chạy, nhảy, ném đẩy…hơn thế nữa nó lại là môn thể thao có nhiều
lợi ích, tác dụng đối với sức khoẻ, sản xuất và chiến đấu. Điền Kinh không
đòi hỏi phức tạp về sân bãi và dụng cụ…Nên nó trở thành môn thể thao cơ bản
phổ biến trong trường phổ thông.
Qua thực tiễn giảng dạy nhiều năm tại trường việc tập luyện và thi đấu các
giải phong trào của nhà trường. Chúng tôi nhận thấy việc phát triển các tố chất
thể lực như: sức mạnh, sức bền, sức nhanh …còn rất yếu một phần nguyên
nhân là do thời gian và điều kiện tập luyện còn ít, phương pháp tập luyện còn
hạn chế nên đem lại kết quả tập luyện và thi đấu chưa cao. Vì vậy muốn đạt
được thành tích tốt thì đòi hỏi các em phải có sự kết hợp giữa các tố chất như:
sức bền tốc độ, sức nhanh mạnh…. Vì thế sức bền là tố chất rất cần thiết cho
học sinh đặc biệt là học sinh THPT.
Trong thực tế tập luyện cho đội tuyển nữ Điền kinh tại trường THPT Quỳ
Hợp 2, chúng tôi nhận thấy sức bền tốc độ của các em ở cự ly 800m lứa tuổi 16
– 18 chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao thành tích thể thao của trường đề
ra.Để đáp ứng chiến lược đào tạo, nâng cao chất lượng cho đội tuyển sau này
của nhà trường cần phải tìm ra hệ thống bài tập phát triển sức bền chuyên môn
cho các VĐV chạy 800m. Vấn đề nghiên cứu nâng cao thành tích chạy 800m đã
có nhiều tác giả. Tuy nhiên, hiệu quả và đối tượng nghiên cứu còn nhiều hạn
chế, chưa mang tính cụ thể.Đặc biệt ở trường THPT Quỳ Hợp 2 chưa có tác
giả nào nghiên cứu.Xuất phát từ thực tế cũng như sự phân tích trên chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Lựa chọn bài tập phát triển sức bền cho nữ đội tuyển chạy 800m lứa
tuổi 16 – 18 trường THPT Quỳ Hợp 2”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu:
1
- Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, đề tài tiến hành lựa chọn các bài
tập có hiệu quả, phù hợp với đối tượng đưa vào tập luyện phát triển sức bền
chuyên môn, từ đó góp phần nâng cao thành tích chạy cự ly 800m cho nữ đội
tuyển lứa tuổi 16 – 18 tại trường THPT Quỳ Hợp 2.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ 1. Đánh giá thực trạng công tác tập luyện sức bền cho đội tuyển
nữ chạy 800m lứa tuổi 16 – 18 trường THPT Quỳ Hợp 2.
Nhiệm vụ 2. Lựa chọn và ứng dụng bài tập phát triển sức bền chuyên môn
cho đội tuyển nữ chạy 800m lứa tuổi 16 – 18 trường THPT Quỳ Hợp 2.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các bài tập phát triển sức bền chuyên
môn cho nữ đội tuyển chạy 800m lứa tuổi 16 – 18 trường THPT Quỳ Hợp 2.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Đội tuyển nữ chạy 800m lứa tuổi 16 – 18 trường THPT Quỳ Hợp
2.
Địa điểm nghiên cứu: Trường THPT Quỳ Hợp 2.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN
SỨC BỀN CHO NỮ ĐỘI TUYỂN CHẠY 800M LỨA TUỔI 16 – 18
TRƯỜNG THPT QUỲ HỢP 2
1.1. Các khái niệm cơ bản:
1.1.1. Sức bền và vai trò của sức bền trong huấn luyện chạy cự ly 800m.
1.1.1.1: Khái niệm về sức bền.
Theo lý luận phương pháp thể dục thể thao thì sức bền là: Năng lực thực
hiện một hoạt động với cường độ cho trước hay là năng lực duy trì khả năng
vận động trong thời gian kéo dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng được.
Còn khái niệm về sức bền chuyên môn thì được hiểu như sau: Sức bền
chuyên môn là năng lực duy trì khả năng vận động cao trong những loại hình bài
tập nhất định.
Theo quan điểm của Tiến sĩ Harre trình bày trong học thuyết huấn luyện thì
sức bền được hiểu là khả năng chống lại mệt mỏi của VĐV, sức bền đảm bào
cho VĐV đạt được cường độ tốt nhất trong thời gian kéo dài thi đấu tương ứng
với khả năng huấn luyện của mình, sức bền phát triển tốt nhất là điều kiện sức
khoẻ hồi phục nhanh. Cũng theo tiến sĩ Harre thì sức bền chuyên môn là sức bền
đặc trưng cho từng môn thể thao.
1.1.1.2. Vai trò của sức bền trong tập luyện cự ly trung bình.
2
- Những nhiệm vụ và vai trò sức bền trong vận động thể lực bị chi phối bởi
rất nhiều nhân tố. Do đó để phát triển sức bền, phải giải quyết hàng loạt nhiệm
vụ nhằm hoàn thiện và nâng cao những nhân tố đó. Trong số những nhân tố chi
phối sức bền phải kể đến: Kỹ thuật Thể thao hợp lý, bảo đảm phát huy được
hiệu quả và đồng thời tiết kiệm được năng lượng trong khi vận động. Năng lực
duy trì trong thời gian dài trạng thái hưng phấn của các trung tâm thần kinh. Khả
năng hoạt động cao của hệ tuần hoàn và hô hấp. Tính tiết kiệm của các quá
trình trao đổi chất. Cơ thể có nguồn năng lượng lớn. Sự phối hợp hài hoà trong
hoạt động của các chức năng sinh lý. Khả năng chịu đựng chống lại cảm giác
mệt mỏi nhờ nỗ lực ý chí. Nâng cao sức bền thực chất là quá trình làm cho cơ
thể thích nghi dần dần với lượng vận động ngày càng lớn, điều này đòi hỏi
người tập phải có ý chí kiên trì, chịu đựng những cảm giác mệt mỏi đôi khi rất
nặng nề và cảm giác nhàm chán do tính đơn điệu của bài tập. Mặt khác, đòi hỏi
có sự tích luỹ, thích nghi dần dần và kéo dài liên tục trong nhiều năm. Những ý
đồ nôn nóng, gò ép, đốt cháy giai đoạn chẳng những không đem lại kết quả, mà
còn có hại đối với người tập. Cho nên vai trò của sức bền trong tập luyện cự ly
trung bình nó chiếm một vị trí quan trọng, nếu người tập vượt qua được lượng
vận động cho trước hay là năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian
kéo dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng được.
1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 16 – 18.
1.1.2.1.Đặc điểm tâm lý.
Ở lứa tuổi này, các em đã tỏ ra mình là người lớn và đã có nhận thức rõ ràng,
hưng phấn cao. Đã hình thành được nhân sinh quan và thế giới quan cũng như
hình thành mơ ước, lý tưởng và mục tiêu theo đuổi rõ ràng nên hoạt động mang
tính lý trí rõ ràng hơn sự cảm tính chủ quan.
Do quá trình hưng phấn chiếm ưu thế nhiều hơn so với quá trình ức chế, cho
nên các em tiếp thu cái mới nhanh nhưng lại nhanh chán. Lứa tuổi này, do kinh
nghiệm cuộc sống còn ít nên mọi việc làm, suy nghĩ đều thiếu chín chắn, dễ
mang tính bồng bột. Vì vậy, khi tiến hành công tác giáo dục TDTT cho các em
cần phải uốn nắn nhắc nhở, chỉ bảo kịp thời, định hướng và động viên các em
hoàn thành tốt nhiệm vụ, khen thưởng và động viên đúng mức.
Hứng thú: các em đã có thái độ tự giác tích cực trong học tập xuất phát từ
động cơ học tập đúng đắn và hướng tới việc lựa chọn nghề sau này. Song hứng
thú học tập cũng còn nhiều động cơ khác như giữ lời hứa với bạn, đôi khi do tự
ái, hiếu danh cho nên giáo viên cần định hướng cho các em xây dựng động cơ
đúng đắn để các em có hứng thú bền vững trong học tập nói chung và giáo dục
thể chất nói riêng.
Tình cảm: học sinh lứa tuổi này có biểu hiện rõ rệt về tình cảm như gắn bó
với bạn bè, yêu quý mái trường, thầy cô giảng dạy các em (yêu, ghét rõ ràng).
Việc giáo viên gây được thiện cảm và sự tôn trọng là một trong những thành
3
- công. Điều đó giúp giáo viên thuận lợi trong quá trình giảng dạy. Nó thúc đẩy
các em tự giác, tích cực tập luyện và yêu thích môn thể thao. Do vậy, giáo viên
phải là người mẫu mực công bằng, biết động viên kịp thời và quan tâm đúng
mức tới học sinh, tôn trọng kết quả học tập cũng như tình cảm của các em.
Trí nhớ: ở lứa tuổi này, hầu như không còn tồn tại việc ghi nhớ máy móc, các
em đã biết ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic, tư duy chặt chẽ hơn và lĩnh
hội được bản chất vấn đề cần học tập. Do đặc điểm trí nhớ của các em khá tốt
nên giáo viên có thể sử dụng phương pháp trực quan kết hợp với giảng giải,
phân tích các chi tiết kỹ thuật động tác và vai trò, ý nghĩa của động tác cũng như
cách sử dụng phương pháp, phương tiện trong giáo dục thể chất để các em có
thể tự tập trong thời gian rảnh rỗi. Các phẩm chất ý chí đã rõ ràng hơn và mạnh
mẽ hơn so với các lứa tuổi trước đó, các em có thể hoàn thành bài tập khó và đòi
hỏi sự khắc phục khó khăn lớn trong tập luyện.
1.1.2.2. Đặc điểm sinh lý.
Đối với lứa tuổi này, cơ thể đã phát triển tương đối hoàn chỉnh các hệ cơ
quan cũng như các yếu tố thể lực để tiến tới hoàn thiện về chức năng.
Hệ vận động: hệ xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển, một năm nữ cao
thêm 0,51cm, nam cao thêm 13cm. Tập luyện TDTT một cách thường xuyên
làm cho xương khỏe mạnh hơn. Với lứa tuổi này, các xương nhỏ của xương
coora tay, bàn tay đã hoàn thiện nên các em có thể tập luyện một số động tác
treo, chống, mang vác nặng mà không làm tổn thương hoặc không làm phát triển
lệch lạc cấu trúc cơ thể. Cột sống đã ổn định hình dáng nhưng vẫn chưa hoàn
thiện, có thể bị cong vẹo nên việc tiếp tục được bồi dưỡng tư thế chính xác
thông qua hệ thống các bài tập như đi, chạy, nhảy, thể dục nhịp điệu, thể dục
cơ bản cho các em là rất cần thiết.
Hệ xương: xương các em phát triển mạnh mẽ về chiều dài và độ dày, tính
đàn hồi của xương giảm dần do hàm lượng photpho, canxi, magie tăng. Xuất
hiện sự cốt hóa ở một số bộ phận của xương như bề mặt xương sống, các tổ
chức dần được thay thế bằng các mô xương nên cùng với sự phát triển chiều
dài cột sống tăng lên cũng có thể có xu hướng bị cong vẹo.
Hệ cơ: giai đoạn này, cơ của các em phát triển với tốc độ nhanh nhưng vẫn
chậm hơn so với hệ xương. Biểu hiện là các em cao, gầy khối lượng cơ tăng
nhanh, đàn tính cơ tăng không đồng đều, chủ yếu là các cơ nhỏ và dài; do đó khi
hoạt động nhanh chóng dẫn đến mệt mỏi vì độ phì đại cơ chưa cao. Vì vậy
trong quá trình huấn luyện, giáo viên cần phải chú ý phát triển cơ bắp cho các
em nhằm phát triển hoàn thiện cho hệ cơ.
Hê tuần hoàn: lứa tuổi 1618, kích thước của tim tương đối lớn, tần số co bóp
của tim đã giảm xuống và tương đối ổn định. Tim ở lứa tuổi này đã thích nghi
với sự tăng công suất của hoạt động và có thể ở những bài tập sức bền, thể tích
4
- tâm thu và thể tích phức tăng cao, điều đó làm tăng dự trữ lượng máu trong tâm
thất để vận động bổ sung cho thể tích của dòng máu.
Hoạt động cơ bắp kéo dài làm cho máu có những biến đổi nhất định sau: thời
gian tập luyện dài, tốc độ cao và căng thẳng, khối lượng của máu tỉ lệ với trọng
lượng cơ thể ở mức hoàn thiện, hồng cầu trong máu tăng. Sau các hoạt động
kéo dài lượng hồng cầu giảm đi và quá trình hồi phục xảy ra nhanh.
Hệ hô hấp: lứa tuổi này có sự biến đổi cơ bản về trạng thái chức năng hô
hấp. Dung tích sống và thông khí phổi tăng tối đa, khả năng hấp thụ oxy tối đa
(VO2max).
Hệ thần kinh:các tổ chức thần kinh ở lứa tuổi này đang tiếp tục phát triển và
hoàn thiện, khả năng tư duy nhất là khả năng phân tích tổng hợp trừu tượng hóa
phát triển rất thuận lợi cho việc hình thành các phản xạ có điều kiện. Tuy
nhiên, đối với một số bài tập mang tính đơn điệu, không hấp dẫn cũng làm cho
các em chóng mệt mỏi. Vì vậy, cần thay đổi hình thức tập luyện sao cho phong
phú, tạo điều kiện hoàn thiện tốt bài tập chính, nhất là các bài tập sức bền.
Ngoài ra, do hoạt động của tuyến giáp, tuyến sinh dục làm cho tính hung phấn
của hệ thần kinh chiếm ưu thế và ức chế không cân bằng dẫn đến ảnh hưởng
tới hoạt động thể lực.
Đối với các em ở lứa tuổi này, tính nhịp điệu giảm sút nhanh, khả năng chịu
đựng lượng vận động kém. Cần sử dụng bài tập tích hợp và thường xuyên quan
sát phản ứng của cơ thể người tập để có biện pháp giải quyết kịp thời.
Trao đổi chất và năng lượng: đối tượng là nữ ở lứa tuổi này, đòi hỏi về các
chất (đường, đạm, muối khoáng) rất lớn vì quá trình trưởng thành cơ thể, cung
cấp cho hoạt động thể lực cần nhiều năng lượng.
1.1.3. Cở sở lý luận và sinh lý của sức bền tốc độ.
1.1.3.1 Cơ sở lý luận của sức bền tốc độ.
Trong hoạt động thể dục thể thao, sức bền được hiểu là năng lực của cơ thể
chống lại mệt mỏi trong một hoạt động nào đó, sức bền đảm bảo cho VĐV đạt
được cường độ tốt nhất các hành vi kỹ thuật, chiến thuật tới cuối cự ly. Do đó,
sức bền không chỉ là một nhân tố xác định ảnh hưởng tới thành tích thi đấu mà
còn là nhân tố xác định tính tập luyện và khả năng chịu đựng lượng vận động
của VĐV, sức bền phát triển tốt cũng là một điều kiện quan trọng để phục hồi
nhanh.
Trình độ sức bền được xác định trước hết bởi chức năng của hệ thống tuần
hoàn, quá trình trao đổi chất, hoạt động của hệ thần kinh và sự phối hợp hoạt
động của các hệ cơ quan. Sức bền phụ thuộc nhiều vào tình trạng phối hợp vận
động và tính chất điều khiển tâm lý, đặc biệt là điều khiển ý chí của VĐV (tức
là khi con người thực hiện một hoạt động nào đó với cường độ lớn thì sau đó
một thời gian sẽ cảm thấy việc thực hiện hoạt động đó khó khăn hơn biểu hiện
5
- ra ngoài như cơ mặt căng thẳng, mồ hôi ra nhiều, cũng có biến đổi sâu sắc về
tâm lý song con người vẫn duy trì được sự hoạt động nhờ nỗ lực ý chí và sự
chống lại mệt mỏi).
Do đó, khi huấn luyện sức bền cần phải tìm ra các phương pháp, phương tiện
phù hợp với yêu cầu của môn thể thao để nâng cao thành tích. Sức bền là một
trong những yếu tố để xác định thành tích nên khi tập luyện sức bền phải phù
hợp với các điều kiện khác nhau của thi đấu. Dưới góc độ nào đó, nhất thiết
phải có một sức bền đặc trưng của từng môn thể thao, sức bền đặc trưng này
gọi là sức bền thi đấu chuyên môn.
Nâng cao sức bền chung là cơ sở để nâng cao sức bền chuyên môn và nâng
cao được năng lực vận động của cơ thể. Tập luyện có hệ thống sẽ nâng cao
sức bền đáng kể. Nhưng cũng cần thấy khả năng sức bền phụ thuộc rất lớn vào
các yếu tố di truyền (đặc biệt là cơ bắp), năng lực hấp thụ oxy của cơ thể.
Vì vậy, việc tổ chức tập luyện đúng phương pháp thì cần phải thử nghiệm
dự báo để tuyển chọn và xác định các cự ly chuyên môn khác phù hợp nhất cho
VĐV.
Tất cả cá phương pháp tập luyện để nâng cao sức bền trong các môn thể thao
có chu kỳ đều dựa trên sự kết hợp của 5 yếu tố cơ bản sau:
Tốc độ bài tập.
Thời gian của bài tập.
Thời gian nghỉ giữa quãng.
Tính chất nghỉ ngơi.
Số lần lặp lại.
Các yếu tố này có ý nghĩa to lớn và có mối quan hệ khăng khít, luôn bổ sung
cho nhau trong quá trình huấn luyện. Do đó, nếu thay đổi một trong các yêu tố
trên thì cơ thể sẽ xuất hiện những biến đổi rất lớn, bất lợi và từ đó sẽ làm
giảm thành tích vận động.
Các bài tập phát triển sức bền tốc độ ở đây chủ yếu là các bài tập lặp lại với
tốc độ giới hạn của cơ thể trong trạng thái hiện trạng. Có như vậy, mới tạo ra
được sự chuyển tốt, sức bền tốc độ mới đạt được kết quả cao. Vậy cần giải
quyết các nhiệm vụ có liên quan, vì ở cự ly trung bình trước tiên phải đảm bảo
kỹ năng hoạt động trong tình trạng thiếu oxy của cơ quan nội tạng, hoàn thiện
và nâng cao chức năng của cơ thể. Mặt khác, cơ sở sinh lý để phát triển sức bền
tốc độ không chỉ áp dụng các bài tập một cách máy móc mà phải căn cứ vào đặc
điểm lứa tuổi, giới tính.
Nội dung chính của huấn luyện sức bền tốc độ trước hết là nâng cao khả
năng yếm khí và ưa khí.
* Đặc điểm của sức bền ưa khí
6
- Cường độ hoạt động từ 4080% cường độ tối đa.
Thời gian hoạt động từ 30 phút trở lên
Quãng nghỉ ngắn dưới hình thức tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hoạt động từ động sang tĩnh rút ngắn quá trình hồi phục.
Số lần lặp lại: cần dựa vào mức hấp thụ oxy.
* Đặc điểm của sức bền yếm khí
Hoàn thiện cơ chế gluco phân:
+ Cường độ hoạt động xấp xỉ tốc độ tối đa (9095%).
+ Thời gian mỗi lần lặp lại từ 20” – 2’.
+ Khoảng cách nghỉ ngơi: giảm dần sau mỗi lần lặp lại.
+ Tính chất nghỉ ngơi: không cần phải nghỉ ngơi tích cực nhưng cần tránh trạng
thái hoàn toàn yên tĩnh.
+ Số lần lặp lại: 34 lần.
Hoàn thiện cơ chế CP (Creatin phốt phát).
+ Cường độ hoạt động gần mức tối đa (95%).
+ Thời gian nghỉ 38’.
+ Quãng nghỉ 23’ hoặc phân nhóm cách nhau 710’.
+ Số lần lặp lại: tùy thuộc vào tốc độ của VĐV sao cho tốc độ không bị giảm.
Căn cứ vào cơ sở lý luận trên cho thấy: khái niệm sức bền tốc độ trong
chạy cự ly 800m là sức bền đặc trưng tương ứng với cự ly chạy 800m, nói cách
khác là sức bền chuyên môn trong cự ly chạy 800m.
Vì thế, để phát triển nâng cao thành tích nói chung sức bền chuyên môn
trong cự ly chạy 800m, cần phát triển toàn diện các tố chất thể lực và áp dụng
tổng hợp các phương pháp huấn luyện nhằm nâng cao khả năng yếm khí và ưa
khí của cơ thể. Việc tập luyện sức bền tốc độ cho VĐV chạy cự ly ngắn và
trung bình là yếu tố cần thiết không thể thiếu.
1.1.3.2. Cơ sở sinh lý của sức bền tốc độ.
Sức bền tốc độ là hoạt động sức bền trong thời gian ngắn đặc trưng cho
các hoạt động kéo dài liên tục từ 45” – 2’ với sự tham gia của một khối lượng
cơ bắp lớn, năng lượng cung cấp chủ yếu cho hoạt động này là năng lượng
yếm khí, đòi hỏi sự nỗ lực lớn của tất cả các cơ quan để chống lại sự mệt mỏi.
Hệ vận động: do quá trình hưng phấn của VĐV cao nên đòi hỏi chức năng vận
động kéo dài liên tục từ 10” – 2’ với sự tham gia của một khối lượng cơ bắp
lớn, năng lượng cung cấp chủ yếu cho hoạt động này là năng lượng yếm khí.
7
- Hệ thần kinh: quá trình hưng phấn chiếm ưu thế bởi vì tốc độ chạy nhanh
nhất với cường độ cao cho nên cơ quan cảm thụ bản thể bị xung đột lớn và
chuyển tới vỏ não liện tục gây nên sự hưng phấn cao của trung tâm vận động ở
vỏ não; và tất nhiên khi quá trình hưng phấn cao hơn ức chế nên nâng cao được
tính linh hoạt của qúa trình thần kinh.
Hệ hô hấp: là khâu đầu tiên của hệ vận chuyền oxy. Hệ hô hấp đảm bảo cho
sự trao đổi khí giữa bên trong và bên ngoài cơ thể. Trong hoạt động yếm khí, cơ
thể hoạt động trong điều kiện ổn định giả nên hệ hô hấp đòi hỏi phải hoạt
động với tần suất cao. Sự tăng công suất của hệ hô hấp ngoài là do lực và sức
bền của các cơ hô hấp tăng nên độ sâu hô hấp giảm.
Hệ máu: thể tích máu và hàm lượng Hêmôglobin quyết định khả năng vận
chuyển oxy của cơ thể. Tập luyện sức bền tốc độ làm tăng lượng máu tuần
hoàn, nó có ý nghĩa lớn đối với khả năng vận chuyển oxy trong cơ thể. Nhờ
lượng máu tuần hoàn lớn mà lượng máu trở về tim cũng lớn hơn, tạo điều kiện
cho thể tích tâm thu tăng lên. Lượng máu tuần hoàn tăng pha loãng các sản phẩm
trao đổi chất (như axit lactic) có trong máu và làm giảm nồng độ của chúng,
tránh hiện tượng rối loạn môi trường nội môi ảnh hưởng tới hoạt động cơ.
Hệ tim mạch: máu có thể vận động hay không là nhờ vào khả năng làm việc
của hệ tim mạch. Trong quá trình tập luyện nâng cao sức bền tốc độ, tim và
mạch máu có sự biến đổi sâu sắc về cấu tạo và chức năng.
+ Về cấu tạo: khi tập luyện nâng cao sức bền chuyên môn, tim và mạch máu có
những biến đổi sâu sắc về cấu tạo và chức năng như cấu tạo buồng tim giãn,
cơ tim phì đại. Giãn buồng tim làm cho lượng máu chứa trong các buồng tăng
lên, đó là yếu tố quan trọng để tăng thể tích tâm thu khi cần thiết, phì đại cơ tim
làm tăng lực bóp của tim.
+ Về chức năng: làm giảm tần số co bóp của tim khi yên tĩnh. Sự giảm nhịp tim
làm cho hoạt động kinh tế, ít tiêu hao năng lượng hơn và có thời gian nghỉ dài
hơn. Những yếu tố đó có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng khả năng tối đa của
tim trong vận động.
Hệ cơ: sức bền của VĐV phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo và sinh hóa của cơ.
Tập luyện sức bền làm cho cơ phì đại dẫn đến khả năng hấp thụ oxy của cơ
tăng lên. Tập luyện sức bền nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ thể trong hoạt
động vùng công suất lớn trong thời gian ngắn.
1.2. Quan điểm phân loại và phương pháp phát triển sức bền chuyên môn.
1.2.1. Quan điểm về sức bền.
Quan điểm về sức bền trong các tài liệu, các công trình nghiên cứu có những
cách thể hiện và nhìn nhận khác nhau. Sức bền trong hoạt động TDTT được các
nhà nghiên cứu khoa học nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau như: Sinh lý học,
Tâm lý học, lý luận và phương pháp TDTT.
8
- Theo quan điểm của tác giả Lưu Quang Hiệp dưới góc độ sinh lý học cho
thấy: Sức bền đặc trưng cho khả năng thực hiện các hoạt động thể lực kéo dài
liên tục từ 2 – 3 phút trở lên với sự tham gia của một khối lượng cơ bắp lớn (từ
½ đến toàn bộ lượng cơ bắp cơ thể) nhờ sự hấp thụ oxy để cung cấp năng
lượng cho cơ thể chủ yếu bằng con đường ưa khí.
Nguồn năng lượng chính cho sự co cơ trong vận động là 3 hệ:
Hệ phốtphogen (ATP – CP)
Hệ Lactac
Hệ oxy hóa
Khả năng hấp thụ oxy tối đa được quyết định bởi khả năng của hai hệ chức
năng chính là hệ vận chuyển oxy và hệ cơ.
* Hệ vận chuyển oxy: Bao gồm hệ hô hấp, máu và tim mạch.
Hệ hô hấp: Đảm bảo việc trao đổi khí giữa không khí bên ngoài và máu, tức
là làm cho phân áp oxy trong máu động mạch được duy trì ở mức cần thiết để
cung cấp cho cơ và các cơ quan.
Hệ máu: Thể tích máu và hàm lượng hemoglobin quyết định khả năng vận
chuyển oxy của cơ thể. Tập luyện sức bền làm tăng lượng máu tuần hoàn. Ở
VĐV tập luyện các môn thể thao sức bền cao hơn VĐV các môn khác và người
bình thường khoảng 20%. Lượng máu tăng chủ yếu là do tăng thể tích huyết
tương, vì vậy độ nhớt của máu có xu hướng giảm đi.
Như vậy tập luyện sức bền không chỉ làm tăng khả năng hấp thụ oxy tối đa,
mà còn làm giảm hàm lượng axit lactic trong máu, như vậy làm tăng khả năng
hoạt động ưa khí kéo dài của cơ thể. Đó là một trong những cơ chế quan trọng
nhất để nâng cao sức bền của VĐV.
Hệ tim – mạch: Tập luyện sức bền lâu dài làm cho tim biến đổi theo hai
hướng: Giãn buồng tim và phi đại cơ tim. Giãn buồng tim làm cho lượng máu
chứa trong các buồng tim tăng lên. Đó là yếu tố quan trọng để tăng thể tích tâm
thu khi cần thiết. Phì đại cơ tim tăng lực bóp của tim, tức là làm tăng thể tích
tâm thu.
Về mặt chức năng, tập luyện sức bền làm giảm tần số co bóp của tim khi
yên tĩnh. Do đó tim hoạt động ít tiêu hao năng lượng và có thời gian nghỉ dài
hơn. Thể tích tâm thu tối đa của VĐV sức bền lên đến 190 – 210ml, trong khi
người bình thường không quá 130ml.
Hệ cơ: Sức bền của VĐV phụ thuộc một phần đáng kể vào đặc điểm cấu
tạo và hóa sinh của cơ.
Tỷ lệ các sợi cơ chậm (nhóm i) của VĐV sức bền trong cơ rất cao. Giữa tỷ
lệ sợi cơ chậm và VO2max có mối liên hệ chặt chẽ (tỷ lệ thuận) với nhau. Song
9
- tập luyện sức bền có thể làm tăng tỷ lệ sợi cơ nhanh iiA và giảm tỷ lệ sợi cơ
nhanh nhóm iiB.
Tập luyện sức bền làm tăng số lượng mao mạch trong cơ. Vì vậy mà khả
năng hoạt động thể lực kéo dài của cơ sẽ tăng lên.
Qua các đặc điểm trên ta thấy tập luyện phát triển sức bền gây được hai
hiệu quả cơ bản là nâng cao khả năng ưa khí tối đa của cơ thể và nâng cao hiệu
quả (tính kinh tế) hoạt động của cơ trong hoạt động.
Như vậy, huấn luyện sức bền lượng vận động phải được xác định đầy đủ 5
nhân tố:
1. Cường độ bài tập.
2. Thời gian của bài tập.
3. Thời gian nghỉ giữa quãng.
4. Tính chất nghỉ ngơi
5. Số lần lặp lại.
Hoạt động sức bền có liên quan mật thiết đến sự nỗ lực ý chí, nó biểu hiện
ở các phẩm chất về tâm lí, về tính tự chủ, quyết đoán và về cá tính mục đích
của bài tập. Thường những hoạt động sức bền là những hoạt động với thời
gian dài, cường độ lớn dễ gây ra mệt mỏi cho người tập, có thể là mệt mỏi giả.
Do đó, người tập phải tự động viên phát động mọi năng lực dự trữ của cơ thể
đảm bảo duy trì cường độ vận động trong thời gian dài. Để đạt được mục đích
của bài tập VĐV cần phải xác định rõ nhiệm vụ của bài tập và luôn có ý thức
tiến lên. Trong quá trình tập luyện và thi đấu, VĐV phải có năng lực điều khiển
ý thức tập trung chú ý, do thời gian thi đấu kéo dài nên có yêu cầu rất cao của
hệ thần kinh, sức bền thần kinh, sức bền tâm lý cũng là đặc điểm của sức bền
chuyên môn. Mà sức bền tâm lý là khả năng của hệ thống thần kinh của VĐV
có thể chịu đựng được lượng vận động cao trong tập luyện và thi đấu duy trì sự
cân bằng cần thiết trong hệ thống đó.
1.2.2. Phân loại sức bền.
Sức bền là một tố chất thể lực, là năng lực chống lại mệt mỏi trong hoạt
động vận động.Sức bền phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Năng lực hoạt động của hệ thống tim mạch.
Quá trình trao đổi chất
Sự tiết kiệm hóa trong vận động (thả lỏng, kỹ thuật)
Các phẩm chất tâm lý chuyên môn.
Việc phân loại sức bền có rất nhiều quan điểm khác nhau, mỗi một trường
phái khác nhau lại căn cứ vào yêu cầu, đặc điểm khác nhau để phân loại. Qua
phân tích và nghiên cứu tài liệu đề tài thấy có một số cách phân loại như sau:
10
- Sức bền cơ sở: Là một dạng sức bền, là năng lực của người tập nhằm chống
lại mệt mỏi trong hoạt động vận động kéo dài, trong đó không có sự tham gia
của quá trình trao đổi chất yếm khí.
Sức bền thi đấu chuyên môn: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV
nhằm chống lại mệt mỏi khi thực hiện các yêu cầu chuyên môn của môn thể
thao hoặc kỹ thuật thể thao trong điều kiện thi đấu.
Dựa vào đặc điểm của từng môn thể thao, người ta phân sức bền chuyên
môn thành các loại sau:
Sức bền mạnh:Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm chống
lại mệt mỏi khi thực hiện các nhiệm vụ vận động kéo dài đòi hỏi sự tham gia
của sức mạnh ở mức độ cao.
Sức bền tốc độ: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm chống
lại mệt mỗi khi thực hiện các nhiệm vụ vận động đòi hỏi tốc độ gần tối đa, tới
tối đa trong điều kiện năng lượng được cung cấp chủ yếu thông qua quá trình
yếm khí.
Sức bền thời gian ngắn: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm
chống lại mệt mỏi khi thực hiện một lượng vận động kéo dài từ 45 giây đến 2
phút trong điều kiện năng lượng được cung cấp chủ yếu thông qua quá trình
yếm khí. Sức bền thời gian ngắn phụ thuộc chặt chẽ vào trình độ phát triển sức
bền mạnh và sức bền tốc độ.
Sức bền thời gian trung bình: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV
nhằm chống lại mệt mỏi khi thực hiện lượng vận động kéo dài từ 2 phút đến 11
phút trong điều kiện đòi hỏi cao về năng lượng thông qua quá trình yếm khí và
ưa khí.
Sức bền thời gian dài: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm
chống lại mệt mỏi khi thực hiện các lượng vận động vận động kéo dài từ 11
phút đến nhiều giờ trong điều kiện năng lượng được cung cấp chủ yếu thông
qua quá trình ưa khí.
Trong sinh lý TDTT căn cứ vào hệ thống cung cấp năng lượng người ta chia
sức bền ra thành 2 loại:
Sức bền ưa khí: Là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều kiện
sử dụng nguồn năng lượng thông qua quá trình oxy hóa hợp chất hữu cơ giàu
năng lượng trong cơ thể.
Sức bền yếm khí: Là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều
kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (các phản ứng giải phóng
năng lượng không có sự tham gia của oxy).
1.2.3. Phương pháp phát triển sức bền.
11
- Phát triển sức bền là một quá trình huấn luyện có chủ đích và kế hoạch
nhằm nâng cao năng lực sức bền chuyên môn (sức bền tốc độ, sức bền thời gian
ngắn, sức bền thời gian trung bình và sức bền thời gian dài) và sức bền cơ sở.
Phát triển sức bền chuyên môn trực tiếp phát triển các năng lực sức bền
thi đấu bằng các bài tập thi đấu trong điều kiện thi đấu hoặc gần giống thi đấu
với cường độ bằng hoặc xấp xỉ cường độ tối đa.
Phát triển sức bền cơ sở hướng vào việc nâng cao năng lực hoạt động của
hệ thống tuần hoàn, năng lực trao đổi oxy, sức bền của các nhóm cơ bằng các
bài tập phát triển chung.
Căn cứ vào mục đích tập luyện có thể sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp kéo dài thời gian: Đặc điểm của phương pháp này là thực
hiện một lượng vận động kéo dài, liên tục, không có thời gian nghỉ. Năng lực
hấp thụ oxy được phát triển nhờ hai con đường hoặc là vận động liên tục trong
điều kiện có oxy, hoặc là hoạt động trong thời gian dài với sự thay đổi cường
độ dẫn đến nhất thời phải hoạt động trong điều kiện không có oxy.
Phương pháp Pharơlếch: đặc điểm của phương pháp này là thực hiện
một lượng vận động kéo dài có sự thay đổi tốc độ theo hứng thú của người tập,
có thể thay đổi tốc độ chạy, thay đổi địa hình, thay đổi cự ly với từng vùng tốc
độ..
Phương pháp giãn cách: đặc điểm của phương pháp giãn cách là luân
chuyển một cách hệ thống các giai đoạn vận động ngắn, trung bình và dài với
các quãng nghỉ ngắn không đủ để cơ thể hồi phục hoàn toàn. Tùy thuộc vào
mục đích tập luyện có thể thay đổi tốc độ, thời gian vận động và thời gian nghỉ
giữa các giai đoạn vận động.
Phương pháp lặp lại: đặc điểm của phương pháp này là lặp lại một
hoặc một số yêu cầu của lượng vận động thi đấu chuyên môn thông qua việc
điều chỉnh cường độ hoặc thời gian vận động.
1.2.4. Phương pháp đánh giá sức bền
Để tiến hành kiểm tra sức bền người ta sử dụng 2 phương pháp trực tiếp
và gián tiếp:
Phương pháp trực tiếp xác định khoảng thời gian mà con người duy trì
được với cường độ định trước. Ví dụ: Cho VĐV chạy với tốc độ nào đó và sức
bền được đánh giá bằng thời gian mà VĐV đó duy trì được. Phương pháp này
không được dùng trong thực tiễn huấn luyện và sự quan sát bằng mắt khó xác
định chính xác tốc độ.
Thông thường người ta sử dụng phương pháp gián tiếp: phương pháp
này yêu cầu vượt qua cự ly tương đối dài và xác định thời gian đạt được. Ví dụ:
12
- Sức bền chung có thể được đánh giá bằng thời gian chạy trên cự ly 5000m,
10.000m hoặc bằng quãng đường chạy trong 12 phút (Cuper test).
Các chỉ số trên đều là các chỉ số đánh giá sức bền tuyệt đối (không tính
đến ảnh hưởng của sức mạnh và sức nhanh). Trong huấn luyện thể thao và
GDTC, còn phải căn cứ vào các yếu tố khác (sức mạnh, sức nhanh), để đáp ứng
yêu cầu đó người ta áp dụng các chỉ số tương đối để đánh giá sức bền.
Dự trữ tốc độ được tính bằng hiệu số giữa thời gian trung bình để vượt
qua với phần cự ly (100m trong chạy, 50m trong bơi).
I = i1 – i2
Trị số tuyệt đối của chỉ số này càng lớn thì sức bền càng kém.
Phương pháp tính hệ số sức bền: j=I1/I2
Phương pháp đánh giá: Nếu hệ số sức bền càng bé thì khả năng hoạt
động sức bền càng tốt.
1.2.5. Các thành phần lượng vận động và quãng nghỉ trong giáo dục sức
bền
Sức bền là khả năng thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước,
hay năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có
thể chịu đựng được.
Chúng ta không thể hoạt động với một cường độ cao được mãi, cho nên
yếu tố chi phối sức bền là mệt mỏi, bởi vì mệt mỏi là nguyên nhân hạn chế
thời gian hoạt động cho nên cũng có thể định nghĩa như sau:
Sức bền là năng lực của cơ thể chống lại mệt mỏi trong một hoạt động
nào đó. Như vậy sức bền luôn luôn liên quan đến mệt mỏi.
Tất cả các phương pháp huấn luyện nâng cao và trong các môn thể thao
có chu kỳ đều dực trên sự kết hợp của 5 yếu tố cơ bản của lượng vận động.
Đó là tốc độ (hay cường độ) bài tập, thời gian thực hiện bài tập, thời gian nghỉ
giữa quãng, tính chất nghỉ ngơi giữa quãng, số lần lặp lại.
Vì vậy, để phân tích các thành phần của lượng vận động và quãng nghỉ
trong giáo dục sức bền ta cần phải phân tích 5 yếu tố cơ bản của lượng vận
động trên quan điểm về các cơ chế cung cấp năng lượng trong hoạt động của
cơ thể.
1.2.5.1. Yếu tố tốc độ của bài tập
Cơ chế cung cấp năng lượng phụ thuộc vào tốc độ bài tập (ví dụ: tốc độ
chạy, bơi..) được chia làm 3 loại:
Tốc độ dưới tới hạn.
Tốc độ tới hạn
13
- tốc độ trên tới hạn.
+ Tốc độ dưới tới hạn:là tốc độ di chuyển đòi hỏi lượng cung cấp oxy
dưới mức cơ thể có thể đáp ứng được, tức là nhu cầu oxy thấp hơn khả năng
hấp tụ oxy của cơ thể. Dưới tới hạn như chúng ta đã biết, khi lượng hấp thụ
oxy đáp ứng đủ nhu cầu oxy cho vận động đòi hỏi thì hoạn động diễn ra trong
điều kiện ổn định thực. Trong vùng tốc độ dưới tới hạn thì nhu cầu oxy tỷ lệ
thuận với tốc độ di chuyển.
+ Nếu VĐV di chuyển với tốc độ nhanh hơn thì dần dần sẽ đạt đến tốc
độ tới hạn, khi đó nhu cầu oxy ở mức bằng với khả năng ưa khí (khả năng hấp
thụ oxy tối đa) của cơ thể.
+ Tốc độ trên tới hạn: là tốc độ di chuyển có nhu cầu oxy cao hơn khả
năng hấp thụ oxy tối đa. Lúc này hoạt động diễn ra trong điều kiện nợ oxy do
các nguồn năng lượng yếm khí, nên ở vùng tốc độ trên tới hạn nhu cầu oxy tăng
nhanh hơn nhiều so với mức tăng của tốc độ di chuyển. Theo A.A.Hill, lúc này
nhu cầu oxy gần như tỷ lệ thuận với lập phượng của tốc độ.
1.2.5.2. Yếu tố thời gian của bài tập.
Đây là yếu tố rất quan trọng của bài tập. Như chúng ta đã biết, có liên
quan với tốc độ di chuyển, tức là thời gian tới hạn của bài tập luôn luôn tương
ứng với một tốc độ di chuyển tới hạn nào đó.
Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu về các nguồn cung cấp năng lượng
cho cơ thể khi vận động, người ta đã xác định rằng:
Các bài tập có cường độ cao về thời gian hoạt động từ 20 giây – 2 phút,
có tác dụng hoàn thiện cơ chế gluco phân.
Các bài tập có thời gian từ 3 – 8 giây có tác dụng tăng cường cơ chế
Photpho Creatin.
Còn những bài tập có thời gian kéo dài (trên 5 – 6 phút) thì tốc độ di
chuyển sẽ dưới tới hạn hoặc tới hạn, ở dó nguồn cung cấp năng lượng được
cung cấp chủ yếu nhờ quá trình ưa khí (hay gọi là quá trình hô hấp); Thời gian
của bài tập càng rút ngắn thì vai trò của quá trình hô hấp càng giảm đi, vai trò
của các quá trình yếm khí càng tăng lên, lúc đầu là các vai trò của phản ứng phân
hủy Photpho Creatin, sau đó là vai trò của các phản ứng phân hủy glucoza (còn
gọi là gluco phân).
Như vậy, thời gian của bài tập kéo dài với tốc độ dưới tới hạn và tới hạn
đòi hỏi sự hoạt động căng thẳng của những hệ thống đảm bảo cung cấp và sử
dụng oxy, trước hết là hệ tuần hoàn – hô hấp, còn thời gian của bài tập với tốc
độ trên tới hạn đòi hỏi khả năng nợ oxy của cơ thể.
1.2.5.3. Thời gian nghỉ giữa quãng
14
- Trong các bài tập, lặp lại có vai trò quan trọng đối với tính chất và
phương hướng tác động của bài tập đối với cơ thể. Trong những bài tập có tốc
độ tới hạn và dưới tới hạn, nếu thời gian nghỉ giữa quãng đủ dài cho các hoạt
động sinh lý trở lại mức tương dối bình thường thì mỗi lần lặp lại các bài tập
tiếp theo, các phả ứng của cơ thể sẽ diễn ra gần giống như lần thực hiện bài
tập trước đó. Ban đầu là cơ chế giải phóng năng lượng từ Photpho Creatin, tiếp
đến là quá trình gluco phân (ở 1 2 phút tiếp theo) sau đó là quá trình hô hấp (quá
trình ưa khí) mới phát huy tác dụng từ phút thứ 3 thứ 4. Trong các bài tập lặp lại
tốc độ dưới tới hạn và tới hạn, khi thời gian bài tập ngắn dưới 2 phút các quá
trình hô hấp chưa kịp phát huy ở mức đầy đủ và hoạt động diễn ra trong điều
kiện thiếu oxy. Nếu thời gian nghỉ giữa quãng ngắn thì lần thực hiện bài tập
tiếp theo sẽ xảy ra trên nền của quá trình hô hấp chưa giảm đi đáng kể và năng
lượng cho hoạt động dần được đảm bảo bằng cơ chế ưa khí. Trong bài tập lặp
lại với tốc độ trên tới hạn với quãng nghỉ không đủ để thanh toán nợ oxy thì các
lần lặp lại bài tập tiếp theo sẽ diễn ra trên nền nợ oxy chưa được thanh toán và
nợ oxy sẽ tích lũy và tăng lên nhanh chóng sau mỗi lần lặp lại bài tập hoạt động
ngày càng mang tính chất yếm khí. Các loại bài tập này tuy với số lần lặp lại
không lớn, nhưng thuộc những bài tập nặng, tác động rất mạnh đối với cơ thể.
1.2.5.4. Tính chất nghỉ ngơi
Nghỉ ngơi giữa quãng có thể là nghỉ ngơi tích cực và nghỉ ngơi tiêu cực
(thụ động).
Nghỉ ngơi tích cực: tức là bài tập vẫn tiếp tục với cường độ thấp hơn
(chạy nhẹ nhàng, bơi thả lỏng…).
Nghỉ ngơi tiêu cực (thụ động): tức là không tiếp tục bài tập dưới hình
thức nào.
Các hình thức nghỉ ngơi tích cực khác nhau được coi là những biện pháp
tốt nhất để tránh hình thức chuyển đổi từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động và
ngược lại để duy trì trạng thái ở mức cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thúc đẩy nhanhh quá trình hồi phục. Song sau lần thực hiện bài tập không
nên nghỉ 1 cách thụ động (ngồi, nằm..), trừ trường hợp có những quãng nghỉ dài,
nhưng cũng phải kết hợp với nghỉ ngơi tích cực.
1.2.5.5. Số lần lặp lại
Trong việc huấn luyện để phát triển sức bền chung cũng như sức bền
chuyên môn. Các bài tập thường được lặp lại với rất nhiều cách và cấu trúc
khác nhau. Trong các bài ưa khí, thời gian thực hiện bài tập (mỗi lần lặp lại)
tương đối ngắn, thì số lần lặp lại phải tương đối lớn. Ngược lại trong các bài
tập yếm khí, việc tăng số lần lặp lại phải hết sức thận trọng và chỉ giới hạn
trong một phạm vi nhất định.
như vậy, số lần lặp lại là một trong những yếu tố quy định lượng vận
động, tạo nên kết quả tổng hợp của bài tập. việc xác định số lần lặp lại phụ
15
- thuộc vào: Mục đích của bài tập, cường độ và thời gian thực hiện bài tập trong
mỗi lần lặp lại, trình độ tập luyện của VĐV.
Trong rất nhiều trường hợp, hiệu quả chính của bài tập phụ thuộc vào số
lần lặp lại cuối cùng. Vì vậy, nếu quy dịnh số lần không đúng thì hiệu quả cúa
bài tập sẽ giảm đi rất nhiều. Một trong những căn cứ đẻ xác định số lần lặp lại
là đảm bảo cho tốc độ thực hiện bài tập trong mỗi lần lặp lại trong những lần
lặp lại cuối cùng không bị giảm đi đáng kể.
Trên đây đã trình bày một cách sơ lược ý nghĩa và tác dụng của các yếu tố
của lượng vận động, sự vận dụng chúng trong thưc tiễn để hình thành những
phương pháp cụ thể là một việc làm khá phức tạp, vì không cần phải thay đổi
điều chỉnh 1 mà cả 5 yếu tố đó trong một cấu trúc hợp lý.
1.3. Đặc điểm huấn luyện chạy cự ly 800m.
1.3.1. Yếu tố kỹ thuật
Trong chạy cự ly 800m, kỹ thuật đóng vai trò quan trọng đến thành tích thể
thao, kỹ thuật trong chạy gồm kỹ thuật xuất phát, tăng tốc độ sau xuất phát,
chạy giữa quãng, về đích và dừng lại sau khi chạy.
Sau khi xuất phát, VĐV bắt đầu chạy và cố gắng chạy chiếm vị trí sát mép
trong đường chạy, VĐV giữ tư thế nghiêng thân để tăng tốc độ, sau đó thân trên
dần dần thẳng trở lại tư thế bình thường để chuyển sang chạy với nhịp điệu
đều hơn ở giữa quãng, lúc này độ ngả thân trên không quá 40 – 50. Với độ ngả
như vậy, độ dài tự nhiên của bước chạy được duy trì dễ dàng. Thân trên ngả về
trước quá nhiều sẽ gây khó khăn cho việc đưa chân về trước và làm giảm độ dài
bước chạy, giảm tốc độ chạy. hơn nữa, độ ngả quá nhiều còn làm cho cơ giữ
thân trên thường xuyên bị căng thẳng. Độ ngả thân trên thay đổi trong giới hạn
20 – 30. Nó tăng lên lúc đạp sau và giảm đi trong pha bay. Vị trí của đầu ảnh
hưởng đáng kể đến tư thế của thân trên. Hoạt động của tay góp phần giữ thăng
bằng và tạo điều kiện tăng hay giảm nhịp điệu chạy. trong lúc chạy, biên độ
đánh tay tùy thuộc vào tốc độ chạy. Tốc độ càng cao, đánh tay càng rộng và
nhanh.
Về đích: việc tăng tốc độ về đích được đặc trưng bởi việc tăng tần số
bước, đánh tay mạnh hơn và hơi tăng độ ngả của thân trên. Sau khi qua đích,
VĐV không được dừng lại đột ngột mà chuyển sang chạy chậm và sau đó là đi
bộ dần dần, chuyển cơ thể vào trạng thái tương đối yên tĩnh.
1.3.2. Yếu tố chiến thuật
Trong các môn thể thao, chiến thuật đóng vai trò quan trọng không thể thiếu,
sử dụng chiến thuật tốt, nó có thể thay đổi toàn bộ tình thế, chuyển từ mạnh
sang yếu và ngược lại. Trong thực tế, chiến thuật chỉ áp dụng khi sự chênh lệch
về trình độ của các VĐV tương đương nhau thì mới có hiệu quả và ngược lại.
chiến thuật là sự tổng hợp các phương pháp sử dụng thủ pháp kỹ thuật phù hợp
16
- với nhiệm vụ thi đấu. Chiến thuật nhằm sử dụng hợp lý sức mạnh, khả năng
của VĐV. Sử dụng tối đa những sai lầm của đối phương trong quá trình thi đấu.
huấn luyện chiến thuật là cả một quá trình hình thành, phát triển ở VĐV.
Phương pháp giải quyết những nhiệm vụ chiến thuật hợp lý nhất trong khi
tham gia thi đấu và phát triển năng lực chuyên môn có ý nghĩa quyết định đến
hiệu quả những nhiệm vụ đó.
1.3.3. Ảnh hưởng của trạng thái tâm lý đến thành tích thể thao
Thành tích thể thao, một phần phụ thuộc vào tâm lý, hay nói cách khác nó ảnh
hưởng mạnh đến thành tích thể thao. Chạy 800m là nội dung chạy với cường
độ gần tối đa, trữ lượng tốc độ tương đối lớn và mức độ rất cao. Do vậy, tâm
lý của VĐV không tốt, ức chế không thoải mái, không tập trung cao độ vào thi
đấu sẽ có những động tác và hoạt động thừa, làm cho cơ bắp thần kinh mệt mỏi
và khi tham gia thi đấu không phát huy được tất cả các nhóm cơ tham gia vào
hoạt động nên ảnh hưởng xấu đến thành tích. Ngược lại, nếu biết động viên,
kích thích tâm lý cho VĐV, làm cho VĐV hưng phấn thì thành tích của VĐV sẽ
tốt, có khi vượt ngoài dự đoán. Qua phân tích và tổng hợp các trạng thái tâm lý,
chúng ta nhận thấy phải lựa chọn một số biện pháp khắc phục trạng thái xấu,
phát huy những điểm mạnh nhằm nâng cao thành tích thể thao của VĐV một
cách hợp lý.
1.3.4. Đặc điểm phát triển thể lực.
Tố chất thể lực đặc trưng của cự ly chạy 800m là sức bền tốc độ. Vì vậy,
khi phân tích đặc điểm phát triển thể lực trong chạy cự ly 800m, chúng tôi đi sâu
phân tích về đặc điểm phát triển sức mạnh tốc độ khi tập luyện cho VĐV cự ly
này.
1.4. Phương pháp phát triển sức bền tốc độ cự ly chạy 800m.
Ở cự ly chạy 800m (cự ly trung bình thuộc vùng công suất gần cực đại) thì
yếu tố quan trọng của sức bền là những biến đổi của môi trường bên trong cơ
thể (sự tích lũy lượng axit và dioxxit các bon trong máu).
Những biến đổi đột ngột thành phần hóa học trong máu ảnh hưởng đến các
trung tâm thần kinh, làm giảm sút trạng thái của chúng.
Đặc điểm hệ năng lượng trong cự ly chạy 800m là: 65% sử dụng năng lượng
yếm khí và 35% sử dụng năng lượng ưa khí.
Như vậy, việc giáo dục sức bền trong cự ly chạy 800m đồng nghĩa với việc
chúng ta phải nâng cao được khả năng yếm khí và ưa khí. Để cơ thể hoạt động
trong điều kiện yếm khí lâu dài phải dựa trên cơ sở giáo dục khả năng ưa khí, vì
hai cơ chế này luôn tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau.
1.4.1. Phương pháp giáo dục sức bền ưa khí
17
- Sức bền là khả năng thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước, hay
là năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể
chịu đựng được.
Chúng ta không thể hoạt động được mãi, cho nên yếu tố chi phối sức bền là
mệt mỏi, bởi vì mệt mỏi là nguyên nhân hạn chế thời gian hoạt động cho nên
cũng có thể định nghĩa như sau:
Sức bền là năng lực chống lại mệt mỏi trong một hoạt động nào đó. Như vậy
khái niệm sức bền luôn luôn liên quan đến khái niệm mệt mỏi.
Khả năng ưa khí của cơ thể là khả năng tạo ra nguồn năng lượng cho hoạt
động cơ bắp, thông qua quá trình oxy hóa các hoạt chất giàu năng lượng trong
cơ thể.
Để nâng cao khả năng ưa khí cần phải giải quyết những nhiệm vụ sau:
Nâng cao khả năng hấp thụ oxy tối đa (VO2max).
Nâng cao khả năng kéo dài và duy trì mức hấp thụ oxy tối đa.
Làm cho hệ tuần hoàn và hô hấp nhanh chóng đạt được mức hoạt động với
hiệu suất cao.
Để giải quyết những nhiệm vu trên, nguyên tắc chung của các phương pháp
tập luyện nâng cao khả năng ưa khí là sử dụng các bài tập trong đó hiệu suất
tuần hoàn và hô hấp có thể đạt mức tối đa và duy trì mức hấp thụ oxy trong thời
gian dài. Tất nhiên đó phải là những bài tập có sự than gia của nhiều nhóm cơ và
tốc độ gần tới hạn.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nâng cao khả năng ưa khí của cơ
thể là: Phương pháp đồng đều liên tục, phương pháp biến đổi và phương pháp
lặp lại.
+ Phương pháp đồng đều liên tục: được sử dụng rộng rãi trong các giai đoạn
đầu của quá trình huấn luyện nâng cao sức bền. Đặc điểm của phương pháp
này là thực hiện bài tập liên tục, không có nghỉ giữa quãng, với tốc độ ở mức
gần tới hạn và thời gian bài tập tương đối dài. Với phương pháp này, khả năng
phối hợp hoạt động của các hệ thống đảm bảo việc hấp thụ oxy được nâng lên
ngay trong quá trình vận động, đồng thời bài tập có thể đạt hiệu quả cao do
chúng tác động lên cơ thể trong thời gian tương đối lâu.
+ Phương pháp biến đổi và phương pháp lặp lại: thường được áp dụng đối
với các VĐV đã có trình độ tập luyện tương đối cao.
Phương pháp lặp lại (gọi chính xác hơn là phương pháp giãn cách) và phương
pháp biến đổi được áp dụng để phát triển sức bền và những phương pháp dựa
trên những bài tập yếm khí (tức là với tốc độ tới hạn, với thời gian mỗi lần
thực hiện bài tập tương đối ngắn và những quãng nghỉ giữa) có tính toán kỹ
lưỡng để phát huy tối đa khả năng ưa khí của cơ thể.
18
- Qua thực nghiệm người ta nhận thấy trong khoảng 20 – 30 giây sau mỗi lần
lặp lại bài tập yếm khí thì thông khí phổi và thể tích tâm thu đều tăng lên do đó
mức hấp thụ oxy cũng tăng lên. Nếu bài tập được lặp lại vào thời điểm mà các
chỉ số trên đang ở mức tương đối cao thì tác dụng kích thích đối với quá trình hô
hấp sẽ tăng dần từ lần lặp lại này đến lần lặp lại tiếp theo và mức hấp thụ oxy
sẽ tăng dần đến mức tối đa và trong nhiều trường hợp có thể vượt khả năng
hấp thụ oxy tối đa vốn có của VĐV.
Như vậy tác dụng của bài tập diễn ra chủ yếu là trong thời gian giãn cách
giữa các lần lặp lại bài tập, nghĩa là mức hấp thụ oxy cao nhất đạt vào lúc nghỉ
giữa quãng chứ không phải trong lúc thực hiện bài tập. Thông thường các bài
tập nâng cao sức bền ưa khí được bố trí vào cuối buổi tập, để sử dụng được
hiệu quả của các bài tập trước đó.
Nhưng cần phải xây dựng các bài tập loại này theo 1 hướng cấu trúc tương
đối ổn định về các thành phần của lượng vận động, tốt nhất cần có thay đổi và
đa dạng hóa để tránh sự đơn điệu và gây nhàm chán, nhưng chỉ thay đổi hình
thức bài tập.
Các phương pháp giãn cách và biến đổi được sử dụng để nâng cao khả năng
ưa khí thường có cấu trúc và thành phần của lượng vận động như nhau.
+ Cường độ hoạt động (tốc độ di chuyển): cao hơn mức tới hạn, tức là vào
khoảng 7580% tốc độ tối đa, sao cho cuối mỗi lần lặp lại tần số mạch đập
xấp xỉ 180 lần/phút (đây là tần số nhịp tim có hiệu suất cao nhất).
+ Độ dài cự ly: phải được lựa chọn sao cho thời gian không quá 1 – 1,5 phút,
chỉ trong trường hợp này hoạt động mới diễn ra trong điều kiện yếm khí và mới
đạt mức hấp thụ oxy tối đa vào lúc nghỉ giữa quãng.
+ Khoảng cách nghỉ giữa quãng: tùy theo trình độ tập luyện của VĐV, dao
động từ 45 – 120 giây, để cho lần lặp lại tiếp theo được bắt đầu trong lúc thể
tích tâm thu và mức hấp thụ oxy đang ở mức cao (tần số nhịp tim vào khoảng
120 140 lần/phút), trong mọi trường hợp quãng nghỉ không nên vượt quá 34
phút, khi mà hoạt động của tuần hoàn và hô hấp đã giảm đi nhiều).
+ Trong quãng nghỉ: nên tiếp tục hoạt động với cường độ thấp để tránh sự
chuyển đột ngột từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh và ngược lại, tăng nhanh
quá trình hồi phục, tạo điều kiện để thực hiện được khối lượng vận động lớn.
+ Số lần lặp lại: cần tính toán sao cho đảm bảo duy trì được sự ổn định trong
sự phối hợp hoạt động của các hệ thống cơ thể, thể hiện ở khả năng hấp thụ
oxy ổn định ở mức tương đối cao. Cụ thể là khi có hiện tượng giảm sức hấp
thụ oxy thì đó là tín hiệu ngừng bài tập.
Trong thực tế có thể dựa vào tần số mạch. Khi tốc độ bài tập vẫn không đổi,
nhưng tần số mạch đập tăng lên đáng kể so với lần lặp lại trước đó. Chứng tỏ
19
- đã xuất hiện sự rối loạn trong phối hợp hoạt động của hệ thống hô hấp và tuần
hoàn thì nên ngừng tập.
Về thực chất, các phương pháp nâng cao sức bền ưa khí cũng là phương pháp
nâng cao sức bền chung.
Ngoài ra nếu có thể sử dụng phương pháp biến tốc cũng giống phương pháp
giãn cách.
1.4.2. Phương pháp giáo dục sức bền yếm khí.
Sức bền là năng lực thực hiện 1 hoạt động với cường độ cho trước, hay là
năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể chịu đựng
được.
Chúng ta không thể hoạt động được mãi, cho nên yếu tố chi phối sức bền là
mệt mỏi, bởi vì mệt mỏi là nguyên nhân hạn chế thời gian hoạt động cho nên
cũng có thể định nghĩa như sau:
Sức bền là năng lực của cơ thể chống lại mệt mỏi trong 1 hoạt động nào đó.
Như vậy khái niệm sức bền luôn luôn liên quan đến khái niệm mệt mỏi.
Khả năng yếm khí là khả năng vận động của cơ thể trong điều kiện dựa vào
nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (các phản ứng giải phóng năng lượng
không có sự tham gia của oxy).
Nâng cao khả năng ưa khí cũng là điều kiện để nâng cao khả năng yếm khí
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những hoạt động yếm khí. Bởi vì,
như chúng ta đã biết, quá trình trả nợ oxy được diễn ra 1 phần ngay trong lúc
vận động và nếu có khả năng ưa khí cao thì phần trả nợ oxy trong lúc vận động
đó sẽ lớn hơn và hiệu quả hoạt động của cơ thể sẽ tăng lên.
Tuy nhiên nhiệm vụ chính ở đây là tăng cường khả năng giải phóng năng
lượng nhờ các phản ứng phân hủy Photpho Creatin và phân hủy glucoza, đồng
thời nâng cao khả năng chịu đựng trạng thái nợ oxy ở mức cao.
a. Các bài tập nhằm hoàn thiện cơ chế giải phóng năng lượng từ Photpho
Creatin có những đặc điểm sau:
Cường độ hoạt động: gần mức tối đa hoặc thấp hơn 1 chút, khoảng 95%
tốc độ tối đa.
Thời gian bài tập ngắn:Chỉ giới hạn từ 38 giây (chạy 3060m, bơi 815m).
Sở dĩ như vậy vì dự trữ Photpho Creatin trong cơ rất ít, sự phân hủy hợp chất
này diễn ra trong thời gian vài giây (38 giây) sau khi bắt đầu hoạt động.
Thời gian nghỉ giữa quãng: từ 23 phút, đó cũng là thời gian đủ để hồi phục
Photpho Creatin không tạo ra axit lactic, nên tốc độ trả nợ oxy diễn ra khá nhanh.
Nhưng do dự trữ Photpho Creatin trong cơ thể rất ít, nên sau 34 lần lặp lại thì
hoạt động của cơ chế gluco phân sẽ tăng lên, còn cơ chế Photpho Creatin sẽ
giảm đi. Để khắc phục hiện tượng này người ta chia các bài tập thành 2 nhóm,
20
nguon tai.lieu . vn