- Trang Chủ
- Sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Làm tăng hứng thú cho học sinh bằng việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn qua dạy học chủ đề Dinh dưỡng nitơ ở thực vật sinh học 11 – THPT
Xem mẫu
- PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Sinh học là môn học được lựa chọn trong nhóm môn khoa học tự nhiên ở
giai đoạn định hướng nghề nghiệp. Môn sinh học hình thành, phát triển ở học
sinh năng lực sinh học, đồng thời góp phần cùng các môn học, hoạt động giáo
dục khác hình thành và phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực
chung; đặc biệt là tình yêu thiên nhiên, niềm tự hào về thiên nhiên của quê
hương, đất nước. Hơn nữa sinh học là môn học rất gần gũi với thiên nhiên và
các kiến thức khoa học của nó được vận dụng rất nhiều vào thực tiễn cuộc
sống. Cũng từ thực tiễn học sinh nhận thức rõ những vấn đề về môi trường và
phát triển bền vững. Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, rèn luyện cho học
sinh thế giới quan khoa học, tính trung thực, tinh thần trách nhiệm, yêu lao động,
các năng lực tự chủ, tự học và sáng tạo.
Tuy nhiên qua thực tế giảng dạy bộ môn sinh học ở trường phổ thông tôi
nhận thấy có một thực trạng là phần lớn học sinh chưa chú trọng đến việc tìm
hiểu các kiến thức của bộ môn sinh học. Nhiều em còn học đối phó, thụ động,
chưa phát huy hết tiềm năng, sự sáng tạo và năng lực của bản thân. Điều đó có
thể do các em chưa có niềm say mê, yêu thích môn học, cũng có thể do việc
giảng dạy các kiến thức lý thuyết trên lớp đơn điệu, nhàm chán, khô khan và
phương pháp giảng dạy còn chưa phù hợp, chưa gây được hứng thú cho học
sinh.
Với mong muốn làm thay đổi thái độ, tư duy và phát huy năng lực tự học
của học sinh đối với bộ môn sinh học đồng thời thực hiện tốt nhiệm vụ năm
học 20202021 của bộ giáo dục và đào tạo là: Tiếp tục thực hiện nghị quyết số
29 NQ/TW của trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
trong đó chú trọng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển phẩm
chất, năng lực của học sinh, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học. Ngoài ra nghành giáo dục cũng chú trọng công tác giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức,lối sống cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục và trải nghiệm.
Vì vậy việc phát triển năng lực tự học cho học sinh có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Qua thực tiễn việc dạy học vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn
đề trong thực tiễn để tăng hứng thú cho học sinh đồng thời phát huy năng lực tự
học môn Sinh học ở trường THPT tôi đang dạy đã thu được những kết quả nhất
định. Từ những lí do trên tôi chọn đề tài: Làm tăng hứng thú cho học sinh
bằng việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn qua dạy học chủ đề
“Dinh dưỡng nitơ ở thực vật” sinh học 11 – THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm tăng hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn Sinh học, giúp
các em phát huy năng lực tự học của bản thân qua dạy học chủ đề “Dinh dưỡng
nitơ ở thực vật” sinh học 11 – THPT.
1
- Phát triển kỹ năng vận dụng kiến thức sinh học vào giải quyết các vấn
đề trong thực tiễn.
Hình thành và phát triển ở học sinh tình yêu thiên nhiên, yêu con người
và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, thực hiện đề tài này là cơ hội tốt giúp tác giả bồi dưỡng thêm
kiến thức để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy năng lực tự
học cho học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực tự học và hoạt động học tập theo
định hướng phát triển năng lực tự học làm cơ sở lí luận của đề tài.
Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá về thực trạng dạy học vận dụng kiến
thức vào thực tiễn nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh trong môn
sinh học ở các trường THPT trên địa bàn huyện.
Phân tích cấu trúc nội dung chủ đề “ Dinh dưỡng nitơ ở thực vật” sinh
học 11 – THPT, đề xuất những nội dung có thể vận dụng kiến thức vào thực
tiễn để phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự khám phá, phát triển tư duy Sinh
học và các kỹ năng Sinh học cho học sinh.
Thực nghiệm sư phạm vận dụng kiến thức vào thực tiễn qua dạy học
chủ đề “Dinh dưỡng nitơ ở thực vật” sinh học 11, để kiểm chứng hiệu quả của
đề tài và có thể áp dụng dạy học môn Sinh học ở trường THPT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thiết kế các hoạt động dạy học vận dụng kiến thức vào thực tiễn để
làm lăng hứng thú cho học sinh qua dạy học chủ đề “Dinh dưỡng nitơ ở thực
vật” sinh học 11 – THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu, thiết kế các dạng hoạt động
học tập theo định hướng bồi dưỡng và phát huy năng lực tự học qua dạy học
chủ đề “Dinh dưỡng nitơ ở thực vật” sinh học 11 – THPT. Trong đó chú trọng
vào các dạng hoạt động học tập như: Hoạt động tìm hiểu tranh ảnh, sơ đồ, xem
video; hoạt động thực hành, quan sát, phân tích kết quả thí nghiệm; hoạt động
trải nghiệm thực tế, hoạt động giải quyết các tình huống trong thực tiễn, đời
sống. Và xây dựng chủ đề “Dinh dưỡng nitơ ở thực vật” thuộc phần “Chuyển
hóa vật chất và năng lượng ở thực vật” để thực nghiệm.
Không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi huyện nơi tôi
đang công tác, với việc khảo sát điều tra các trường THPT trên địa bàn huyện để
thấy được thực trạng phát triển năng lực tự học cho HS qua dạy học môn Sinh
học.
2
- 5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
Trò chuyện, trao đổi với HS, đồng nghiệp.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp chuyên gia.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp tìm kiếm thông tin.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê.
Phương pháp nghiên cứu, quan sát các sản phẩm hoạt động của học
sinh.
6. Thời gian nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu trong thời gian học kỳ I (năm học 20202021) đối
với học sinh khối 11 trường THPT nơi tôi đang công tác.
7. Những đóng góp của đề tài
Đánh giá được thực trạng năng lực tự học môn sinh học của học sinh và
thực trạng dạy học nhằm phát triển năng lực tự học, định hướng nghề nghiệp
của học sinh THPT tỉnh Nghệ An.
Bổ sung và làm sáng tỏ được cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động
học tập theo định hướng phát huy năng lực tự học cho học sinh.
Thiết kế các hoạt động học tập làm tăng hứng thú cho học sinh bằng
việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn qua dạy học chủ đề “Dinh dưỡng
nitơ ở thực vật” sinh học 11 – THPT.
3
- PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
1.1. Trên thế giới.
Vấn đề tự học đã được nghiên cứu từ rất sớm ở nhiều góc độ khác nhau
trong lịch sử giáo dục trên thế giới. Nó vẫn mãi là vấn đề đáng quan tâm cho các
nhà nghiên cứu giáo dục hiện tại và tương lai bởi vì tự học có vai trò rất quan
trọng, quyết định mọi sự thành công trong học tập, là điều kiện đảm bảo cho
hiệu quả, chất lượng của quá trình dạy học, giáo dục.
Đầu thế kỉ XIX xuất hiện nhiều nghiên cứu về NLTH, những nghiên cứu
này thường tập trung mô tả quá trình tự học. Điển hình là nhà giáo dục Mỹ John
Dewey, ông đã phát biểu “HS là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương
tiện giáo dục”. Theo quan điểm, tư tưởng này một loạt các PPDH đã được sử
dụng: “Phương pháp tích cực”, “Phương pháp hợp tác”, “Phương pháp cá thể
hóa”…Nói chung đây là các phương pháp mà người học không chỉ lĩnh hội kiến
thức bằng việc nghe thầy giảng rồi học thuộc mà còn từ hoạt động tự học, tự
tìm tòi lĩnh hội kiến thức. GV là người trọng tài, đạo diễn thiết kế, tổ chức, chỉ
đạo cho HS biết cách làm, cách học.
Trong những năm 30 của thế kỷ XX, T. Makiguchi nhà sư phạm nổi tiếng
người Nhật Bản, đã cho rằng “Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình
học tập và đặt trách nhiệm học tập vào tay mỗi học sinh. Giáo dục xét như là
một quá trình hướng dẫn HS tự học”
Những năm cuối thế kỷ XX các nhà giáo dục tập trung nghiên cứu bản
chất NLTH theo thống kê của Candy (1987) đã xác định có ít nhất 30 khái niệm
khác nhau được sử dụng đồng nghĩa với khái niệm tự học. Một hướng nghiên
cứu khác lại tập trung xác định, phân loại đặc điểm của NLTH để nhận ra vai
trò của GV trong việc hướng dẫn HS tự học điển hình là Linda Leach,
Guglielmino, Candy. Tất cả đều hướng tới tìm ra hình thức tác động đến người
học để giúp cho người học thuận lợi trong quá trình tự học.
Cho đến ngày nay, vấn đề tự học vẫn được tiếp tục nghiên cứu, các tác
giả đã tập trung vào nghiên cứu quá trình nhận thức của chủ thể người học, tìm
ra những yếu tố chi phối đến quá trình tự học để từ đó tìm ra các biện pháp tác
động tích cực đến quá trình tự học của người học.
1.2. Ở Việt Nam
4
- Thực tế, vấn đề tự học ở Việt Nam đã được chú ý từ lâu. Ngay từ thời
phong kiến, giáo dục chưa phát triển nhưng đất nước có nhiều nhân tài kiệt
xuất. Những nhân tài đó bên cạnh yếu tố được ông Đồ tài giỏi dạy dỗ, thì yếu
tố quyết định đều là tự học của bản thân. Vì vậy mà người ta coi trọng việc tự
học, nêu cao những tấm gương tự học thành tài. Vào thời kì thực dân Pháp đô
hộ, phương pháp dạy học vẫn chỉ là truyền thụ kiến thức một chiều; vấn đề tự
học, NLTH vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu. Khi cách mạng tháng tám năm
1945 thành công, nền giáo dục nước ta sang một trang mới; Chủ tịch Hồ Chí
Minh vừa là người khởi xướng vừa là tấm gương về tinh thần tự học cũng như
phương pháp dạy học. Người từng nói “còn sống thì phải học” và cho rằng “về
cách học phải lấy tự học làm cốt”. Người cho rằng học tập giúp con người tiến
bộ, nâng cao phẩm chất, mở rộng hiểu biết, làm thay đổi hiệu quả lao động. Từ
những năm 90 của thế kỉ XX những nghiên cứu về tự học đã được nhiều tác giả
trình bày trực tiếp hoặc gián tiếp trong các công trình tâm lí học, giáo dục học,
phương pháp dạy học bộ môn. Một số tác giả có công trình tiêu biểu là tác giả
Nguyễn Cảnh Toàn, Trần Kiều, Nguyễn Bá Kim… Theo tác giả Nguyễn Cảnh
Toàn “Học bao giờ cũng gắn với tự học, tự rèn luyện để biến đổi nhân cách của
mình. Người dạy giỏi là người dạy cho HS biết cách tự học, tự nghiên cứu, tự
giáo dục”. Các tác giả: Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tạo, Bùi Tưởng đã khẳng định:
“Năng lực tự học của trò dù còn đang phát triển vẫn là nội lực quyết định sự
phát triển của bản thân người học. Thầy là ngọai lực, là tác nhân hướng dẫn, tổ
chức đạo diễn cho trò tự học…”
Nhóm nghiên cứu ở Khoa Tâm lý Giáo dục Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, khi nghiên cứu vấn đề tự học, tác giả đã đề cập đến NLTH thông qua
việc tập trung rèn luyện kĩ năng, tác giả chia kĩ năng tự hoc thành 4 nhóm, đó là
nhóm kỹ năng định hướng, nhóm kỹ năng lập kế hoạch học tập, nhóm kỹ năng
thực hiện kế hoạch và nhóm kỹ năng kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay đã đặt ra cho nền giáo dục nước nhà những yêu cầu mới. Một
trong những nội dung đổi mới được đề cập nhiều hơn cả là phương pháp dạy
và học, nhất là phương pháp tự học và phát huy NLTH của người học
2. Cơ sở khoa học
2.1. Cơ sở lý luận
Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã được xây dựng theo định
hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học, trong đó tự học là một
trong những năng lực chung thuộc mục tiêu giáo dục hiện đại. Để việc đổi mới
giáo dục trong đó đổi mới PPDH theo định hướng phát huy tính tích cực nhận
thức của HS và bồi dưỡng phương pháp học tập mà trọng tâm là tự học để họ
tự học suốt đời. Dạy học chủ yếu là dạy cách học, dạy cách tư duy, dạy
phương pháp tự học. GV cần giúp cho từng HS thay đổi triệt để quan niệm và
PP học tập phù hợp với yêu cầu mới mà mỗi người cần phải học tập, học tập
5
- suốt đời, biết phát huy cao độ tiềm năng của bản thân. Vì vậy bồi dưỡng và
phát huy NLTH cho HS khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông là một
công việc có vị trí rất quan trọng. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều
con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi HS mới có thể bù đắp được những
thiếu khuyết về tri thức, về đời sống xã hội. Từ đó HS có được sự tự tin trong
đời sống và công việc.
Vậy để phát triển và nâng cao NLTH của HS THPT đáp ứng với chương
trình giáo dục phổ thông mới thì việc làm tăng hứng thú của HS trong quá trình
dạy học có vai trò đặc biệt quan trọng.
Hứng thú có nghĩa là tâm trạng vui vẻ, thích thú, hào hứng của con người
đối với một hoạt động nào đó. Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ
làm việc có hiệu quả hơn, dễ thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú còn chính
là động lực thúc đẩy hoạt động của con người đi sâu vào bản chất của đối
tượng nhận thức mà không dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, nó đòi hỏi con
người phải hoạt động tích cực, chịu khó tìm tòi sáng tạo. Vì thế, nếu giáo viên
khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho HS thì sẽ tạo ra động cơ học tập giúp
các em vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt được kết quả học tập tốt nhất,
khi đó các em sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép
buộc. Khi hứng thú học tập, trong các tiết học các em sẽ hăng hái trả lời các câu
hỏi của GV, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước
những vấn đề nêu ra. Không những thế các em còn chủ động vận dụng kiến
thức, kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung vào vấn đề đang
học…Vì vậy khi HS hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi đua
học tập sôi nổi, tích cực say mê nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi…đây chính là một
trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng và chúng tôi tin rằng quá trình
dạy học nhất định sẽ đạt kết quả cao.
Bất kì môn học nào cũng cần phải có hứng thú thì HS mới có thể tiếp cận
bài học một cách tốt nhất. Đặc biệt với môn Sinh, một môn học nặng về lý
thuyết, kiến thức nhàm chán, khô khan thì việc tạo hứng thú cho HS là một trong
những điều đầu tiên GV cần làm. Vì vậy khi lên lớp, GV không phải chỉ truyền
tải kiến thức mà quan trọng hơn chính là phải không ngừng tìm tòi đổi mới các
phương pháp dạy học để tạo hứng thú cho các em. Có như vậy mới phát huy
được tính tích cực chủ động, độc lập sáng tạo của người học. Khi HS có hứng
thú với môn học, GV sẽ dễ dàng định hướng cho các em phương pháp tự học, tự
tìm tòi, rèn luyện các kĩ năng tư duy logic, sáng tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề,
kĩ năng thuyết trình, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin…Như vậy người dạy
phải tìm ra phương pháp dạy học gây được hứng thú cho người học để các em
chủ động tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá chiếm lĩnh kiến thức.
Phương pháp dạy học vận dụng kiến thức Sinh học vào thực tiễn là để các em
áp dụng nguyên tắc học thông qua hành ở mọi lúc, mọi nơi, làm cho bài học
thêm sinh động, có ý nghĩa hơn, cho các em thấy được “học mà chơi, chơi mà
6
- học”. Hứng thú sẽ nảy sinh khi các em được cùng làm việc trong một nhóm, tự
mình tìm hiểu, nghiên cứu thiết kế một phần của bài học, tự mình thuyết trình
về những vấn đề đã nghiên cứu, các em sẽ ý thức được vai trò làm chủ và sẽ tự
tin hơn trong học tập.
Phương pháp dạy học vận dụng kiến thức sinh học để giải quyết một số
vấn đề trong thực tiễn là cách dạy học tích cực, bổ ích và hiệu quả, nối liền
bục giảng với thực tiễn đời sống, giúp HS kiểm chứng các kiến thức đã học,
đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Qua đó còn
giúp HS phát triển cân đối về trí tuệ, đạo đức và kỹ năng sống đúng như định
hướng giáo dục hiện nay.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Qua quá trình khảo sát hứng thú học tập môn sinh ở một số lớp 11 tại
trường THPT nơi tôi đang công tác, thu được kết quả ở bảng 1 (Phiếu khảo sát
lấy ý kiến HS : Xem phụ lục 1)
Bảng 1: Kết quả khảo sát hứng thú học tập môn sinh ở một số lớp 11
Lớp TSHS Rất Thích Không thích
thích
SL % SL % SL %
11A4 41 1 2.44 8 19.51 32 78.05
11A1 39 2 5.13 10 25.64 27 69.23
11B1 40 0 0 11 27.50 29 72.50
11B2 38 1 2.63 7 18.42 30 78.95
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm môn sinh học, ở một số lớp 11 thể
hiện ở bảng 2 (Bộ câu hỏi khảo sát chất lượng đầu năm: Xem phụ lục 2)
Bảng 2: Phân phối kết quả khảo sát chất lượng và % học sinh đạt điểm
Xi trở xuống
Điểm Xi
Lớp Sĩ số 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Phân phối kết quả kiểm tra
41
11A4 0 0 2 9 12 15 2 1 0 0
40
11B1 0 1 2 11 15 8 1 2 0 0
39
11A1 0 1 3 8 14 9 3 1 0 0
7
- 38
11B2 0 2 3 7 12 10 2 2 0 0
Tỉ lệ % học sinh đạt điểm Xi trở xuống
41
11A4 0.0 0.0 4.88 21.95 29.27 36.58 4.88 2.44 0.0 0.0
40
11B1 0.0 2.50 5.00 27.50 37.50 20.00 2.50 5.00 0.0 0.0
39
11A1 0.0 2.56 7.69 20.51 35.90 23.09 7.69 2.56 0.0 0.0
38
11B2 0.0 5.26 7.89 18.42 31.59 26.32 5.26 5.26 0.0 0.0
Qua bảng số liệu trên chúng tôi đánh giá, đa số HS các lớp chưa hứng thú
đối với môn Sinh học (lớp 11A4 là 78,05%; lớp 11A1 là 69,23%; lớp 11B1 là
72,50%; lớp 11B2 là 78,95%). Điều đó được thể hiện qua kết quả điểm kiểm tra
đầu năm học: số HS đạt điểm dưới 5 chiếm tỉ lệ tương đối cao, lớp 11A4 là
26,83%; lớp 11B1 là 35%; lớp 11A1 là 30,76%, lớp 11B2 là 31,57. Số HS đạt
điểm 7 và 8 chiếm tỉ lệ thấp: lớp 11A4 là 7,32%; lớp 11B1 là 7,5%. Ngoài ra,
không có lớp nào có HS đạt điểm 9 và 10.
Khi được giáo viên phỏng vấn một số HS không có hứng thú các em trả lời
do nhiều nguyên nhân: do kiến thức lí thuyết nhiều, do các em không chọn môn
Sinh để tính điểm vào các trường đại học, do chưa có cách học phù hợp, do
chưa có đủ tài liệu và các phương tiện hỗ trợ học tập, do không có thời gian, do
áp lực thi cử… đặc biệt do các em gặp khó khăn trong việc vận dụng kiến thức
vào thực tiễn. Vì vậy trong dạy học Sinh học, việc rèn luyện và nâng cao cho
HS kỹ năng vận dụng kiến thức để giải quyết một số vấn đề thực tiễn là rất
thiết thực và cần phải đặc biệt quan tâm, góp phần nâng cao chất lượng của
hoạt động dạy học. Đây là cơ sở thực tiễn cho các đề xuất nghiên cứu của đề
tài.
8
- 9
- CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Những vấn đề cơ bản trong dạy học vận dụng kiến thức sinh học
vào thực tiễn.
1.1. Thực trạng dạy học môn sinh học hiện nay.
1.1.1. Thuận lợi
Các kiến thức của môn Sinh học rất gần gũi với thiên nhiên, với cuộc
sống dễ gây hứng thú cho HS trong quá trình học tập đồng thời phát huy ở HS
kỹ năng vận dụng các kiến thức đó vào thực tiễn.
Phần lớn các em rất yêu thích và rất muốn khám phá những bí ẩn của tự
nhiên, những điều kì diệu của sự sống.
Trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0, khoa học kỹ thuật phát triển
nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi để HS phát huy khả năng tự học, tự tìm
kiếm thông tin.
Việc đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của HS được sự quan tâm, ủng hộ của nhà trường. Đặc biệt đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực đang được khuyến
khích thực hiện tại các trường THPT.
1.1.2. Khó khăn
1.1.2.1. Về phía học sinh
Đa số HS lớp 11 được điều tra tại trường THPT trên địa bàn huyện nơi tôi
đang công tác, chưa thực sự yêu thích môn Sinh học và chưa tự tìm được
phương pháp học hiệu quả, đặc biệt là khi vận dụng lý thuyết vào thực tiễn.
Không những thế nhiều HS không chọn môn Sinh để xét điểm vào các trường
đại học, do vậy chỉ có một số ít HS quan tâm đến môn Sinh chủ yếu là những
HS xác định đi thi học sinh giỏi, HS lấy điểm để xét vào đại học: còn phần lớn
HS chỉ quan tâm đến môn Sinh khi chuẩn bị kiểm tra, đánh giá. Hầu hết các em
chưa định hình được phương pháp học, phương pháp hệ thống hóa kiến thức,
chưa hình thành được kĩ năng trả lời những câu hỏi vận dụng thực tế như thế
nào để đạt kết quả tôt nhất.
1.1.2.2. Về phía giáo viên
Trong quá trình dạy học GV chỉ tập trung vào các kiến thức và kĩ năng cần
nắm trong bài để phục vụ cho kiểm tra, thi cử mà chưa thực sự quan tâm đến
việc nâng cao cho HS kỹ năng vận dụng các kiến thức Sinh học vào thực tiễn.
Nhiều GV dạy học theo lối giải thích minh họa, coi trọng việc đi sâu vào lí
thuyết mà chưa vận dụng có hiệu quả vào thực tế. Trong quá trình dạy học, GV
thường không chú ý dành thời gian để HS đưa ra các khúc mắc và giải đáp cho
các em về các hiện tượng mà các em quan sát được trong đời sống. Ngoài ra
việc đổi mới phương pháp dạy học còn nhiều vướng mắc trong định hướng cho
10
- HS cách học và vận dụng nó vào thực tiễn như thế nào cho môn học có hiệu
quả.
1.2. Khái quát về vận dụng kiến thức sinh học vào thực tiễn
1.2.1. Kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong dạy học
Vận dụng kiến thức vào thực tiễn bao gồm việc vận dụng kiến thức đã
có để giải quyết các vấn đề thuộc về nhận thức và việc vận dụng kiến thức
vào thực tiễn sản xuất trong đời sống, sinh hoạt hàng ngày như làm bài tập, bài
thực hành, làm thí nghiệm, viết báo cáo, xử lí tình huống, áp dụng trong chăn
nuôi, trồng trọt, giải thích các hiện tượng tự nhiên, các vấn đề Sinh học trong
nông nghiệp… Kết quả cuối cùng của việc học tập phải được thể hiện chính
ngay trong thực tiễn cuộc sống, hoặc là HS vận dụng kiến thức đã học để nhận
thức, cải tạo thực tiễn hoặc trên cơ sở kiến thức và phương pháp đã có, nghiên
cứu, khám phá, thu thập thêm kiến thức mới.
Kĩ năng vận dụng kiến thức thúc đẩy việc gắn kiến thức và thực hành
trong nhà trường với thực tiễn đời sống, đẩy mạnh dạy học theo phương châm
“học đi đôi với hành”
Tóm lại, kĩ năng vân dụng kiến thức là khả năng của bản thân người học
huy động, sử dụng những kiến thức đã học trên lớp hoặc qua trải nghiệm thực
tế của cuộc sống để giải quyết những vấn đề đặt ra trong những tình huống đa
dạng và phức tạp của thực tiễn sản xuất, đời sống và sinh hoạt một cách có
hiệu quả.
1.2.2. Vai trò của kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong dạy
học
* Vận dụng kiến thức là khâu quan trọng nhất của quá trình nhận thức và
học tập. Quá trình nhận thức học tập diễn ra theo các cấp độ sau:
+ Tri giác tài liệu: là giai đoạn khởi đầu nhưng có ý nghĩa định hướng cho
acr quá trình nhận thức về sau.
+ Thông hiểu tài liệu: là giai đoạn chiếm lĩnh kiến thức ở mức độ đơn
giản nhất.
+ Ghi nhớ kiến thức: là giai đoạn hiểu kiến thức một cách thấu đáo và
đầy đủ hơn.
+ Luyện tập vận dụng kiến thức vào thực tiễn
Mỗi cấp độ có một tác dụng riêng, một thế mạnh riêng nhưng đều có mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một quá trình nhận thức và học tập
toàn vẹn. Tầm quan trọng của việc vận dụng kiến thức không chỉ đối với quá
trình thực hành ứng dụng mà còn có ý nghĩa ngay cả với quá trình tiếp nhận
thêm tri thức mới. Muốn đạt được kiến thức mới thì cũng phải biết vận dụng
kiến thức cũ, kiến thức cũ vốn là mục đích trong lần học trước nay trở thành
11
- phương tiện cho lần học này hoặc cũng có thể muốn có những kĩ năng mới thì
phải vận dụng thành thạo các kĩ năng cũ. Hơn nữa vận dụng kiến thức còn là cơ
sở cho sự sáng tạo kĩ thuật, tạo ra các giải pháp khoa học góp phần nâng cao
nhận thức, cải tạo thực tiễn và cải tạo thế giới.
* Vận dụng kiến thức đòi hỏi sự huy động tổng hợp nhiều năng lực của
người học, hình thành và phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo.
Theo quan điểm của những nhà tâm lí học: Năng lực là tổng hợp các đặc
điểm, thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt
động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
Người học muốn hoàn thiện quá trình nhận thức, học tập của mình thì
phải biết vận dụng kiên thức, khi đó người học phải huy động tổng hợp các
năng lực như: năng lực phát hiện vấn đề, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực
giải quyết vấn đề, năng lực độc lập trong suy nghĩ và làm việc…Những năng
lực đó là những tố chất để hình thành một tư duy sáng tạo. Muốn vận dụng tốt
kiến thức không thể thiếu một tư duy sáng tạo.
* Vận dụng kiến thức là thể hiện tư duy của HS: Khi người học vận
dụng kiên thức vào một đối tượng, một tình huống cụ thể, con người phải phát
huy hết năng lực tư duy của mình. Từ chỗ tự mình phát hiện ra vấn đề đến quá
trình tìm hiểu, suy luận, khái quát hóa…để vận dụng giải quyết vấn đề đều thể
hiện tư duy của HS ở các cấp độ khác nhau. Quá trình lĩnh hội kiến thức và vận
dụng kiến thức vào thực tiễn cũng như hiệu quả của việc vận dụng kiến thức
thể hiện những phẩm chất tư duy của HS. Vì vậy mà ở mỗi người học khả
năng vận dụng kiến thức là khác nhau do năng lực tư duy của mỗi HS là khác
nhau.
* Kỹ năng vận dụng kiến thức là một phẩm chất, một tiêu chí của mục
tiêu đào tạo con người năng động, sáng tạo trong nhà trường. Trong nhà trường
chúng ta hiện nay, có nhiều HS trình bày lại bài học khá đầy đủ, toàn vẹn những
điều ghi nhận được từ thầy cô giáo hoặc đã được đọc từ các tài liệu nhưng lại
rất lúng túng khi vận dụng vào các vấn đề thực tiễn cuộc sống. Để khắc phục
tình trạng đó, chúng ta nên tăng cường công tác thực hành, gắn kiến thức với
thực tiễn thông qua các bài tập tình huống, các hiện tượng thực tiễn liên quan
đến bài học. Khi thực hành buộc HS phải phát huy mọi năng lực để vận dụng
kiến thức sao cho có hiệu quả. Vì vậy việc rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức cho HS trong giờ học rất phù hợp với mục tiêu dạy học của nhà trường.
1.3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn cho học sinh
Để rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho HS trong dạy
học Sinh học, tôi đã sử dụng một số biện pháp như sau:
Sử dụng câu hỏi bài tập.
12
- Sử dụng bài tập tình huống.
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Dạy học trải nghiệm thực tế.
Dạy học gợi mở vấn đáp.
Dạy học thực hành, thí nghiệm.
2. Một số vấn đề chung về dạy học chủ đề
2.1. Khái niệm dạy học theo chủ đề
Dạy học theo chủ đề là hình thức tìm tòi những khái niệm, đơn vị kiến
thức nội dung bài học, chủ đề… có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau, dựa trên
cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn
học hoặc các hợp phần của môn học đó (nghĩa là con đường dạy học những nội
dung từ một số đơn vị, môn học, bài học có liên hệ với nhau) làm thành nội
dung học trong một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể
tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và
hiện đại, ở đó GV không dạy học chỉ bằng truyền thụ kiến thức mà chủ yếu là
hướng dẫn HS tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các
nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Tùy theo nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay mà việc xây dựng
chủ đề dạy học hiện nay có thể là trong một môn học hay chủ đề liên môn.
Ưu điểm của dạy học chủ đề: Các nhiệm vụ học tập được giao, học sinh
quyết định chiến lược học tập với sự chủ động hỗ trợ, hợp tác của giáo viên;
hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh nội dung kiến thức khoa học, hiểu biết tiến trình
khoa học và rèn luyện kĩ năng tiến trình khoa suy luận, áp dụng thực tiễn ; thống
nhất giữa tổ chức dạy học từ một phần trong chương trình học với vận dụng
thông qua gắn liền lí thuyết với thực hành; kiến thức trong dạy học chủ đề thu
được là các khái niệm trong một mối liên hệ mạng lưới với nhau ; trình độ có
thể đạt được ở mức độ cao như phân tích, tổng hợp, đánh giá, vận dụng giải
quyết các vấn đề có liên quan; kết thúc một chủ đề học sinh có được một tổng
thể kiến thức mới, tinh giản chặt chẽ và khác với nội dung trong sách giáo khoa,
khơi dậy niềm say mê khoa học; kiến thức gần gũi với thực tiễn hơn do học
sinh phải cập nhật thông tin khi thực hiện chủ đề; rèn luyện các năng lực giao
tiếp, hợp tác, làm việc nhóm… tự tin khi trình bày báo cáo.
2.2. Các bước xây dựng chủ đề dạy học
Bước 1: Xác định chủ đề
Bước 2: Xác định mục tiêu cần đạt của chủ đề
Bước 3: Xây dựng bảng mô tả
13
- Bước 4: Biên soạn câu hỏi/bài tập
Bước 5: Xây dựng kế hoạch thực hiện chủ đề
Bước 6: Tổ chức thực hiện chủ đề
* Thiết kế tiến trình dạy học gồm các hoạt động sau:
Hoạt động khởi động
Hoạt động hình thành kiến thức
Hoạt động luyện tập
Hoạt động vận dụng.
Hoạt động tìm tòi sáng tạo.
Với mỗi hoạt động cần có mục đích, nhiệm vụ học tập của học sinh, cách
thức tiến hành.
2.3. Tổ chức dạy học các chủ đề dạy học
Xây dựng chủ đề dạy học: Cắn cứ vào chương trình và sách giáo khoa
hiện hành, lựa chọn nội dung để xây dựng các chuyên đề dạy học phù hợp với
việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong điều kiện thực tế của nhà
trường. Trên cơ sở rà sát chuẩn kiến thức kĩ năng, thái độ theo chương trình
hiện hành và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương
pháp dạy học tích cực, xác định các năng lực phẩm chất có thể hình thành cho
học sinh trong mỗi chuyên đề xây dựng.
Biên soạn câu hỏi/bài tập: Với mỗi chuyên đề xây dựng, xác định và mô
tả 4 mức độ và yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao) của
mỗi loại câu hỏi và bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và
phẩm chất của học sinh trong dạy học. Trên cơ sở đó biên soạn các câu hỏi/bài
tập cụ thể theo mức độ yêu cầu đã mô tả để sử dụng trong quá trình tổ chức các
hoạt động dạy học và kiểm tra, đánh giá, luyện tập theo chuyên đề đã xây dựng.
Thiết kế tiến trình dạy học: Tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh để có thể thực hiện trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ thực
hiện một số hoạt động trong tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ thuật
dạy học được sử dụng. Mỗi hoạt động học có thể sử dụng một kĩ thuật dạy
học tích cực nào đó để tổ chức nhưng đều được thực hiện theo các bước như
sau:
+ Chuyển giao nhiệm vụ học tập
+ Thực hiện nhiệm vụ học tập
+ Báo cáo kết quả và thảo luận
+ Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
14
- Quá trình dạy học mỗi chủ đề được thiết kế thành các hoạt động học của
HS dưới dạng các nhiệm vụ học tập kế tiếp nhau, có thể được thực hiện trên
lớp hoặc ở nhà. HS tích cực, chủ động và sáng tạo trong việc thực hiện các
nhiệm vụ học tập dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của GV.
3. Thiết kế các hoạt động tự học làm tăng hứng thú cho học sinh
bằng việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn qua dạy học chủ đề
“Dinh dưỡng nitơ ở thực vật” Sinh học 11 THPT
3.1. Thiết kế các hoạt động tự học làm tăng hứng thú cho học sinh
3.1.1. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập gắn liền với thực tiễn thông
qua tìm hiểu tranh ảnh, sơ đồ, xem video.
* HĐ. Tìm hiểu vai trò sinh lí của nguyên tố nitơ.
HS: Quan sát các hình ảnh sau:
Lá thiếu nitơ Lá đủ nitơ
Hình 5.2. Dấu hiệu đói nitơ
15
- HS thảo luận nhóm và nêu vai trò của nitơ đối với thực vật? Từ đó hãy
cho biết thừa và thiếu nitơ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sinh trưởng và phát
triển ở thực vật?
Hướng dẫn trả lời:
Vai trò chung: Là một nguyên tố dinh dưỡng khoáng thiết yếu của thực
vật và được rễ cây hấp thụ ở dạng: NH4+, NO3.
Vai trò cấu trúc: Nitơ là thành phần của hầu hết các hợp chất trong cây
(prôtêin, axit nuclêic, diệp lục, ATP...) cấu tạo nên tế bào, cơ thể.
Vai trò điều tiết: Tham gia thành phần của các enzim, hoocmôn... →
tham gia điều tiết các quá trình sinh lí, hóa sinh trong tế bào, cơ thể thực vật
thông qua hoạt động xúc tác, cung cấp năng lượng và điều tiết trạng thái ngậm
của các phân tử prôtein trong tế bào chất.
+ Khi thiếu N cây sinh trưởng phát triển kém, diệp lục không hình thành,
lá chuyển màu vàng, đẻ nhánh và phân cành kém, hoạt động quang hợp và tích
lũy giảm sút nghiêm trọng, dẫn tới suy giảm năng suất.
+ Thừa N sẽ làm cây sinh trưởng quá mạnh, do thân lá tăng trưởng nhanh
mà mô cơ giới kém hình thành nên cây rất yếu, dễ lốp đổ, dễ bị sâu bệnh tấn
công. Ngoài ra sự dư thừa N trong sản phẩm cây trồng (đặc biệt là rau xanh) còn
gây tác hại lớn tới sức khỏe con người. Nếu N dư thừa ở dạng NO 3 làm mất
khả năng vận chuyển oxy của tế bào. Còn nếu ở dạng NO2 chất gây ung thư
rất mạnh.
* HĐ. Tìm hiểu nguồn cung cấp nitơ tự nhiên cho cây.
HS: Quan sát kênh hình sau, rồi trả lời câu hỏi:
Trong tự nhiên nguồn cung cấp nitơ cho cây có từ đâu ?
Hoàn thành PHT :
Nội dung Nitơ trong không khí Nitơ trong đất
Dạng tồn tại
Đặc điểm
Hướng dẫn trả lời:
16
- Trong tự nhiên có 2 nguồn cung cấp nitơ cho cây: nitơ trong không khí và
nitơ trong đất
Nội dung Nitơ trong không khí Nitơ trong đất
Dạng tồn Nitơ phân tử N2, nitơ trong Nitơ khoáng (nitơ vô cơ) trong các
tạ i NO, NO2 muối khoáng
Nitơ hữu cơ trong xác động thực
vật, vi sinh vật
Đặc điểm Cây không hấp thụ được Cây không hấp thụ được nitơ hữu
N2 cơ trong xác sinh vật
Nitơ trong NO, NO2 độc Rễ cây chỉ hấp thụ nitơ khoáng từ
hại đối với cây. đất dưới dạng NH4+, NO3
Nitơ dạng NH3 cây mới Nitơ hữu cơ biến đổi thành NH4+ và
đồng hóa được NO3 cây mới hấp thụ.
* HĐ. Hoạt động tìm hiểu quá trình chuyển hóa nitơ trong đất và cố định
nitơ.
HS hoạt động nhóm, quan sát kênh hình sau và trả lời các câu hỏi :
(1). Chỉ ra con đường chuyển hóa nitơ hữu cơ trong đất thành dạng nitơ
khoáng? Vì sao cần có quá trình chuyển hóa nitơ trong đất ?
(2). Thế nào là quá trình cố định nitơ ? Hãy chỉ ra con đường cố định nitơ
phân tử xảy ra trong đất và sản phẩm của quá trình đó?
Hướng dẫn trả lời:
(1). Chuyển hóa nitơ hữu cơ gồm:
+ Quá trình amon hóa:
Nitơ hữu cơ + vi khuẩn amôn hóa → NH4+
+ Quá trình nitrat hóa:
NH4+ + vi khuẩn nitrat hóa → NO3.
Vì trong đất tồn tại nhiều dạng nitơ khác nhau nhưng cây chỉ hấp thụ dạng
amoni và nitơrat, nên cần phải chuyển thành dạng nitơ mà cây dễ hấp thụ được.
17
- (2). Là quá trình liên kết N2 với H2 để hình thành nên NH3
Con đường cố định nitơ phân tử xảy ra trong đất:
N2 + vi khuẩn cố định nitơ → NH4+
Sản phẩm của con đường cố định nitơ phân tử là NH3 (NH4+)
* HĐ. Bổ sung kiến thức cho HS Dạy phần III. Quá trình chuyển hóa
nitơ trong đất và cố định nitơ.
GV cho HS quan sát 1 số hình ảnh về vi sinh vật có khả năng cố định
đạm.
Rễ cây họ đậu
* HĐ. Tìm hiểu phân bón với năng suất cây trồng và môi trường.
GV quay video đã chuẩn bị trước rồi chiếu cho HS xem:
Video về hai luống rau cải, cùng một giống, trồng trên cùng một mảnh
đất và cùng bón một loại phân đạm nhưng một luống rau cây mập, lá to và dài,
màu xanh đậm. Còn một luống cây còi cọc, lá nhỏ, màu vàng nhạt.
Video về các phương pháp bón phân cho cây trên đồng ruộng.
HS xem video rồi trả lời các câu hỏi sau:
(1). Thế nào là bón phân hợp lý cho cây ?
(2). Các phương pháp bón phân và cơ sở khoa học của chúng?
(3). Tại sao cần phải bón phân hợp lí cho cây trồng? Từ đó đề xuất được
các giải pháp trong việc bón phân hợp lí để vừa nâng cao năng suất cây trồng
vừa bảo vệ môi trường.
Hướng dẫn trả lời:
(1). Bón phân hợp lý: Bón đúng loại, đủ số lượng và tỉ lệ các thành phần
dinh dưỡng, đúng nhu cầu của giống, loài cây trồng; phù hợp với thời kì sinh
trưởng và phát triển của cây cũng như điều kiện đất đai và khí hậu.
(2). Các phương pháp bón:
Bón phân qua rễ. Cơ sở khoa học của phương pháp này là dựa vào khả
năng của rễ hấp thụ các ion khoáng từ đât.
18
- Bón phân qua lá. Cơ sở khoa học của phương pháp này là sự hấp thụ các
ion khoáng qua khí khổng.
(3). Bón phân hợp lí
Bón phân hợp lý có tác dụng làm tăng năng suất cây trồng và không gây ô
nhiễm môi trường.
Một số giải pháp trong việc bón phân hợp lí để vừa nâng cao năng suất
cây trồng vừa bảo vệ môi trường.
+ Trước khi bón phân ta phải: Nhìn trời, nhìn đất, nhìn cây. Nhìn trời để
xem thời tiết hôm đó như thế nào, có bón được phân không? Nhìn đất xem đất
loại nào, khô hay ướt để quyết định bón phân gì, bón như thế nào? Nhìn cây để
xem loại cây gì, đang ở thời kì nào, thiếu nguyên tố nào,…để chọn loại phân
bón cho phù hợp,…
+ Để tránh thất thoát khi bón đạm urê cho cây, nên áp dụng cách bón lấp
đất. Ngoài ra nên chia lượng phân đạm cần bón ra làm nhiều lần để bón và bón
vào lúc cây hoạt động mạnh là cách sử dụng hiệu quả nhất.
3.1.2. Xây dựng câu hỏi, bài tập dạng giải quyết các tình huống trong
thực tiễn đời sống.
*HĐ: Hoạt động khởi động.
Câu hỏi:
(1) Tại sao khi ruộng rau muống lá đã hơi ngả vàng mẹ bạn Hoa lại bón
phân đạm cho rau?
(2) Trong sản xuất nông nghiệp tại địa phương, các em thường thấy bà
con nông dân trồng cây ngô xen canh với cây đậu tương và kết hợp thả bèo hoa
dâu với trồng lúa. Việc làm này nhằm mục đích gì và dựa trên cơ sở khoa học
nào?
Với những câu hỏi nêu vấn đề liên quan đến những tình huống trong thực
tế như thế này HS rất hứng thú, tò mò muốn khám phá, tìm hiểu và sẵn sàng cho
các hoạt động học tập tích cực.
Dựa vào câu trả lời của HS, GV dẫn dắt vào chủ đề “Dinh dưỡng nitơ ở
thực vật”
*HĐ: Tìm hiểu quá trình chuyển hóa nitơ trong đất và cố định nitơ.
Câu hỏi:
(1). Tại sao sau trận mưa dài ngày, mẹ bạn Hà lại xới xáo đất trên bãi ngô?
(2). Trong sản xuất nông nghiệp tại địa phương, các em thường thấy bà
con nông dân trồng cây ngô xen canh với cây đậu tương và kết hợp thả bèo hoa
dâu với trồng lúa. Việc làm này nhằm mục đích gì và dựa trên cơ sở khoa học
nào?
19
- Hướng dẫn trả lời:
(1). Sau trận mưa dài ngày, đất bị nén chặt, thiếu ôxi tạo điều kiện cho các
vi sinh vật kị khí hoạt động chuyển nitrat thành nitơ phân tử, làm cho đất bị mất
đạm. Vì vậy sau trận mưa dài ngày, mẹ bạn Hà xới xáo đất trên bãi ngô đảm bảo
độ thoáng khí cho đất, ngăn chặn sự mất đạm.
(2). Trong sản xuất nông nghiệp tại địa phương, các em thường thấy bà
con nông dân trồng cây ngô xen canh với cây đậu tương và kết hợp thả bèo hoa
dâu với trồng lúa, vì:
Cây họ đậu có vi khuẩn nốt sần Rhizobium
Bèo hoa dâu có vi khuẩn lam
Các vi khuẩn trên là những vi khuẩn có khả năng cố định niơ.
* HĐ. Hoạt động luyện tập và vận dụng
Bài tập 1: Hãy đọc đoạn thông tin sau và trả lời các câu hỏi:
Theo các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu Khoa học Nông
nghiệp Quốc tế Nhật Bản và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế
Colombia đã cho rằng: Phần lớn phân bón nitơ được sử dụng rộng rãi hiện nay
sau khi bón phân vào đất chuyển thành axit nitric – chất sau đó trở thành ôxit nitơ
gây hiệu ứng nhà kính gấp 300 lần so với khí CO2.
(1). Nguồn nitơ dự trữ lớn nhất trên trái đất ở đâu?
A. Không khí B. Sinh vật C. Đại dương D. Đất đá
(2). Tại sao phân bón nitơ tạo nên chất khí gây hiệu ứng nhà kính gấp 300
lần so với khí CO2 nhưng nó vẫn thường xuyên được bón vào đất?
(3). Dựa vào kiến thức đã học hãy giải thích câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ.
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”?
Hướng dẫn trả lời:
(1). A – không khí
(2). Vì Nitơ là thành phần khoáng thiết yếu cho cây trồng vì: Ni tơ là thành
phần cấu tạo nên axitamin, protêin;
phospholipit, diệp lục, phitocrom; cấu trúc nên enzim quan trong.
(3). Lúa chiêm lấp ló có nghĩa là lúa đang cần dinh dưỡng cho quá trình
sinh trưởng. Khi có sấm tức là tạo sự phóng điện trong không khí, ở nhiệt độ
cao (khoảng 20000C), liên kết ba (N ≡ N) trong N2 bị bẻ gãy xẩy ra các quá trình
sau:
N2 + O2 NO
NO + O2 NO2
20
nguon tai.lieu . vn